Số:
194/BC-CP:
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng
5 năm 2013
|
BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012 VÀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI NĂM 2013
Kính gửi: Đại biểu Quốc hội Khoá XIII
Căn cứ chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XIII,
Chính phủ trình Quốc hội báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 và tình hình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013
như sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH
GIÁ BỔ SUNG KẾT QUẢ THỰC HIỆN
KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012
Tại
Kỳ họp thứ Tư, Quốc hội khóa XIII, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội về
tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng đầu năm và dự báo khả năng thực hiện kế hoạch
năm 2012. Đến nay, trên cơ sở cập nhật tình hình quý 4 và đánh
giá cả năm, Chính phủ xin báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2012.
Năm 2012, trong bối
cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nền kinh tế nước ta phải
đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống
chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân,
chúng ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong thực hiện mục tiêu tổng quát
của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 được Quốc hội đề ra là “Ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời
sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh,
trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc
tế”.
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2012:
1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong Nghị quyết của Quốc hội
về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 như sau:
STT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị
|
Kế hoạch
năm 2012
|
Ước thực
hiện năm 2012 đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4
|
Thực hiện
năm 2012
|
1.
|
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP)
|
%
|
6-6,5
|
5,2
|
5,03
|
2.
|
Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu
|
%
|
13
|
16,6
|
18,2
|
3.
|
Tỷ lệ nhập siêu
so với tổng kim ngạch xuất khẩu
|
%
|
11-12
|
0,9
|
Xuất siêu 780 triệu USD
|
4.
|
Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so
với GDP
|
%
|
4,8
|
4,8
|
4,8
|
5.
|
Tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội so với GDP
|
%
|
~33,5
|
29,5
|
28,5
|
6.
|
Chỉ số giá tiêu dùng
|
%
|
<10
|
~8
|
6,81
|
7.
|
Tạo việc làm
|
Triệu người
|
1,6
|
1,515
|
1,52
|
8.
|
Tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền
kinh tế đã qua đào tạo
|
%
|
46
|
46
|
46
|
9.
|
Tỷ lệ thất nghiệp
của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị
|
%
|
~4
|
3,63
|
3,25
|
10.
|
Tỷ lệ hộ nghèo giảm
Riêng
các huyện nghèo giảm
|
%
%
|
2
4
|
1,76
4
|
2,12
7,02
|
11.
|
Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh
dưỡng
|
%
|
16,6
|
16,3
|
16,3
|
12.
|
Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không
tính giường trạm y tế xã)
|
Giường bệnh
|
21,5
|
21,5
|
21,5
|
13.
|
Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý
|
%
|
79
|
83,6
|
85
|
14.
|
Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất
đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường
|
%
|
70
|
70
|
70
|
15.
|
Tỷ lệ che phủ
rừng
|
%
|
41
|
40
|
40
|
So với ước thực hiện đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá
XIII, kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012 có thêm
một chỉ tiêu hoàn thành vượt kế hoạch là mức giảm tỷ lệ hộ nghèo. Như vậy,
trong tổng số 15 chỉ tiêu chủ yếu Nghị quyết Quốc hội đề ra trong kế hoạch năm
2012 có 11 chỉ tiêu hoàn thành đạt và vượt kế hoạch. Còn 4 chỉ tiêu không đạt kế hoạch là: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP), tỷ lệ tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP, chỉ tiêu tạo
việc làm và tỷ lệ che phủ rừng. So với
số đã báo cáo Quốc hội, có 7 chỉ tiêu đạt cao hơn, 2 chỉ tiêu đạt thấp hơn và 6
chỉ tiêu không đổi. Với kết quả như vậy, những nhận định, đánh giá trong
báo cáo của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2012 vẫn cơ
bản phù hợp.
2. Về thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm
chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô:
a) Về giá cả và lạm phát:
Nhờ thực hiện đồng bộ, kịp thời các giải pháp, chính sách kinh tế vĩ mô
về tài chính, tiền tệ, cân đối cung - cầu hàng hóa, quản lý thị trường,... nên giá
cả thị trường trong năm 2012 cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 so với cùng
kỳ năm trước tăng 6,81% (số đã báo cáo Quốc hội
là khoảng 8%), đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2012 là tăng dưới 10% và thấp hơn nhiều so với mức tăng của năm
2010 và năm 2011[1];
trong đó: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế có sự thay đổi lớn do tác động của việc điều
chỉnh tăng giá dịch vụ y tế tại một số địa phương, với chỉ số giá tăng mạnh ở
mức 45,23%; chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 16,97%; chỉ số giá nhóm hàng ăn và và
dịch vụ ăn uống chỉ tăng 1,01%; chỉ số giá nhóm hàng bưu chính viễn thông giảm
0,35%.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2012 tăng 0,4%, chỉ
số giá đô la Mỹ giảm 0,96% so với cùng kỳ năm trước.
b) Về tiền tệ, tín dụng:
Chính sách tiền tệ được điều hành chặt chẽ, linh
hoạt, kết hợp hài hòa với chính sách tài khóa, góp phần kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô. Nguy cơ thiếu hụt khả năng thanh khoản và đổ vỡ ngân hàng đã
được đẩy lùi, các chỉ số an toàn hoạt động được cải thiện.
Lượng tiền cung ứng được điều hành chủ động, linh hoạt. Tổng phương tiện thanh toán (M2) năm 2012
tăng 22,38%. Tổng số dư
tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tăng 22,7% so với cuối năm
2011, trong đó huy động vốn VND tăng 28,8% và huy động vốn bằng ngoại tệ giảm
4,5%.
Lãi suất tín dụng giảm phù hợp với diễn biến lạm
phát, tình hình kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ[2].
Lãi suất huy động giảm từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay giảm từ 6-9%/năm so với
cuối năm 2011[3]. Cơ cấu
tín dụng chuyển dịch theo hướng tập trung vốn cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Tuy nhiên, nợ xấu còn cao, việc
tiếp cận vốn tín dụng gặp nhiều khó khăn. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế năm 2012 tăng 8,91%, thấp hơn so với trung bình các
năm trước và so với mục tiêu đề ra là tăng khoảng 15-17%, đã ảnh hưởng đến sản
xuất doanh nghiệp cũng như tăng trưởng kinh tế của các tháng cuối năm.
Cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ
ngoại hối nhà nước tăng khá lớn. Tỷ giá và thị trường ngoại tệ ổn định; tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ
đã giảm đáng kể. Thị trường vàng trong nước, đặc biệt là thị trường
vàng miếng đã có nhiều chuyển biến đáng kể, ổn định hơn.
c) Về thu chi ngân sách nhà nước:
Cân đối ngân sách nhà nước năm 2012
gặp nhiều khó khăn. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2012 đạt 743,19
nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với dự toán (số đã báo cáo Quốc hội là đạt 741,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,14%) nhờ thu từ dầu thô tăng cao (đạt
140,1 nghìn tỷ đồng, tăng 61% so với dự toán). Trong khi đó, thu nội địa chỉ
đạt 94,5% dự toán, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chỉ đạt 83,1% dự
toán; cân đối ngân sách Trung ương và một số địa phương khó khăn.
Tổng chi cân đối ngân sách nhà nước năm 2012 đạt 905,79
nghìn tỷ đồng, tăng 0,3% so với dự toán (số đã
báo cáo Quốc hội là đạt 904,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,11%); trong đó chi đầu tư phát triển đạt 195
nghìn tỷ đồng, bằng 21,5% tổng chi ngân sách nhà nước.
