Chuyện một thời - Các kiểu mốt
Oách như cán bộ
Kể cả cán bộ được đi công tác nước ngoài, không phải ai cũng có comple. Muốn có một bộ trang phục chỉn chu, họ thường phải lên phố Hàng Bột để mượn.
Tất cả những bộ đó đều được dùng lá trầu không để in một chữ "Kho" to đùng ở lưng quần và miệng túi áo trong. Do chưa có công nghệ giặt khô như bây giờ nên sau một đợt công tác, mọi người lại vo viên cho vào vali, nộp lại kho và bộ nào cũng nhăn nhúm.
Ngoài bộ comple, bộ sậu còn được mượn thêm cả một cái cà vạt (cũng nhăm nhúm nốt, vì không phải ai cũng biết thắt), một cái vali có khung đóng bằng gỗ, bọc vải giả da nặng đúng 4.5kg.
Hầu hết các bộ comple đều được đóng dấu chữ "Kho", vì vậy mới có chuyện vui rằng:
Có một đoàn ngoại giao 5 người, khi đến Liên Xô, việc đầu tiên sau khi nhận phòng là trút bộ comple ra để giặt là cho phẳng phiu. Đến chiều bà phục vụ đi các phòng gõ cửa, mồm luôn gọi (Ta - vơ - rít ) Kho có nghĩa là "Đồng chí Kho" vì cả 5 bộ đưa đi giặt đều có chữ KHO. Bà không biết trả cho ai, và bà nghĩ rằng cái tên Kho chắc hẳn là một cái tên rất phổ biến ở Việt Nam vậy. Một cán bộ đành phải biến báo nói với bà rằng cứ để ở phòng tôi rồi sau đó gọi 4 vị còn lại đến thử quần áo nhận về.
Một thời kỳ bao cấp khó khăn về kinh tế, chính vì vậy, khi ấy, sự lịch lãm của một người đàn ông thật hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào cách hành xử của anh ta, thay vì những bộ cánh phù phiếm bên ngoài.
Dẫu sao, chính nhờ thời kỳ khó khăn ấy, mà mỗi người lại có kỷ niệm đẹp và đáng nhớ hơn.
Thời bao cấp, tất cả các cán bộ đi công tác nước ngoài ngắn hay dài ngày đều phải lên phố Hàng Bột (Hà Nội) để mượn quần áo.
Thời bao cấp, tất cả các cán bộ đi công tác nước ngoài kể cả cán bộ ngoại giao ngắn hay dài ngày đều phải lên phố Hàng Bột (Hà Nội) để mượn quần áo.
Vào thời bao cấp, khoảng năm 60-70, những người được nhận công văn công tác nước ngoài cũng đều phải đi… mượn quần áo Nhà nước ở phố Hàng Bột, theo như nhiều người kể lại thì đó là một kho đồ của Bộ Tài chính. Trong đó có khoảng vài trăm bộ comple – là thứ hàng cực hiếm lúc bấy giờ, được may sẵn với đủ mọi kích cỡ. Đa số các bộ đồ này đều có chỉ có màu tím than hoặc xanh dương đậm, với chất liệu bằng kaki hoặc vải dạ, hầu hết là hàng viện trợ từ Mông Cổ, Liên Xô, Trung Quốc... Ngoài bộ comple, những người đi nước ngoài còn được mượn thêm cả sơ mi, quần âu, một cái cà vạt, 1 cái vali có đóng bằng gỗ bọc vải. Sang đến Liên Xô đoàn cán bộ được ở khách sạn Tháng Mười - và được bao cấp 100% như gửi thư không phải dán tem, giặt khô quần áo, sửa đồng hồ… tất cả đều được miễn phí hoàn toàn.
Để chỉn chu và đồng đều về trang phục, cán bộ xuất ngoại ngày đó đều mặc đồ nhà nước cấp Điểm hay của tất cả những bộ đó là để đánh dấu nên người quản kho đều dùng lá trầu không để in một chữ KHO to đùng ở phần lưng quần và miệng túi áo trong. Chính cái chữ KHO - ở ta thì dễ hiểu, sang Tây lại khó hiểu này đã khiến nhiều chuyện khá hài hước xảy ra.
Trang phục thường thấy thời bao cấp
Ở đó có một cái kho của Bộ Tài chính, chứa khoảng vài trăm bộ comple may sẵn các cỡ, đa số là màu tím than hoặc màu xanh cổ vịt, bằng khaki hoặc dạ, viện trợ của Mông Cổ hoặc Trung Quốc.Tất cả những bộ đó đều được dùng lá trầu không để in một chữ "Kho" to đùng ở lưng quần và miệng túi áo trong. Do chưa có công nghệ giặt khô như bây giờ nên sau một đợt công tác, mọi người lại vo viên cho vào vali, nộp lại kho và bộ nào cũng nhăn nhúm.