Bội chi ngân sách nhà nước năm 2012
bằng 4,8% GDP, đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Dư nợ công, dư nợ Chính phủ, dư nợ nước ngoài quốc gia
tiếp tục nằm trong giới hạn an toàn cho phép.
d) Về xuất nhập khẩu:
Mặc dù kinh tế thế giới chưa thoát ra khỏi suy thoái, phục hồi rất
chậm, nhưng xuất khẩu của cả nước năm 2012 tiếp tục tăng trưởng ở mức khá
cao, với tổng kim ngạch đạt 114,57 tỷ USD, tăng 18,2% so
với năm 2011 (số đã báo cáo Quốc hội là
16,6%), vượt chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội đề ra là tăng 13%. Tuy
nhiên, kim ngạch xuất khẩu tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài,
với kim ngạch xuất khẩu đạt 72,27 tỷ USD, tăng 31,1% (số đã báo cáo Quốc hội là 27,7%); trong khi đó, khu vực kinh tế
trong nước chỉ tăng 1,2%.
Trong năm 2012, cả nước đã có 23 nhóm hàng
đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 7 nhóm hàng đạt kim ngạch
xuất khẩu trên 5 tỷ USD. Các mặt hàng
công nghiệp tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt mặt hàng điện
thoại và linh kiện tăng 85,3%, máy vi tính và linh kiện tăng 67% đã đóng góp
đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu[4].
Về thị trường xuất khẩu năm 2012, EU vươn lên
là thị trường lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu tăng 22,7% so với năm 2011 và
chiếm tỷ trọng 17,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là Hoa Kỳ tăng 16,2%,
chiếm tỷ trọng 17,2%; ASEAN tăng 25,7%, chiếm tỷ trọng 14,9%; Nhật Bản tăng
21%, chiếm tỷ trọng 11,4%; Trung Quốc tăng 11%, chiếm tỷ trọng 10,8%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2012 đạt 113,8
tỷ USD, tăng 6,6% so với năm 2011 (số đã
báo cáo Quốc hội là 6,8%), trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt
59,9 tỷ USD, tăng 22,7%; khu vực kinh tế trong nước đạt 53,85 tỷ USD, giảm 7%.
Trong năm 2012, một
số mặt hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu tăng là: máy tính và linh kiện tăng
67%; giấy các loại tăng 9%; nguyên phụ liệu dệt may tăng 7,1%; vải tăng 4,6%;
máy móc thiết bị tăng 3,2%;… Trong khi đó, xăng dầu giảm 9,3%; sắt thép các loại giảm 7,2%; phân bón giảm 4,8%,...
Về thị trường nhập khẩu năm 2012, Trung Quốc
tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch nhập khẩu tăng 17% so
với năm 2011 và chiếm tỷ trọng 25,3% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tiếp đến là
ASEAN giảm 0,7%, chiếm tỷ trọng 18,2%; Hàn Quốc tăng 18,7%, chiếm tỷ trọng
13,7%; Nhật Bản tăng 11,5%, chiếm tỷ trọng 10,2%; EU tăng 13,5%, chiếm tỷ trọng
7,7%.
Xuất siêu năm 2012 là
780 triệu USD. Tuy nhiên, xuất siêu chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài,
tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp, trong khi đó khu vực kinh tế trong nước
vẫn nhập siêu ở mức cao và Việt Nam vẫn nhập siêu lớn với một số thị trường[5].
đ) Về đầu tư phát triển:
Tổng vốn đầu
tư phát triển toàn xã hội năm 2012 thực hiện chỉ đạt 840,2 nghìn tỷ đồng, bằng
28,5% GDP (số đã báo cáo Quốc hội là 870 nghìn tỷ đồng, bằng
29,5% GDP), thấp hơn mức 34,6% của năm 2011 và thấp hơn chỉ tiêu
Quốc hội đề ra cho năm 2012 là 33,5%. Trong đó:
- Vốn đầu tư
từ ngân sách nhà nước là 195,05 nghìn tỷ đồng (số đã báo cáo
Quốc hội là 187,5 nghìn tỷ đồng), tăng 8,4% so với kế hoạch, giảm 5,5% so với thực hiện năm 2011;
- Vốn trái phiếu chính phủ là 40,5
nghìn tỷ đồng (số đã báo cáo Quốc hội là 45
nghìn tỷ đồng), bằng 90% kế hoạch, giảm 9,7% so với thực hiện năm
2011;
- Vốn tín
dụng đầu tư của nhà nước là 50,27 nghìn tỷ đồng (số đã báo cáo
Quốc hội là 50 nghìn tỷ đồng), bằng 91,4% kế hoạch, tăng 0,5% so với thực hiện năm 2011;
- Vốn đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước là 95,4 nghìn tỷ đồng (số đã báo cáo
Quốc hội là 75 nghìn tỷ đồng), bằng 95,4% kế hoạch, tăng 21,7% so với thực hiện năm 2011;
- Vốn đầu tư
của dân cư và tư nhân là 261 nghìn tỷ đồng (số đã báo cáo
Quốc hội là 310 nghìn tỷ đồng), bằng 64% kế hoạch, giảm 14,5% so với thực hiện năm 2011.
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổng số vốn đăng ký
mới năm 2012 đạt 16,3 tỷ USD, tăng 4,7% so với năm 2011, trong đó vốn đăng ký
cấp mới chỉ đạt 8,6 tỷ USD, giảm 29,7%. Tuy vốn đăng ký cấp mới giảm nhưng vốn
đăng ký tăng thêm đạt 7,7 tỷ USD, tăng 2,3 lần so với năm 2011. Vốn thực hiện năm
2012 đạt 10,46 tỷ USD (số đã báo cáo Quốc
hội là 11,5 tỷ USD), bằng 95,1% mức thực hiện của năm 2011.
Về
ODA, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái và Chính phủ các quốc gia tài
trợ đang phải thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt để đối phó với khủng
hoảng, nhưng nhờ sự kiên trì, nhất quán trong việc thực hiện đường lối đổi mới
nền kinh tế, kết quả tích cực trong kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
việc huy động vốn ODA vẫn đạt được những kết quả tích cực. Tại Hội nghị các nhà
tài trợ (CG) tháng 12/2012, cộng đồng tài trợ quốc tế cam kết tài trợ cho Việt
Nam gần 6,5 tỷ USD. Đồng thời, nhờ thực hiện đồng bộ
các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong đầu tư để đẩy nhanh tiến độ đầu tư, trong
năm 2012 đã giải ngân được 4,183 tỷ USD vốn ODA, tăng 14,6% so với năm 2011,
vượt 37,6% kế hoạch năm, đạt mức cao nhất trong 3 năm trở lại đây[6].
Cả
hai chỉ số giá tổng hợp VN-Index và HNX-Index tăng trong 4 tháng đầu năm và
quay đầu giảm điểm trong suốt thời gian còn lại. Tính thanh khoản của thị
trường biến động cùng chiều với chỉ số chứng khoán. Khối lượng giao dịch và giá
trị giao dịch trên cả hai sàn đều tăng mạnh trong 4 tháng đầu năm và sụt giảm
mạnh trong suốt thời gian còn lại của năm. Nguyên nhân chủ yếu là nền kinh tế
gặp nhiều khó khăn, hiệu quả đầu tư kinh doanh thấp, nhiều doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, giải thể; thị trường bất động sản đóng băng, chưa có dấu
hiệu cải thiện;... Hoạt động của các công ty niêm yết gặp nhiều khó khăn do chi
phí đầu vào tăng cao, khó tiếp cận và huy động vốn trên cả thị trường tín dụng
và thị trường chứng khoán.