Ngoài bộ comple, bộ sậu còn được mượn thêm cả một cái cà vạt (cũng nhăm nhúm nốt, vì không phải ai cũng biết thắt), một cái vali có khung đóng bằng gỗ, bọc vải giả da nặng đúng 4.5kg.
Hầu hết các bộ comple đều được đóng dấu chữ "Kho", vì vậy mới có chuyện vui rằng:
Có một đoàn ngoại giao 5 người, khi đến Liên Xô, việc đầu tiên sau khi nhận phòng là trút bộ comple ra để giặt là cho phẳng phiu. Đến chiều bà phục vụ đi các phòng gõ cửa, mồm luôn gọi (Ta - vơ - rít ) Kho có nghĩa là "Đồng chí Kho" vì cả 5 bộ đưa đi giặt đều có chữ KHO. Bà không biết trả cho ai, và bà nghĩ rằng cái tên Kho chắc hẳn là một cái tên rất phổ biến ở Việt Nam vậy. Một cán bộ đành phải biến báo nói với bà rằng cứ để ở phòng tôi rồi sau đó gọi 4 vị còn lại đến thử quần áo nhận về.
Một thời kỳ bao cấp khó khăn về kinh tế, chính vì vậy, khi ấy, sự lịch lãm của một người đàn ông thật hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào cách hành xử của anh ta, thay vì những bộ cánh phù phiếm bên ngoài.
Dẫu sao, chính nhờ thời kỳ khó khăn ấy, mà mỗi người lại có kỷ niệm đẹp và đáng nhớ hơn.
Thời bao cấp, tất cả các cán bộ đi công tác nước ngoài ngắn hay dài ngày đều phải lên phố Hàng Bột (Hà Nội) để mượn quần áo.
Thời bao cấp, tất cả các cán bộ đi công tác nước ngoài kể cả cán bộ ngoại giao ngắn hay dài ngày đều phải lên phố Hàng Bột (Hà Nội) để mượn quần áo.
Vào thời bao cấp, khoảng năm 60-70, những người được nhận công văn công tác nước ngoài cũng đều phải đi… mượn quần áo Nhà nước ở phố Hàng Bột, theo như nhiều người kể lại thì đó là một kho đồ của Bộ Tài chính. Trong đó có khoảng vài trăm bộ comple – là thứ hàng cực hiếm lúc bấy giờ, được may sẵn với đủ mọi kích cỡ. Đa số các bộ đồ này đều có chỉ có màu tím than hoặc xanh dương đậm, với chất liệu bằng kaki hoặc vải dạ, hầu hết là hàng viện trợ từ Mông Cổ, Liên Xô, Trung Quốc... Ngoài bộ comple, những người đi nước ngoài còn được mượn thêm cả sơ mi, quần âu, một cái cà vạt, 1 cái vali có đóng bằng gỗ bọc vải. Sang đến Liên Xô đoàn cán bộ được ở khách sạn Tháng Mười - và được bao cấp 100% như gửi thư không phải dán tem, giặt khô quần áo, sửa đồng hồ… tất cả đều được miễn phí hoàn toàn.
Để chỉn chu và đồng đều về trang phục, cán bộ xuất ngoại ngày đó đều mặc đồ nhà nước cấp Điểm hay của tất cả những bộ đó là để đánh dấu nên người quản kho đều dùng lá trầu không để in một chữ KHO to đùng ở phần lưng quần và miệng túi áo trong. Chính cái chữ KHO - ở ta thì dễ hiểu, sang Tây lại khó hiểu này đã khiến nhiều chuyện khá hài hước xảy ra.
Thành viên A ở một diễn đàn kể một chuyện vui hồi đi công tác ở Liên Xô: “Đoàn chúng tôi có 5 người, sang bên Liên Xô việc đầu tiên sau khi nhận phòng là trút bộ comple ra để giặt là cho phẳng phiu. Đến chiều bà phục vụ đi các phòng gõ cửa , mồm luôn gọi Ta - vơ - rít Kho (có nghĩa là Đồng chí Kho) vì cả 5 bộ đưa đi giặt đều có áo in chữ KHO. Vì vậy bà nghĩ rằng Kho chắc hẳn là một cái tên rất phổ biến ở Việt Nam. Một trường hợp khác xảy ra với anh bạn tôi làm thông ngôn cho một đoàn cao cấp ở Đồi Lê Nin. Vì giỏi tiếng Nga nên buổi chiều, anh thăm hỏi bà phục vụ phòng. Bà nhìn anh từ đầu đến chân, rồi bỗng mắng cho một trận té tát: "Lần trước mày hẹn là sẽ viết thư cho tao kể chuyện chiến tranh ở Việt Nam. Vậy mà tao không nhận lấy của mày một chữ, thế là thế nào?". Anh bạn tôi ngẩn tò te vì đây là lần đầu tiên anh... được đi Liên Xô. Thấy bộ dạng ngơ ngác của anh, bà lại mắng tiếp: "Mày lại quên hay sao? Đây này, lần trước mày ngồi hút thuốc, tàn thuốc rơi xuống làm thủng một lỗ ở tay áo. Tao ngồi cả một buổi tối mạng lại lỗ thủng đó cho mày. Nhớ ra chưa?". Vừa nói, bà lại kéo tay anh bạn tôi chỉ vào vết thủng trên bộ quần áo anh mặc. Thì ra đúng là có một cán bộ Việt Nam khác đã được bà phục vụ người Nga phúc hậu giúp. Và bà chỉ nhận diện được người mang ơn qua lỗ thủng và chữ KHO in trên áo!”
Du học sinh cũng mượn đồ của Nhà nước
Ngoài các cán bộ thì sinh viên đạt tiêu chuẩn đi học nước ngoài, trước khi sang xứ người cũng phải đi mượn quần áo. Sở dĩ như vậy bởi với điều kiện kinh tế khó khăn thiếu thốn ở cái thời “Cho may ô mới được phần may ô”, thì ít ai có đủ bộ phục trang tối thiểu để cư trú ở nước ngoài trong nhiều năm. Được Bộ Đại Học gọi tập trung tạm thời, sau đủ các màn khám sức khỏe, mới bắt đầu cẩn thận thực hiện việc cấp phát trang phục cho từng người cả nam và nữ với một bản kê khai chi tiết đầy đủ các thứ đồ đã mượn. Đi bất cứ nước nào thì họ cũng được cấp một vali vải giả da hoặc túi du lịch loại lớn để chứa quần áo được nhận. Để chuẩn bị chống chọi với cái rét cắt da của phương xa, các vali, túi, hòm phải chất đủ các thứ từ sơ mi, quần tây, đồ giữ ấm như măng tô, mũ lông, áo len, khăn len quàng cổ, giày da, tất chân, bộ complet... với màu sắc thì cũng như đã kể trên, toàn một màu "ít bẩn" rất mốt thời bao cấp như tím than hay xanh dương đậm.
Sau khi về nước, dù thuộc diện tốt nghiệp hoàn thành khóa học hay về sớm vì lí do sức khỏe hoặc tiếp thu không được, thì bất cứ ai cũng phải gửi trả lại cho Nhà nước những thứ đồ “mượn” như trong bản kê khai nhận đồ đã ký ban đầu.
Ông Thái Hồng – người đã từng du học ngành Y tại Liên Xô và Trung Quốc những năm 60- 70 bồi hồi nhớ lại những chuyện ngày xưa: “Việc mượn quần áo ở Liên Xô và Trung Quốc cũng khác nhau nhiều lắm đấy. Hồi tôi chuẩn bị qua Liên Xô, được nhà nước cấp trước cho một bộ comple với vài chiếc áo ấm, đến khi sang bên kia mỗi năm lại được chính phủ nước bạn cho mượn thêm 1 bộ comple nữa với kha khá quần áo, thế là xông xênh áo xống thừa để yên tâm học tập trong cái lạnh buốt của khí hậu hàn đới. Đến khi về bản quốc lại còn được Liên Xô tặng lại hết cho những thứ ấy. Còn sau đó, tôi sang Bắc Kinh -Trung Quốc học, cũng được cán bộ bản xứ phát cho ít quần áo mặc thay đổi. Kết thúc quá trình học tập, khăn gói hành trang về Việt Nam, khi ra tới gần đoạn Cốc Lếu là mấy đồng chí Trung Quốc bắt lột hết đồ họ cấp, không được mang về thứ gì, kể cả quần áo đang mặc trên người. Thời kỳ ấy là vào khoảng cuối năm 70”.
Quần áo ấm mùa đông cũng là "đồ đi mượn"
Một bộ trang phục được Liên Xô phát Lan man sang chuyện dân mượn đồ của nhau
Thanh niên thì thời nào cũng vậy, với sự nhiệt huyết, trẻ trung, họ luôn tìm được những phương cách để vượt lên hoàn cảnh, đơn cử ngay như chuyện mượn đồ để... khoe mẽ.