3. Về thực hiện mục tiêu duy trì mức tăng trưởng hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ
cấu nền kinh tế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế:
a) Về tái cơ
cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng:
Trong thời gian qua, quán triệt Nghị quyết Đại hội XI và
các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã chỉ đạo tiếp thu ý kiến các đại biểu
Quốc hội, hoàn chỉnh và ban hành Quyết định phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ cấu
kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020; đồng thời đã chỉ đạo các
cấp, các ngành triển khai thực hiện, tập trung vào 3 trọng tâm lớn là tái
cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng.
- Về tái cơ
cấu đầu tư công: Việc
triển khai thực hiện Chỉ thị số 1792/CT-TTg ngày 15/10/2011 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính
phủ đã đạt được những kết quả quan trọng, bước đầu khắc phục tình trạng bố trí
vốn phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thất thoát. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương
cơ sở đã nhận thức rõ hơn và quán triệt các yêu cầu tăng cường quản lý đầu tư
phát triển trong tất cả các khâu, từ quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, xây
dựng dự án, bố trí vốn tập trung, đến triển khai, giám sát thực hiện, kiểm
toán, quyết toán, nghiệm thu công trình.
Việc bố trí vốn đầu tư bước đầu đã
có sự kiểm soát tốt, các
dự án đầu tư về cơ bản được thực hiện theo đúng mức vốn kế hoạch đã giao, góp
phần hạn chế nợ đọng xây dựng cơ bản. Số dự án khởi công mới giảm đáng
kể, số dự án hoàn thành tăng cao. Qua rà soát số vốn trong nước nguồn ngân sách
nhà nước bố trí đúng quy định chiếm tới 95,6% tổng số vốn rà soát; số vốn trái
phiếu Chính phủ bố trí đúng quy định chiếm 99,7% tổng số vốn kế hoạch năm 2013.
Tất cả các quyết định giao dự toán ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư phát
triển nguồn ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình mục tiêu quốc gia) và
kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ được ban
hành đúng thời hạn theo Nghị quyết của Quốc hội.
Với việc bố trí vốn tập trung hơn, trong năm qua đã có nhiều công trình
quan trọng thuộc các ngành, lĩnh vực, như: giao thông, thuỷ lợi, giáo dục đào
tạo, y tế, khoa học công nghệ, các chương trình mục tiêu quốc gia và xoá đói
giảm nghèo,... hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả đầu tư[7]. Tuy nhiên, do cân đối ngân sách nhà nước cho đầu
tư phát triển ngày càng hạn hẹp, trong khi đó, yếu tố tăng giá vật tư, thiết
bị, tiền lương, tiền công, chi phí giải phóng mặt bằng,... đẩy tổng mức đầu tư
các dự án tăng lên làm tăng thêm tình trạng mất cân đối vốn đầu tư.
- Về tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng: Đã tập trung
đánh giá, xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản; xây dựng và tổ
chức triển khai phương án cơ cấu lại, trong đó ưu tiên xử lý các tổ chức tín dụng
yếu kém; tập trung hỗ trợ thanh khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các tổ
chức tín dụng; triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng trên
nguyên tắc tự nguyện; tăng vốn điều lệ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại hoạt động,
hệ thống quản trị;... Đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu đối với 09 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém cần phải tập trung cơ cấu lại. Các ngân hàng thương mại nhà nước tập trung
triển khai các giải pháp tự củng cố, rà soát các hoạt động kinh doanh chính,
tham gia hỗ trợ thanh khoản và triển khai các giải pháp cơ cấu lại các ngân
hàng thương mại cổ phần yếu kém.
- Về tái cơ
cấu doanh nghiệp nhà nước: Cơ chế, chính sách về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, trong đó quy định rõ trách nhiệm về quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước của tất cả các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế và tổng công ty
91. Trong năm qua, đã sắp xếp được 27 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 16
doanh nghiệp, sáp nhập 5 doanh nghiệp, bán 3 doanh nghiệp và chuyển thành công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên 3 doanh nghiệp.
Trên
cơ sở Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2011-2015 đã được phê duyệt[8],
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 6/9 tập đoàn kinh tế và
8/10 tổng công ty 91; các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã phê duyệt
đề án tái cơ cấu các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý. Về cơ bản, các đề
án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã tập trung vào
việc đổi mới mô hình tổ chức, cơ cấu lại sản phẩm, nguồn nhân lực, trên cơ sở
xác định rõ nhiệm vụ, ngành nghề, chiến lược phát triển, đảm bảo tập trung thực
hiện các ngành, lĩnh vực kinh doanh chính do Nhà nước giao; thực hiện thoái
vốn, chuyển nhượng vốn không thuộc ngành, lĩnh vực kinh doanh chính.
Thông
qua thảo luận và tham vấn trong quá trình soạn thảo Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế, chúng ta đã đạt được sự thống
nhất về bản chất và nội dung của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng. Từ đó, về cơ bản đã đạt được sự nhất trí về mục tiêu, nội dung và những
định hướng cơ bản của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Chính phủ đã chỉ đạo soạn
thảo các văn bản có liên quan, tạo khung khổ pháp lý để triển khai thực hiện
tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng[9].
Tuy vậy, các giải pháp có hiệu lực và được triển khai trên thực tế thúc đẩy tái
cơ cấu kinh tế chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu; đó cũng là
những đòi hỏi các cấp, các ngành phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong thời gian
tới, đổi mới mạnh mẽ các cơ chế chính sách, các khuôn khổ pháp luật thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo đúng các mục tiêu, định hướng đã đề ra.
b) Về tăng
trưởng kinh tế:
Trong bối cảnh kinh tế thế giới
gặp nhiều khó khăn, đồng thời trong nước phải thực hiện các mục tiêu ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đặc biệt là việc giảm mạnh tốc độ tăng tín
dụng, thắt chặt chi tiêu ngân sách nhà nước, cắt giảm đầu tư công,…đã ảnh hưởng
đến tăng trưởng của nền kinh tế. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 tăng 5,03% so với
năm 2011 (thấp hơn số đã báo cáo Quốc hội
là 5,2% và thấp hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra là tăng 6-6,5%); trong đó: khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, khu vực công nghiệp và xây dựng
tăng 4,52%, khu vực dịch vụ tăng 6,42%.
- Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo phục hồi
chậm. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) cả năm chỉ tăng 4,7% so với năm 2011, tăng thấp hơn so với số đã báo cáo tại Kỳ họp thứ 4 (5,3%)
và thấp hơn nhiều so với kế hoạch đề ra
(8,5%). Sản xuất, phân phối điện,
khí đốt tăng 11,4% nhờ thời tiết thuận lợi và một số nhà máy điện đi vào hoạt
động, đặc biệt là toàn bộ 6 tổ máy của Nhà máy
thủy điện Sơn La với tổng công suất 2.400 MW đã được hoàn thành, sớm 3 năm so
với dự kiến. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 3,8%; công nghiệp
chế biến, chế tạo tăng 4,4%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác
thải tăng 8,2%.
Một số
ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao so với năm trước là: khai thác dầu
thô và khí tự nhiên; sản xuất, truyền tải và phân phối điện; sản xuất thiết bị truyền thông, phụ
tùng và bộ phận phụ trợ cho xe có động cơ và động cơ xe, linh kiện điện tử, dây
cáp, dây điện, giấy nhăn, bì nhăn, bao bì; mỹ phẩm, xà phòng, chất tẩy rửa, làm
bóng và chế phẩm vệ sinh, chế biến sữa và sản
phẩm từ sữa, bia, phân bón, sợi,... Trong khi đó, một số ngành có tốc độ tăng
trưởng thấp so với năm trước là: sản xuất xe có động cơ, mô tô, xe máy; điện tử
dân dụng; xi măng; hàng may sẵn (trừ trang phục); khai thác và thu gom than
cứng;... [10]
Tính đến thời điểm 01/12/2012 chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tồn kho còn ở mức cao nhưng
đã có xu hướng giảm dần trong năm 2012. Từ mức tăng cao 34,9% tại thời điểm
01/3/2012, tốc độ tăng chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm
xuống còn 26% tại thời điểm 01/6/2012, 20,4% tại
thời điểm 01/9/2012 và 20,1% tại thời điểm 01/12/2012.