Thanh niên thời đó
Tuy nhiên việc này cũng khiến xảy ra cơ man “tai nạn”, ông Thành vừa nhớ lại vừa cười: “Có lần tôi mặc một bộ quần áo, mà trong đó áo là của tôi, quần là của anh bạn trong nhóm để đi chơi cùng một cô khoa Sử. Hôm đấy lại đúng sinh nhật nàng, không có tiền mua quà nên tôi quyết đinh liều…trèo bờ rào nhà nọ để hái hoa. Chẳng may lúc trèo ra, mải loay hoay cầm hoa, quần bị vướng ngay vào đống kẽm gai, xước một mảng khá to. Thôi, lúc đấy thì lo cuống quít, vứt cả hoa, quên cả cuộc hẹn, chỉ có mỗi hình ảnh cái quần đi mượn rách tươm rách tả là còn trong đầu. Tôi phải chạy ngay đến 5 hàng may thì 4 hàng không nhận mạng lại vì rách “thảm” quá, mà kể cả sau khi mạng lại rồi cái quần ấy trông vẫn rất kinh khủng. Về anh bạn tôi nhất nhất không chịu nhận quần lại, “ăn vạ” đòi đền cái mới nhưng tôi làm gì có tiền, đành phải gá tạm cái áo “bảnh” nhất của mình cho anh ta, cầm chiếc quần tả tơi về mà lòng đau như cắt!”.
Mượn đồ ngày ấy cũng không chỉ để hẹn hò, mà ngoài ra còn cho nhiều tình huống khác như đi họp, đi ăn cưới, đi về quê ra mắt song thân phụ mẫu nhà vợ... Điều này minh chứng một điều rằng: Trong "thời để nhớ" đó, tuy hoàn cảnh cuộc sống khốn khó nhưng mọi người trong cộng đồng vẫn rất biết chia sẻ những gánh nặng lo toan với nhau.
Chuyện buôn bán lắm gian nan
Vào thời bao cấp, khoảng tầm những năm 80 đổ lên, chuyện buôn bán tại thị trường “chợ trời” đã bắt đầu nở rộ. Ngày ấy, những thanh niên đi du học nước ngoài và sau này là những người đi xuất khẩu lao động tại các nước Đông Âu đã mang về các loại mốt thời trang thời thượng lúc bấy giờ. Người ta tiếp nhận những thứ phục trang, xe cộ từ nước ngoài mang về như trẻ nhỏ thôn quê khao khát thứ đồ chơi xịn. Đó là sự thèm thuồng, mơ ước khi nghĩ về và chút ngưỡng mộ pha cảm giác ganh tị khi nhìn thấy chúng hiển hiện trong cuộc sống. Tâm lý từ xa xưa này so với thái độ mê đắm của các tín đồ thời trang với các món hàng hiệu cao cấp ngày nay cũng chẳng kém lòng nhiệt thành là bao.
Thanh niên khoảng năm 75-80 hay thích để tóc và ăn mặc kiểu Liên Xô (cũ)
Mượn đồ ngày ấy cũng không chỉ để hẹn hò, mà ngoài ra còn cho nhiều tình huống khác như đi họp, đi ăn cưới, đi về quê ra mắt song thân phụ mẫu nhà vợ... Điều này minh chứng một điều rằng: Trong "thời để nhớ" đó, tuy hoàn cảnh cuộc sống khốn khó nhưng mọi người trong cộng đồng vẫn rất biết chia sẻ những gánh nặng lo toan với nhau.
Chuyện buôn bán lắm gian nan
Vào thời bao cấp, khoảng tầm những năm 80 đổ lên, chuyện buôn bán tại thị trường “chợ trời” đã bắt đầu nở rộ. Ngày ấy, những thanh niên đi du học nước ngoài và sau này là những người đi xuất khẩu lao động tại các nước Đông Âu đã mang về các loại mốt thời trang thời thượng lúc bấy giờ. Người ta tiếp nhận những thứ phục trang, xe cộ từ nước ngoài mang về như trẻ nhỏ thôn quê khao khát thứ đồ chơi xịn. Đó là sự thèm thuồng, mơ ước khi nghĩ về và chút ngưỡng mộ pha cảm giác ganh tị khi nhìn thấy chúng hiển hiện trong cuộc sống. Tâm lý từ xa xưa này so với thái độ mê đắm của các tín đồ thời trang với các món hàng hiệu cao cấp ngày nay cũng chẳng kém lòng nhiệt thành là bao.
Thanh niên khoảng năm 75-80 hay thích để tóc và ăn mặc kiểu Liên Xô (cũ)
Nhắc tới thời bao cấp, có lẽ chúng ta vẫn hình dung ra một bức tranh toàn cảnh của những cá nhân ăn chưa no, mặc chưa ấm. Tuy vậy thực chất thời ấy, vẫn có những người giàu và khá giả, dù số ấy khôn nhiều. Chẳng thế mà ngày đó người ta sẵn sang trả vài cây vàng cho một chiếc xe máy, 3 chỉ vàng cho một chiếc mũ cối… Tính ra một dân sành chơi bao cấp với đủ bộ xe Minsk, mũ cối, quần bò, áo bay là đã mang theo mình gánh nặng bằng cái nhà, với trị giá quy đổi từ vàng sang tiền bây giờ là phải cả trăm triệu.
Cũng bởi thị hiếu dân sành điệu, có cung ắt có cầu, những người từ nước ngoài về tranh thủ những chuyến đi xa xứ để đánh quả lẻ thêm ít hàng hóa về bán cho các dân chơi. Ông Trần Thắng, một người đã từng đi học ở Liên Xô (cũ) cho biết: ”Hàng tháng, ngoài việc được chu cấp cho toàn bộ chi phí học hành, ăn ở, chính phủ Liên Xô cũng “trợ cấp” thêm cho cánh nghiên cứu sinh chúng tôi một khoản để chi tiêu lặt vặt. Tận dụng món tiền đó, cộng thêm với việc trong thư vợ tôi bảo ở quê nhà người ta chuộng xe đạp với quần áo Liên Xô, thế là trong 3 năm tôi không đụng tới một đồng nào trong khoản “viện trợ” quý giá ấy. Trước ngày trở về quê hương, tôi ra chợ mua một chiếc va li thật to, 2 chiếc xe đạp, 7 cái áo, 9 cái quần, thế là hết sạch tiền. Sau đó, tôi tháo hết bộ phận của chiếc xe đạp ra nhét kín va li. Đống quần áo thì mặc hết lên người, ních chặt đến mức tứ chi như không cử động nổi, vô cùng khó chịu. Điều hay là những người bạn Liên Xô lúc chia tay cùng không thấy thắc mắc gì về hình dáng to sù sụ của tôi, có lẽ họ cũng quen rồi. Khi về Việt Nam, tôi phải nhờ một người quen thạo buôn bán để “tẩu tán” hộ mấy món này vì hồi đó, du học sinh của Đảng mà lại đi giao dịch chợ đen thì mang tiếng chết. Cũng may là vừa chào buổi sáng thì đến trưa là đã hết hàng ngay”.
Hình ảnh một khu chợ hà Nội trước năm 88
Và chợ Hòa Bình (chợ Trời) bây giờ
Cũng bởi thị hiếu dân sành điệu, có cung ắt có cầu, những người từ nước ngoài về tranh thủ những chuyến đi xa xứ để đánh quả lẻ thêm ít hàng hóa về bán cho các dân chơi. Ông Trần Thắng, một người đã từng đi học ở Liên Xô (cũ) cho biết: ”Hàng tháng, ngoài việc được chu cấp cho toàn bộ chi phí học hành, ăn ở, chính phủ Liên Xô cũng “trợ cấp” thêm cho cánh nghiên cứu sinh chúng tôi một khoản để chi tiêu lặt vặt. Tận dụng món tiền đó, cộng thêm với việc trong thư vợ tôi bảo ở quê nhà người ta chuộng xe đạp với quần áo Liên Xô, thế là trong 3 năm tôi không đụng tới một đồng nào trong khoản “viện trợ” quý giá ấy. Trước ngày trở về quê hương, tôi ra chợ mua một chiếc va li thật to, 2 chiếc xe đạp, 7 cái áo, 9 cái quần, thế là hết sạch tiền. Sau đó, tôi tháo hết bộ phận của chiếc xe đạp ra nhét kín va li. Đống quần áo thì mặc hết lên người, ních chặt đến mức tứ chi như không cử động nổi, vô cùng khó chịu. Điều hay là những người bạn Liên Xô lúc chia tay cùng không thấy thắc mắc gì về hình dáng to sù sụ của tôi, có lẽ họ cũng quen rồi. Khi về Việt Nam, tôi phải nhờ một người quen thạo buôn bán để “tẩu tán” hộ mấy món này vì hồi đó, du học sinh của Đảng mà lại đi giao dịch chợ đen thì mang tiếng chết. Cũng may là vừa chào buổi sáng thì đến trưa là đã hết hàng ngay”.
Hình ảnh một khu chợ hà Nội trước năm 88
Và chợ Hòa Bình (chợ Trời) bây giờ
Ông Tuấn Hoàng tại Láng Hạ thì nhớ lại chuyện đi bán hàng lén lút ngày xưa: “Tôi trước cũng vốn là cán bộ công nhân viên chức nhà nước với đồng lương ít, tem phiếu phát nhỏ giọt không đủ trang trải cuộc sống cho gia đình. Điều kiện như thế làm gì có tiền mà đi buôn hàng. Đến tầm năm 85 bên mình nở rộ ra mốt Thái Lan với áo sơ mi kẻ, áo chim cò, quần bò, áo thun cổ lọ không tay… nên tôi tranh thủ tận dụng nhờ người quen đinh cư bên Thái Lan gửi ít hàng về.