Tình hình cung cấp điện trong năm 2012 tương đối ổn định, đảm bảo đủ điện
cho sản xuất và tiêu dùng dân cư. Điện sản xuất và nhập khẩu đạt 117,59 tỷ Kwh,
tăng 10,41% so với cùng kỳ năm 2011; trong
đó, điện mua từ Trung Quốc đạt 2,75 tỷ Kwh, giảm 45%. Điện cung cấp
cho công nghiệp và xây dựng đạt 55,2 tỷ Kwh, tăng 9,73% so với năm 2011, thấp hơn mức tăng 13% của năm 2011, chiếm tỷ trọng 52,5%[11]. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhu cầu sử dụng điện công
nghiệp giảm sút là do nhiều ngành, lĩnh vực phải điều chỉnh giảm quy mô sản
xuất vì chi phí đầu vào tăng cao, tiêu thụ sản phẩm giảm sút, lượng hàng tồn
kho lớn, đặc biệt là các ngành công nghiệp sản xuất thép, xi măng, vật liệu xây
dựng.
Giá trị sản xuất ngành xây dựng tăng thấp do tác động
tiêu cực bởi sự đóng băng của thị trường bất động sản. Giá trị sản xuất ngành xây
dựng năm 2012 (giá so sánh 1994) tăng 2,1% so với năm 2011; trong đó: Khu vực
Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đều giảm, lần lượt là 3,9% và 0,3%;
riêng khu vực ngoài Nhà nước tăng 3,5%.
- Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tuy chịu ảnh
hưởng của thiên tai, dịch bệnh nhưng vẫn phát triển, đạt kết quả khá, góp phần quan
trọng ổn định nền kinh tế. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản cả năm 2012
tăng 3,4% so với năm trước (số
đã báo cáo Quốc hội là tăng 3,9%); trong đó nông nghiệp tăng
2,8%, lâm nghiệp tăng 6,4%, thuỷ sản tăng 4,5%.
Sản lượng
lúa năm 2012 đạt mức cao kỷ
lục, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu trên 8 triệu tấn gạo[12]. Sản xuất
các cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao tiếp tục phát triển[13].
Diện tích rừng trồng được chăm sóc và rừng được giao khoán bảo vệ đều tăng, lần lượt là 30,1% và 13,3%. Trong khi đó, diện tích rừng trồng mới tập trung năm 2012 giảm 13,3% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ che phủ rừng chỉ đạt 40%, không đạt kế hoạch đề ra[14].
Thời tiết, dịch
bệnh trên vật nuôi diễn ra khá phức tạp trong những tháng đầu năm. Tuy
nhiên, nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, ngành và địa phương, chủ động triển
khai các biện pháp đồng bộ phòng, chống dịch
bệnh, không để bùng phát dịch lớn, giảm
thiệt hại cho ngành chăn nuôi, nên đàn gia súc, gia cầm vẫn phát triển ổn định[15].
Sản lượng thủy sản cả năm đạt 5.732,9 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm 2011, bao gồm: sản lượng
nuôi trồng đạt 3.110,7 nghìn tấn, tăng 6,1%; sản lượng khai thác đạt 2.622,2 nghìn tấn, tăng 4,3%, trong đó khai thác biển
đạt 2.418 nghìn tấn, tăng 4,8%.
Về xây dựng nông thôn mới: Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển
khai mạnh mẽ, nông thôn tiếp tục phát triển, góp phần xoá đói, giảm nghèo và bảo
đảm an sinh xã hội. Các nhiệm vụ rà soát, bổ sung quy hoạch, đầu tư hạ tầng,
sắp xếp, ổn định dân cư theo quy hoạch, phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế
trang trại, làng nghề, dịch vụ và ứng dụng khoa học công nghệ,... được triển
khai tích cực. Số xã hoàn thành quy hoạch nông thôn mới đạt 68%; 44% số xã
đã phê duyệt đề án xây dựng nông thôn mới. Hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tiếp
tục được nâng cấp, điều kiện sống ở nông thôn được cải thiện[16].
Các dự án thuỷ lợi lớn như Cửa Đại, Định Bình, Văn Phong, Sông Ray, Krông Búc
Hạ,... được xây dựng với vai trò đa mục tiêu vừa phục vụ sản xuất, vừa phát
điện, cung cấp nước sinh hoạt, ngăn lũ, chậm lũ và giảm nhẹ thiên tai. Nhiều địa
phương đã đẩy mạnh việc dồn điền, đổi thửa gắn với quy hoạch vùng sản xuất hàng
hoá và xây dựng cánh đồng mẫu lớn, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp. Đã xây dựng
được một số xã cơ bản đạt nông thôn mới theo 19 tiêu chí, ngoài 11 xã điểm do
Ban Bí thư chỉ đạo đạt từ 15 đến 18 tiêu chí, có thêm 32 xã đạt từ 16 đến 18 tiêu
chí và 950 xã của các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ đạt từ
10 tiêu chí trở lên.
- Khu
vực dịch vụ phát triển khá. Thị trường trong nước tiếp
tục tăng trưởng, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng tăng 16% so với năm 2011(nếu trừ trượt giá còn tăng khoảng 6,22%),
thấp hơn số đã báo cáo Quốc hội là tăng 18%.
Số lượt
khách quốc tế đến Việt Nam đạt 6,85 triệu lượt người (số đã báo cáo Quốc hội là 6,5 triệu lượt người), tăng 9,5% so với
năm 2011[17].
Thị trường du lịch nội địa có chuyển biến mạnh mẽ, số lượt khách du lịch nội
địa đạt 32,5 triệu lượt người (số đã báo
cáo Quốc hội là 32 triệu lượt người), tăng 8,3% so với năm trước. Doanh thu
của ngành du lịch cả năm đạt khoảng 160 nghìn tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2011.
Số lượng hành
khách vận chuyển và luân chuyển đều tăng, lần lượt là 12,2% và 9,5% so với năm
2011 (số đã báo cáo Quốc hội là 13% và
11%). Khối lượng hàng hoá vận chuyển cả năm tăng 9,5% (số đã báo cáo Quốc hội là tăng 10%); tuy nhiên, khối lượng hàng
hoá luân chuyển giảm (-) 8,7% so với năm 2011 (số đã báo cáo Quốc hội là giảm (-) 9%).
- Phát triển doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, số doanh nghiệp giải thể,
tạm ngừng hoạt động vẫn còn ở mức cao. Trong năm 2012, cả nước có
69.874 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 467,3 nghìn tỷ
đồng, giảm 9,9% về số doanh nghiệp và giảm 9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ
năm 2011. Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể, tạm ngừng
hoạt động trong năm là 54.261 doanh nghiệp, trong đó có 44.906 doanh nghiệp
ngừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải thể.
4. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân:
a) Về lao động, việc làm:
Công tác
giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người lao động, nhất là người lao động mất
việc làm được quan tâm hơn. Năm 2012, đã tạo việc làm cho 1,52 triệu người (số đã báo cáo Quốc hội là 1,515 triệu người), đạt 95% kế hoạch, tuy không đạt kế hoạch nhưng trong điều kiện
kinh tế khó khăn, đây là một cố gắng lớn, trong đó:
-
Tạo việc làm trong nước cho 1,44 triệu người (số đã báo cáo Quốc hội là 1,435 triệu người), đạt 95,4% kế hoạch. Thị trường lao động tiếp tục được củng cố và phát triển. Đã tổ chức hơn 600
phiên giao dịch việc làm ở 43 tỉnh, thành phố với tần suất giao dịch tăng gấp
1,2 lần so với năm 2011. Bên cạnh việc tổ chức sàn giao dịch việc làm tại Trung
tâm giới thiệu việc làm, nhiều địa phương đã tổ chức sàn giao dịch vệ tinh, lưu
động và các ngày hội tư vấn, giới thiệu việc làm, đảm bảo tốt hơn việc đưa
thông tin đến với người lao động và người sử dụng lao động. Theo dõi, cập nhật tình
hình việc làm, biến động lao động trong các doanh nghiệp, các khu công nghiệp,
khu chế xuất,… phải giảm sản lượng, tạm ngừng sản xuất, giải thể, phá sản để
kịp thời có các giải pháp hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động.
-
Xuất khẩu lao động 80 nghìn người, đạt 88,9% kế hoạch. Tuy không đạt kế hoạch
nhưng cũng là kết quả tích cực trong điều kiện kinh tế thế giới phục hồi chậm,
tỷ lệ thất nghiệp ở các nước tiếp nhận lao động tăng cao. Đã tập trung thực hiện các giải pháp quyết
liệt để ổn định và giữ thị phần, nhờ đó một số thị trường truyền thống vẫn duy
trì và phát triển, tiếp nhận một số lượng lớn lao động Việt Nam[18]. Các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động đã chủ động cơ cấu lại hoạt động, cơ cấu lại thị trường, tập
trung vào các thị trường có thế mạnh; thực hiện tốt hơn công tác đào tạo người
lao động đi làm việc ở nước ngoài về ngoại ngữ, phong tục, tập quán, pháp luật
liên quan của các nước tiếp nhận lao động.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị giảm xuống còn 3,25% (số đã báo cáo Quốc hội là 3,63%), đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã đi vào
cuộc sống với 8,07 triệu người tham gia, tăng 6,6% so với năm 2011. Việc thực
hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động đã góp phần giảm bớt
khó khăn, ổn định cuộc sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới[19].
Bảo hiểm xã hội tiếp tục phát triển. Năm
2012, tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 10,43 triệu người, trong đó:
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là 134 nghìn người, tăng 48,9% so với năm 2011; bảo
hiểm xã hội bắt buộc là 10,3 triệu người, tăng 4,2%. Mức lương tối thiểu được điều chỉnh từ 830 nghìn
đồng/tháng lên 1,05 triệu đồng/tháng từ 01/5/2012 đã góp phần giảm bớt khó khăn
về đời sống cho người lao động.
b)
Về công tác giảm nghèo:
Trong
điều kiện tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn nhưng công tác xóa đói, giảm nghèo được
quan tâm và đạt nhiều kết quả. Việc tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp
như: tổ chức thực hiện đầy đủ các chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo[20]
cùng với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững, các dự án hỗ trợ giảm nghèo của các tổ chức quốc
tế,... tạo điều kiện cho các hộ nghèo phát triển sản xuất, cải thiện đời sống,
vươn lên
thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước tiếp
tục giảm, đến cuối năm 2012 là 9,64%, giảm 2,12% so với cuối năm 2011 (số đã báo cáo Quốc hội là giảm 1,76%),
vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra là giảm 2%.
Đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đã giảm 7% (số đã báo cáo Quốc hội là 4%). Tình trạng thiếu đói giáp hạt đã giảm đáng kể, số lượt hộ thiếu đói giảm 27,6% so với năm 2011.
c) Về thực hiện chính sách ưu đãi người có công và
bảo trợ xã hội:
Các
chính sách, chế độ ưu đãi người có công được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đối tượng thụ
hưởng được mở rộng, mức trợ cấp được nâng lên. Triển khai thực hiện hỗ trợ nhà ở cho các gia
đình chính sách chưa có nhà ở kiên cố.
Đến cuối năm 2012, trên 98,5% hộ gia đình chính sách người có công có
mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú.
Thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên tại
cộng đồng cho gần 2,65 triệu người; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 2,53 triệu người. Các
tỉnh, thành phố có điều kiện như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,… đã nâng mức
trợ cấp xã hội thường xuyên cao hơn 1,6 lần mức quy định chung, tổ chức thăm
hỏi, tặng quà cho đối tượng trong các dịp lễ, tết; các tỉnh khó khăn được bổ
sung ngân sách đảm bảo xã hội để chi trả đầy đủ cho đối tượng theo quy định. Công tác thực hiện chính
sách từ khâu xác định đối tượng, hồ sơ thủ tục ra quyết định trợ cấp tiếp tục
được đổi mới, bảo đảm dân chủ, công bằng, minh bạch, giảm phiền hà cho đối
tượng. Hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội tiếp tục được củng cố, nâng cấp, tăng quy
mô, nâng cao chất lượng phục vụ.
d)
Về thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ, chăm sóc trẻ em:
Thực
hiện bình đẳng giới có nhiều tiến bộ đáng kể, được cộng đồng quốc tế công nhận
là quốc gia thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục bình đẳng cho
cả nam và nữ; là nước có tỷ lệ phụ nữ tham gia trong các cơ quan chính quyền,
hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội cao nhất khu vực. Số lao động nữ được
giải quyết việc làm mới năm 2012 chiếm gần 49% số lao động được giải quyết việc
làm mới; tuyển mới dạy nghề học sinh nữ đạt 44%, trong đó tuyển mới cao đẳng,
trung cấp nghề đạt 36% tuyển mới dạy nghề cả nước. Bộ máy, cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng
giới và Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tiếp tục được kiện toàn.
Công
tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có nhiều tiến bộ với nhiều hình thức
hoạt động phong phú như: chiến dịch phòng, chống đuối nước; phòng, chống tai
nạn thương tích cho trẻ em; mô hình ngôi nhà an toàn; tiếp tục triển khai thí
điểm các hình thức chăm sóc đi đôi với tăng cường công tác quản lý, phát hiện
và can thiệp, trợ giúp các đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt,… Các chỉ
tiêu về bảo vệ, chăm sóc trẻ em được hoàn thành[21].
đ) Về chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ nhân dân:
Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh; các biện pháp
phòng chống dịch bệnh được tích cực triển khai; công tác đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm được tăng cường. Số trường hợp phát hiện nhiễm HIV giảm 22%, số
người tử vong giảm gần 3 lần so với năm 2011. Ngộ độc thực phẩm tại các bếp ăn
tập thể giảm rõ rệt cả về số vụ, số mắc và số tử vong[22].
Năng lực của hệ thống
các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Tình trạng quá tải tại nhiều bệnh
viện đã được cải thiện bước đầu nhờ đưa vào hoạt động thêm nhiều cơ sở y tế mới[23].
Số giường bệnh trên một vạn dân đạt chỉ tiêu
Quốc hội đề ra là 21,5 giường; 100% xã có trạm y tế xã; 45% số xã đạt chuẩn
quốc gia về y tế theo chuẩn mới; tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ đạt 72%; số bác
sỹ trên một vạn dân là 7,4 bác sỹ. Các chỉ tiêu về sức khoẻ cộng
đồng đều
đạt kế hoạch. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm
xuống còn 16,3%, đạt chỉ tiêu Quốc hội đề ra; tỷ lệ tử vong của
bà mẹ giảm xuống còn 64/100.000 ca đẻ sống; tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
giảm xuống còn 15,4%o; tỷ lệ
trẻ em dưới 1 tuổi tiêm đầy đủ 7 loại văcxin đạt trên 90%. Tỷ lệ bao phủ bảo
hiểm y tế đến cuối năm 2012 đạt 68%.