Mỗi đợt nhận được vài cái quần bò, bán rẻ thì một chiếc cũng phải 2 chỉ vảng, có chiếc hàng độc, người ta kì kèo tôi bán với giá 4 chỉ. Nghe tưởng dễ nhưng mọi chuyện thực ra không suôn sẻ như vậy. Vì hồi đấy tôi là công nhân viên nhà nước nên bán chác gì cũng phải thậm thụt ghê lắm, nhất là với những mặt hàng có giá trị, lơ mơ là bị khiển trách như chơi. Để bán hàng, tôi mặc hết đồ mới lên người, đi ra chợ Hòa Bình phố Huế (hay còn gọi là chợ Trời), hễ ai có nhu cầu mua là lần từng lớp áo, vạch lên cho họ xem chất lượng, mẫu mã hàng. Buồn cười nhất là chuyện đi thử quần áo, cả khách cả chủ kéo nhau ra… nhà vệ sinh công cộng, vào đó mặc đồ xem có vừa không, giá cả “thuận mua vừa bán” là đồng ý luôn. Mọi chuyện diễn ra rất nhanh chóng. Cẩn thận là thế, song "cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, trong một lần bán mua bất cẩn, tôi bị lộ và nhận được cảnh cáo của cơ quan. Vì xấu hổ với anh em đoàn thể, nên tôi đã có một quyết định táo báo là xin nghỉ để làm kinh doanh ngoài. Sẵn có ít vốn từ việc buôn quần áo Thái Lan, tôi xoay sang buôn đủ loại vải từ dạ, voan, pô dơ lin, sa tanh... Thế là từ một tay bán hàng cò con nhỏ lẻ, tôi đã trở thành cơ sở bỏ xỉ vải như bây giờ cũng là có nguyên nhân cả”.
Những kiểu mốt đến từ Thái Lan: Quần bò, áo sơ mi kẻ, áo cổ cao không tay
Mỗi đợt nhận được vài cái quần bò, bán rẻ thì một chiếc cũng phải 2 chỉ vảng, có chiếc hàng độc, người ta kì kèo tôi bán với giá 4 chỉ. Nghe tưởng dễ nhưng mọi chuyện thực ra không suôn sẻ như vậy. Vì hồi đấy tôi là công nhân viên nhà nước nên bán chác gì cũng phải thậm thụt ghê lắm, nhất là với những mặt hàng có giá trị, lơ mơ là bị khiển trách như chơi. Để bán hàng, tôi mặc hết đồ mới lên người, đi ra chợ Hòa Bình phố Huế (hay còn gọi là chợ Trời), hễ ai có nhu cầu mua là lần từng lớp áo, vạch lên cho họ xem chất lượng, mẫu mã hàng. Buồn cười nhất là chuyện đi thử quần áo, cả khách cả chủ kéo nhau ra… nhà vệ sinh công cộng, vào đó mặc đồ xem có vừa không, giá cả “thuận mua vừa bán” là đồng ý luôn. Mọi chuyện diễn ra rất nhanh chóng. Cẩn thận là thế, song "cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, trong một lần bán mua bất cẩn, tôi bị lộ và nhận được cảnh cáo của cơ quan. Vì xấu hổ với anh em đoàn thể, nên tôi đã có một quyết định táo báo là xin nghỉ để làm kinh doanh ngoài. Sẵn có ít vốn từ việc buôn quần áo Thái Lan, tôi xoay sang buôn đủ loại vải từ dạ, voan, pô dơ lin, sa tanh... Thế là từ một tay bán hàng cò con nhỏ lẻ, tôi đã trở thành cơ sở bỏ xỉ vải như bây giờ cũng là có nguyên nhân cả”.
Những kiểu mốt đến từ Thái Lan: Quần bò, áo sơ mi kẻ, áo cổ cao không tay
Cảm xúc không tên
Mặc dù từng bán biết bao nhiêu chiếc quần bò xịn, nhưng ông Tuấn tự cảm thấy hối tiếc vì “thời đó tôi chưa bao giờ có nổi một chiếc quần bò Thái đúng nghĩa”. Ông tự nhận có lẽ cái nghèo đã ăn sâu vào máu quá lâu, đến nỗi mà, đến bây giờ quần áo ngày xưa – những kỷ vật ấy ông vẫn ngay ngắn xếp vào một ngăn tủ, không vứt đi cái nào. Những món đồ này, dù không còn mới, tuy cũ nhưng không nát, rất ít vết bẩn, sờn rách.
“Các cháu giờ đầy đủ nên ăn mặc phí quá, cứ hết mùa chúng lại hò nhau đem quần áo còn mới tinh ra để làm giẻ lau nhà. Không như thế hệ ngày trước, thanh niên luôn giữ gìn kỹ những bộ đẹp nhất, chỉ dịp lễ Tết hoặc dịp trọng đại mới lôi ra dùng, mặc xong giặt cẩn thận và cất vào tủ. Trân trọng và quý hóa lắm. Rồi khi có những bộ đồ mới, niềm vui của chúng tôi như vỡ òa. Giới trẻ bây giờ chắc không cảm nhận được điều hạnh phúc ấy. Có lẽ đấy là một trong những thứ quý giá mà thời đói khổ mang lại cho thế hệ đã từng sống ở giai đoạn này – sự trân trọng và tìm mọi cách chinh phục cuộc sống” – Ông Tuấn trầm ngâm.
Mặc dù từng bán biết bao nhiêu chiếc quần bò xịn, nhưng ông Tuấn tự cảm thấy hối tiếc vì “thời đó tôi chưa bao giờ có nổi một chiếc quần bò Thái đúng nghĩa”. Ông tự nhận có lẽ cái nghèo đã ăn sâu vào máu quá lâu, đến nỗi mà, đến bây giờ quần áo ngày xưa – những kỷ vật ấy ông vẫn ngay ngắn xếp vào một ngăn tủ, không vứt đi cái nào. Những món đồ này, dù không còn mới, tuy cũ nhưng không nát, rất ít vết bẩn, sờn rách.
“Các cháu giờ đầy đủ nên ăn mặc phí quá, cứ hết mùa chúng lại hò nhau đem quần áo còn mới tinh ra để làm giẻ lau nhà. Không như thế hệ ngày trước, thanh niên luôn giữ gìn kỹ những bộ đẹp nhất, chỉ dịp lễ Tết hoặc dịp trọng đại mới lôi ra dùng, mặc xong giặt cẩn thận và cất vào tủ. Trân trọng và quý hóa lắm. Rồi khi có những bộ đồ mới, niềm vui của chúng tôi như vỡ òa. Giới trẻ bây giờ chắc không cảm nhận được điều hạnh phúc ấy. Có lẽ đấy là một trong những thứ quý giá mà thời đói khổ mang lại cho thế hệ đã từng sống ở giai đoạn này – sự trân trọng và tìm mọi cách chinh phục cuộc sống” – Ông Tuấn trầm ngâm.
Cuộc sống thời bao cấp
Đám cưới thời bao cấp rất đỗi giản dị với những đoàn rước dâu đông vui của trai gái hai họ.
Những chiếc “siêu xe” thời ấy không có giá hàng triệu đô như bây giờ nhưng khi xuất hiện cùng cô dâu, chú rể sẽ khiến cả con đường thêm phần rộn rã.
Cùng chúng tôi xem lại “siêu xe” trong đám cưới của một thời đã qua:
Một đám rước dâu vào hạng sang trên đất Hà Thành.
Đám cưới thời bao cấp rất đỗi giản dị với những đoàn rước dâu đông vui của trai gái hai họ.
Những chiếc “siêu xe” thời ấy không có giá hàng triệu đô như bây giờ nhưng khi xuất hiện cùng cô dâu, chú rể sẽ khiến cả con đường thêm phần rộn rã.
Cùng chúng tôi xem lại “siêu xe” trong đám cưới của một thời đã qua:
Một đám rước dâu vào hạng sang trên đất Hà Thành.
Chiếc Super Cub từng là niềm ao ước của biết bao chàng trai những năm bao cấp. Sự xuất hiện của chiếc xe này trong đám cưới chứng tỏ gia đình chú rể thuộc hàng có của ăn của để.
Sau xe Cub là đến xe đạp. Những đám rước dâu bằng xe đạp là một trong những dấu ấn không thể mờ phai của thời bao cấp.
Nếu nhà cô dâu, chú rể “sát vách” thì những đoàn rước dâu thường đi bộ sang nhà nhau. Tiếng pháo nổ, tiếng cười nói vang rộn những con đường.
Và những nghề chỉ thời ấy mới có
Có những thứ chỉ tồn tại ở một thời điểm nhất định. Những nghề phục vụ sự mặc thời bao cấp là một trong những thứ như vậy. Xuất phát từ việc mọi cái đều phải nhận qua tem phiếu, nhiều người dân rơi vào tình cảnh quần áo giày dép thiếu thốn, vải vóc không dư thừa, một năm con em cán bộ công nhân viên chức nội thành cũng chỉ được phát có khoảng 2,5 mét vải. Chính bởi vậy nên người thời ấy rất giữ gìn trang phục, bởi nếu rách tả tơi quá thì cũng không có cái khác để mà thay. Phỏng theo nhu cầu ấy, một số nghề nho nhỏ nhưng đặc biệt đã nở rộ.