Công tác dân số - kế hoạch hoá
gia đình đạt được những kết quả đáng khích lệ. Quy mô dân số là 88,78 triệu
người, tăng 1,06% so với năm 2011. Mức giảm tỷ lệ sinh đạt 0,1%0. Tỷ số giới tính khi
sinh ở mức 112,3 nam/100 nữ. Số bà mẹ được sàng lọc trước sinh và số trẻ em
được sàng lọc sơ sinh đạt 150% kế hoạch năm.
5. Về văn hoá, thể dục thể thao:
Hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy di sản văn hóa được quan tâm chỉ đạo
thực hiện. Các di sản văn hóa phi vật thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ và phát
huy nhằm từng bước góp phần làm đa dạng hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Các ngày lễ, hội truyền thống của dân tộc
tiếp tục diễn ra sôi nổi, phong phú. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội của các
địa phương trên toàn quốc đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đến hết năm 2012,
Việt Nam đã được UNESCO công nhận 17 di sản thế giới (7 di sản thiên nhiên, 7
di sản văn hóa phi vật thể và 3 di sản tư liệu).
Công tác quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn tiếp
tục được tăng cường. Các đơn vị
nghệ thuật chuyên nghiệp Trung ương và địa phương phát triển ổn định, tập trung
biểu diễn thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Nhiều hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng trong năm 2012 được tổ
chức nhằm chào mừng sự thành công của các sự kiện chính trị, xã hội quan trọng. Các
hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở với nhiều hình thức đa
dạng, phong phú, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; chất lượng các hội
thi, hội diễn, liên hoan dần được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân. Hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, thư viện tiếp tục được tập trung chỉ đạo thực
hiện.
Các hoạt
động thể dục thể thao quần chúng được tổ chức đa dạng, nội dung hoạt động sôi
nổi, thiết thực chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn tạo không khí vui tươi, phấn
khởi cho toàn thể nhân dân. Thể thao chuyên nghiệp và các giải thi đấu thể thao
có bước phát triển và đạt kết quả nhất định,... đã góp phần phát triển thể chất
và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
6. Về thông tin truyền thông:
Công tác thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh, phục vụ tốt
các nhiệm vụ chính trị của đất nước, động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện
tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đấu tranh chống tiêu cực, tham
nhũng. Hoạt động thông tin tuyên truyền tiếp tục tập trung vào các sự kiện nổi
bật trong năm như: phát động phòng trào học tập Nghị quyết Trung
ương 4; tổ chức các hoạt động kỷ niệm 110 năm ngày sinh Cố Tổng bí thư Nguyễn
Văn Cừ tại Bắc Ninh, cố tổng Bí thư Lê Hồng Phong tại Nghệ An; và các ngày kỷ
niệm quốc gia, các ngày lễ lớn trong năm;...
Việc phổ
biến chính sách pháp luật của cơ quan nhà nước các cấp được quan tâm hơn, như
các chương trình: “Dân hỏi Bộ trưởng trả lời”, “Đối thoại trực tuyến”,... góp
phần quan trọng, tạo sự đồng thuận đối với chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các chương
trình phát thanh truyền hình được thực hiện ổn định, đảm bảo thông tin nhanh,
kịp thời và nâng cao chất lượng tuyên truyền trên các hệ chương trình phát
thanh và các kênh truyền hình[24].
Thị trường viễn thông, internet tiếp tục phát triển. Công tác phát triển hạ
tầng thông tin truyền thông được đẩy mạnh; Vệ tinh Vinasat 2 được phóng thành
công lên quỹ đạo góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
7. Về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ:
Lĩnh vực giáo dục - đào tạo được quan tâm chỉ đạo và đạt
một số kết quả tích cực. Công
tác đổi mới quản lý giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh theo yêu cầu tăng cường
phân công, phân cấp, tăng quyền tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm trong quản lý giáo dục
các cấp. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, hệ thống thư viện
trường học ở các cơ sở giáo dục mặc dù còn thiếu thốn nhưng đã đáp ứng tốt hơn
các yêu cầu dạy và học theo hướng kiên cố hoá, hiện đại hóa, theo các chuẩn
quốc gia đã ban hành. Tỷ lệ lao động đang làm việc trong
nền kinh tế đã qua đào tạo năm 2012 đạt kế hoạch Quốc hội đề ra là 46%. Tỷ lệ huy động trẻ đến trường mầm non tăng so với
năm học 2011-2012, trong đó trẻ mẫu giáo 5 tuổi đến trường đạt tỉ
lệ 98,6%. Quy
mô các trường trung học tiếp tục ổn định; mạng lưới trường đại học, cao đẳng đã có ở hầu
hết các địa phương, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Tổng
số cơ sở có đào tạo trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục
tăng, tuy nhiên, quy mô học sinh giảm, tổng số học sinh nhập
học chỉ đạt 71,7% so với chỉ tiêu tuyển sinh.
Hoạt
động nghiên cứu khoa học đạt được những kết quả tích cực. Một số công trình
nghiên cứu có giá trị khoa học và thực tiễn, đóng góp thiết thực vào phát triển
kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học và công nghệ trong một số ngành, lĩnh
vực như viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng đã
đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực. Hệ thống dịch vụ khoa
học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và công nghệ, tư vấn chuyển giao
công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng, thị trường khoa
học và công nghệ tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển.
8. Về công tác bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó
với biến đổi khí hậu:
Công tác bảo
vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng
phó với biến đổi khí hậu được quan tâm
hơn trước. Đã tập trung chấn chỉnh công tác quản
lý, khai thác khoáng sản và sử dụng đất lúa. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
biện pháp bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển
khai. Nhiều chỉ tiêu về môi trường, phát triển bền vững đạt và vượt kế hoạch. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ
thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu
chuẩn môi trường đạt kế hoạch Quốc hội đề ra là 70%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg được xử lý đạt 85% (số đã
báo cáo Quốc hội là 83,6%), vượt kế hoạch Quốc hội đề ra (79%).
9. Về cải
cách tư pháp, cải cách hành chính và đấu tranh phòng, chống tham nhũng:
Công tác cải cách tư pháp trong năm 2012 có chuyển
biến tích cực và đạt được nhiều kết quả. Chương trình xây dựng Luật và Pháp
lệnh được thực hiện nghiêm túc, thể hiện qua một số lượng khá lớn văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung góp phần quan trọng trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và có nhiều biến đổi. Nhiều
chương trình, đề án cải cách tư pháp đã được xây dựng và triển khai thực hiện
có hiệu quả, trong đó có các đề án liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa
án, cơ quan điều tra, phát triển đội ngũ luật sư đáp ứng nhu cầu hội nhập, thực
hiện thí điểm chế định thừa phát lại,… Cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động tư
pháp được quan tâm đầu tư, nâng cấp. Ngoài ra, các hoạt động giám
sát đối với các cơ quan tư pháp, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật và trợ giúp pháp lý, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp,... được đẩy
mạnh, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong năm 2012, Quốc hội đã
thông qua một số Luật và Nghị quyết quan trọng, như: Luật Biển Việt Nam; Nghị quyết tổ
chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Nghị
quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ
các chức vụ quan trọng do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;...
Công tác cải cách hành chính được chú trọng
triển khai và đạt được những kết quả tích cực. Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; công tác đấu tranh, phòng, chống
tham nhũng được
quan tâm chỉ đạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” được triển khai sâu rộng
với tinh thần nghiêm túc, cầu thị và xây dựng từ cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng
tới từng đảng viên, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
10. Về công tác ngoại giao,
quốc phòng an ninh và bảo đảm ổn định chính trị xã hội:
Công tác đối ngoại và hội nhập kinh
tế quốc tế được chỉ đạo đồng bộ,
toàn diện và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ; hợp tác quốc tế và khu vực được mở rộng, đẩy mạnh,
tiếp tục duy trì môi trường hoà bình, ổn định ở khu vực để phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các hoạt động đối ngoại cấp cao được tăng
cường, với 49 đoàn Lãnh đạo Cấp cao các nước thăm Việt Nam, 37 đoàn Lãnh đạo
Cấp cao Việt Nam thăm các nước và dự các Hội nghị quốc tế.
Công tác quốc phòng, an ninh đạt kết quả quan trọng
trên các lĩnh vực: Củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân ngày càng vững chắc; nâng
cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; công tác sẵn sàng
chiến đấu, phối hợp xử lý kịp thời các tình huống; quản lý và bảo vệ chủ quyền
an ninh biên giới, biển đảo; phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ,
cứu nạn; công tác chính sách, bảo đảm đời sống bộ đội và vũ khí trang bị kỹ
thuật cho các nhiệm vụ; gắn kết chặt chẽ giữa củng cố quốc phòng, an ninh với
phát triển kinh tế - xã hội;... góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Công tác đấu tranh, phòng, chống tội
phạm và các tệ nạn xã hội được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả. Sự phối hợp liên ngành
trong phòng, chống mại dâm, ma tuý được đổi mới, chặt chẽ, hiệu quả hơn. Tổ chức cai nghiện phục hồi
cho 50 nghìn lượt người, trong đó cai nghiện mới 20 nghìn người; dạy nghề, tạo
việc làm sau cai cho 9 nghìn người; xây dựng mới 1.000 xã, phường lành mạnh
không có tệ nạn xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá
ở khu dân cư” được đẩy mạnh thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, giữ vững địa
bàn không phát sinh tệ nạn xã hội, giảm đáng kể số xã, phường trọng điểm về ma
tuý, mại dâm. Đến cuối năm 2012, có 8.526 xã, phường được công nhận đạt tiêu
chuẩn xã, phường lành mạnh không có tệ nạn mại dâm, ma tuý.
Việc thiết lập kỷ cương, trật
tự an toàn giao thông được thực hiện đồng bộ, quyết liệt trong năm 2012 là năm
An toàn giao thông đã góp phần hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông, giảm mạnh
số vụ tai nạn giao thông[25].
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
1. Những
kết quả đạt được:
Trong năm qua, quán triệt các Nghị quyết của Trung
ương, Bộ Chính trị, Quốc hội và của Chính phủ, các cấp, các ngành đã nỗ lực
phấn đấu thực hiện và đạt được nhiều kết quả: Lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Nền
kinh tế tiếp tục tăng trưởng. Lãi suất tín dụng giảm, cơ cấu tín dụng chuyển dịch
theo hướng tập trung vốn cho các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Nguy cơ thiếu hụt khả năng thanh khoản và đổ vỡ
ngân hàng đã được đẩy lùi, các chỉ số an toàn hoạt động được cải thiện. Tỷ giá cơ bản ổn định, dự trữ ngoại
hối tăng. Kim ngạch xuất khẩu tăng cao, đã cân bằng xuất nhập khẩu. Sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định. Khó khăn trong sản xuất, kinh doanh từng bước
được tháo gỡ, chỉ số tồn kho giảm dần. Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển khá.
Tiến độ giải ngân vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ được
đẩy nhanh; vốn ODA giải ngân tăng cao hơn so với cùng kỳ. Các đề án tái cơ cấu kinh tế được chú trọng xây dựng và
triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu. Các mục tiêu, nhiệm vụ về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong năm 2012
cơ bản được bảo đảm. Công tác
xóa đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp,
nông thôn đạt nhiều kết quả. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân có cải
thiện. Các lĩnh
vực giáo dục - đào
tạo, khoa học
- công nghệ, văn hóa, thể thao, thông tin truyền thông, được tập trung chỉ đạo và đạt một số kết quả tích cực. Bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng
phó với biến đổi khí hậu được quan tâm hơn trước. Cải cách tư pháp có nhiều chuyển
biến tích cực. Hệ thống pháp luật tiếp tục được
hoàn thiện. Cải cách hành chính, phòng, chống
tham nhũng, lãng phí có chuyển
biến tích cực. Công
tác phòng chống khắc phục hậu
quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn được quan
tâm. Tình
trạng ùn tắc giao thông được cải thiện, tai nạn giao thông giảm mạnh so với năm
trước. Công
tác ngoại giao, quốc phòng an ninh, ổn định chính trị xã hội được tăng cường.
2. Những
tồn tại, hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, tình hình kinh
tế - xã hội năm 2012 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, đó là:
- Nền kinh tế còn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro gây lạm
phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước không đạt
kế hoạch đề ra. Nợ xấu còn cao, việc tiếp cận vốn tín dụng vẫn gặp nhiều khó
khăn. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề
ra và chênh lệch lớn so với tốc độ tăng huy động vốn; lãi suất cho vay tuy có
giảm nhưng vẫn ở mức cao. Cân đối ngân sách nhà nước gặp khó khăn do thu nội
địa và thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt thấp so với dự toán. Huy động
vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt thấp. Xuất khẩu của khu vực kinh tế trong
nước tăng thấp, đồng thời nhu cầu nhập khẩu của khu vực này giảm nhiều, bộc lộ
sức sản xuất sụt giảm của các doanh nghiệp trong nước ngược lại với xu thế tăng
trưởng cao cả về xuất khẩu và nhập khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
- Thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Thị trường bất động sản trầm lắng. Việc quản lý khai thác tài
nguyên khoáng sản chưa chặt chẽ, gây lãng phí lớn và ảnh hưởng đến môi trường
sinh thái.
- Sản xuất công nghiệp, nhất là
công nghiệp chế biến, chế tạo phục hồi chậm. Một số sản phẩm công nghiệp chủ
yếu có mức tồn kho lớn. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn gặp
nhiều khó khăn; số doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động ở mức cao. Tình
trạng buôn lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, độc hại, vi
phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được ngăn chặn hiệu quả
gây bức xúc trong
xã hội, làm giảm lòng tin của người tiêu dùng. Giá thức ăn chăn nuôi tăng cao. Tình trạng chặt phá rừng, cháy rừng vẫn diễn ra gay gắt ở
một số địa phương.
Dịch
bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi và tiềm ẩn nguy cơ rủi ro.
- Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế triển
khai chậm. Sản xuất công nghiệp còn chủ yếu
tập trung vào sản phẩm gia công, giá trị gia tăng thấp. Phát triển công nghiệp phụ trợ
vẫn chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế. Nhiều sản phẩm trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường về
chất lượng, giá cả, mẫu mã và phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của sản phẩm cùng
loại nhập khẩu giá rẻ. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình sản
xuất trong nông thôn còn chậm, hiệu quả thấp, chưa thực sự tạo được sự chuyển
biến trong đời sống của người dân nông thôn.
- Tình trạng quá tải tại các bệnh
viện trung ương và bệnh viện các thành phố lớn còn cao. Chất lượng giáo dục, nhất là chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu. Cơ chế, chính sách huy động nguồn
lực xã hội hoá từ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ chưa đồng bộ và hiệu quả thấp.
- Hiệu lực của pháp luật và hiệu quả
của bộ máy nhà nước chưa cao. Việc tổ chức triển khai chính sách thiếu đồng bộ.
- Đời sống của người dân, nhất là các đối tượng yếu thế,
người nghèo, các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó
khăn. Nhiều lao động còn thiếu việc làm, không có việc làm thường xuyên, người
lao động ở khu vực phi chính thức tăng. Tai nạn
giao thông có giảm nhưng còn ở mức cao. Tình trạng khiếu kiện, tội phạm, tệ nạn
xã hội, tham nhũng còn diễn biến phức tạp.
Phần thứ hai
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ -
XÃ HỘI
NĂM 2013 VÀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 4 THÁNG ĐẦU NĂM 2013
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI CÁC NGHỊ
QUYẾT CỦA QUỐC HỘI
Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát
triển phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nýớc và phân bổ ngân
sách trung ương năm 2013, Thủ
tướng Chính phủ đã ra các quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và kế hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà
nước (bao gồm các chương trình mục tiêu quốc gia), vốn trái phiếu Chính phủ
đúng thời hạn trong tháng 12 năm 2012[26], tạo điều kiện cho các Bộ, cơ quan, địa phương triển khai thực hiện ngay từ đầu năm.
Đồng thời với việc giao kế hoạch và dự toán ngân
sách nhà nước, ngày 07/01/2013 Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết: số
01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; và số 02/NQ-CP
về một số giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Thực hiện các Nghị quyết của Quốc
hội và của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã khẩn trương xây dựng, ban
hành và triển khai Chương trình hành động. Nhiều bộ, ngành và địa phương đã và
đang tích cực triển khai thực hiện, cụ thể hóa các giải pháp đã được quy định
trong các Nghị quyết của Chính phủ[27].
Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, các vấn đề về cơ chế chính
sách rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp nên việc nghiên cứu và ban hành, thực hiện các giải pháp
chính sách cụ thể bị chậm trễ, chưa đáp ứng yêu
cầu tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và phát triển
kinh tế.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 4
THÁNG ĐẦU NĂM 2013
1. Về ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát:
a) Về giá cả, lạm phát:
Lạm phát tiếp tục được kiềm chế. Sau 7 tháng
tăng liên tiếp[28], chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
3/2013 đã giảm 0,19% so với tháng
trước, sang tháng 4/2013 CPI tăng
0,02% so với tháng trước, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ 4 năm qua[29]. So với tháng 12/2012, CPI tháng 4/2013 tăng 2,41%, cũng là mức tăng thấp nhất trong 4 năm qua[30].
So với cùng kỳ năm trước, CPI tháng 4/2013 tăng 6,61%. Tính bình quân, chỉ số giá 4 tháng đầu năm 2013
tăng 6,83% so với cùng kỳ năm 2012.
So với tháng
12/2012, chỉ số giá vàng tháng 4/2013 giảm 7,17%, chỉ
số giá đô la Mỹ tháng 4/2013 tăng 0,37%.
b) Về
tiền tệ, tín dụng:
Tính
đến ngày 18/4/2013, tổng phương tiện thanh toán (M2) ước tăng 4,8%
so với cuối năm 2012; tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức
tín dụng tăng 5,04%
so với cuối năm 2012;
dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ước tăng 1,44% so với tháng 12/2012; trong đó: tín dụng bằng VND tăng 3,26%,
bằng ngoại tệ giảm 6,88%.
Lãi suất huy động và cho vay
tương đối ổn định và đang có xu hướng giảm[31].
Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định. Dự trữ ngoại hối của Nhà nước
tăng cao, bảo đảm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế và ổn định thị trường ngoại tệ. Thị trường vàng từng bước được quản lý song chênh lệch
giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế (quy đổi) vẫn còn khá lớn.
c) Về xuất nhập khẩu:
Tổng
kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu
năm ước đạt 39,14
tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: khu vực kinh tế
trong nước tăng 3,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng
23,6%.
Một số mặt hàng chủ yếu trong 4 tháng đầu năm 2013 có kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với cùng kỳ là: điện thoại các loại và linh kiện tăng 97%; điện tử, máy tính và linh
kiện tăng 44,5%; dệt may tăng 18%; giày dép tăng 14,2%; phương tiện vận tải và
phụ tùng tăng 18,5%;…
Tổng kim
ngạch nhập khẩu 4 tháng đầu năm ước đạt 39,86 tỷ USD, tăng 17%; trong đó: khu vực kinh tế trong nước tăng 6,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 27%.
Một số mặt hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu tăng so
với cùng kỳ là: điện tử, máy tính và linh kiện tăng 61%; điện thoại và linh
kiện tăng 92,6%; vải tăng 16,1%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép tăng 13,4%;
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 10%; chất dẻo tăng 14,5%;…
Nhập siêu 4 tháng đầu năm khoảng 723 triệu USD, bằng 1,85% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhìn chung 4 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu vẫn tiếp tục đà tăng trưởng khá với sự đóng góp chủ yếu của khu vực FDI[32]. Đóng góp
chủ yếu vào kim ngạch xuất nhập khẩu trong 4 tháng đầu năm 2013
là các mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện, điện thoại các loại và linh
kiện, dệt may, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng và dầu thô.
d) Về thu chi ngân sách nhà nước:
Tổng thu ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm ước đạt 244,1 nghìn tỷ đồng, bằng 29,9% dự toán, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: thu nội địa ước đạt 164,3 nghìn tỷ đồng, bằng 30,1% dự toán, tăng 2,9%; thu từ dầu thô ước đạt 40,3 nghìn tỷ đồng, bằng 40,7% dự toán, tăng 4,6%; thu cân đối ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 38,3 nghìn tỷ đồng, bằng 23%, giảm 4,3%.
Tổng chi ngân
sách nhà nước 4 tháng đầu năm ước đạt 303,4 nghìn tỷ đồng, bằng 31% dự toán năm, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm
trước; trong đó chi đầu tư phát triển ước bằng 32,6% dự toán năm, tăng 13,2%.
đ) Về đầu tư phát triển: Giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và
vốn ODA đạt khá.
- Về vốn FDI: Trong 4 tháng đầu năm 2013, vốn thực hiện ước đạt 3,75 tỷ USD, tăng 3,9% với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký
ước đạt khoảng 8,22 tỷ USD, tăng 17%, trong đó: vốn đăng ký cấp mới đạt trên 4,87 tỷ USD, tăng 14,6%, vốn đăng ký tăng thêm đạt 3,35 tỷ USD, tăng 20,7%.
- Về vốn ODA: Trong 4 tháng đầu năm 2013, ước giải ngân đạt 450 triệu USD, bằng 10,4% dự kiến giải ngân cả năm
2013; trong đó: vốn vay ước đạt 400 triệu USD, viện trợ không
hoàn lại ước đạt 50 triệu USD.
2. Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
a) Về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP):
Nền kinh tế tiếp tục tăng
trưởng cao hơn so với cùng
kỳ năm trước. Tăng trưởng
GDP quý I năm 2013 (giá so sánh 2010) ước đạt 4,89%[33],
cao hơn cùng kỳ năm 2012 (4,75%). Ngành xây dựng, sau một thời gian trì trệ,
nhờ nỗ lực tháo gỡ khó khăn của các cấp, các ngành, đã có dấu hiệu tăng trưởng
trở lại, đạt mức 4,79% trong quý I năm 2013, cao hơn mức tăng cùng kỳ 2 năm liên tiếp trước đó (năm 2012 tăng
0,77%; năm 2011 giảm 0,01%). Mặc dù mức tăng
trưởng GDP quý I năm 2013 không cao như kỳ vọng nhưng là mức tăng hợp lý trong điều kiện nền
kinh tế trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, phải ưu tiên tập trung thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong quý I năm 2013, chỉ có khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao
hơn so với cùng