Hồi ấy có nghề may lộn lại quần. Sở dĩ có nghề này xuất phát từ việc thiếu vải. Mỗi người chỉ có khoảng 1 -2 cái quần để mặc đi mặc lại, mặc đến khi sờn rách, bạc màu. Thế là người ta đem chiếc quần “Chử Đồng Tử’’ ra hiệu nhờ tháo hết đường chỉ ra, lộn bên trong ra bên ngoài hoặc cắt đôi ống quần xoay đằng trước ra đằng sau rồi mới may lại. Mặt trong quần do ít tiếp xúc với ánh nắng nên vẫn còn rất mới, nếu không may có chỗ rách nào thì mạng lại bằng chỉ cùng màu.
Lại có giai đoạn Hà Nội nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, dép cao su. Người ta nấu chảy các miếng nhựa, cao su vụ để tra vào chỗ bị đứt, mẻ. Ngoài ra còn có nghề làm dép râu rất được chuộng. Đế dép được làm bằng vỏ xe nhà binh cũ, quai dép bằng ruột xe. Vỏ xe và ruột xe được cắt nhỏ, gọt theo dạng bàn chân, xỏ lỗ để luồn quai. Dép râu mang ít mòn, ít hư chỉ tội là hay bị đen chân do ruột cao su và kiểu dáng không thanh nhã, nặng nề, xấu xí.
Nghề vá sửa dép cao su, dép nhựa đã từng có thời rất phổ biến
Nghề “thợ nhuộm” đã có từ lâu ở miền Bắc, sau 1975, nghề này có cơ hội phát triển ở miền Nam do nhiều người có nhu cầu nhuộm đen quần áo cho sạch hoặc để “đỡ thấy dơ” hơn, tiện cho công việc lao động. Cũng có người đi nhuộm đồ trắng hay màu thành đen chỉ để tỏ ra cũng thuộc nhóm người lao động. Đồ được đem đi nhuộm là áo quần quân đội từ áo quần kaki vàng của sĩ quan, đến đồ xanh, đồ rằn ri của lính hay đồ trắng cảnh sát,… đều bị nhuộm thành màu đen hết.
Nghề chuyên nhuộm các loại quần áo có màu thành màu đen
Ngoài ra còn một số nghề độc đáo khác như may áo vải bao bột mì, nghề phân kim (thu mua vụn vàng bạc để chế tác lại), sang sợi vá quần áo…đến nay đã gần như tuyệt diệt).
Những năm đầu mở cửa
Những năm đầu thập niên 90, vẫn có sự khác biệt giữa thời trang của thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn đổi tên).
Ảnh hưởng tàn dư từ trào lưu Tây hóa, phong cách ăn mặc của người dân thành phố Hồ Chí Minh vẫn nhiều loại quần áo kiểu hơn các khu vực đô thị khác. Tuy nhiên, để phù hợp với xu thế đất nước thống nhất, trang phục người dân chuyển dần từ phong cách táo bạo sang đơn giản, thực dụng và cổ điển hơn.
Thời trang lúc này đơn giản và thực dụng hơn
Những năm đầu mở cửa
Những năm đầu thập niên 90, vẫn có sự khác biệt giữa thời trang của thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn đổi tên).
Ảnh hưởng tàn dư từ trào lưu Tây hóa, phong cách ăn mặc của người dân thành phố Hồ Chí Minh vẫn nhiều loại quần áo kiểu hơn các khu vực đô thị khác. Tuy nhiên, để phù hợp với xu thế đất nước thống nhất, trang phục người dân chuyển dần từ phong cách táo bạo sang đơn giản, thực dụng và cổ điển hơn.
Thời trang lúc này đơn giản và thực dụng hơn
Ở miền Bắc nói chung và Hà Nội nói riêng, vào đầu những năm 90 gu ăn mặc cũng có nhiều thay đổi. Phong cách thời trang của người dân chịu nhiều ảnh hưởng của Liên Xô (cũ). Tuy nhiên, thay vì khá giản tiện và ít thay đổi như thời kỳ bao cấp, xu hướng cũng có nhiều chuyển biến theo hướng xoay vòng có biến tấu. Những chiếc quần thay đổi kiểu dáng đa dạng từ dạng ống côn, phần đùi rộng, tới ống loe rồi lại về ống côn ôm sát đùi hơn và sau đó là quần ống vẩy… Mốt áo phổ biến nhất vẫn là áo nỉ, áo cánh dơi…
Váy lúc này cũng rất được phụ nữ miền Bắc ưa chuộng, từ những chiếc đầm dài vải voan nữ tính cho tới những chiếc jupe óng bộ với áo vest…
Mốt đóng bộ vest, mặc minijupe của phụ nữ Hà Nội(Tổng hợp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét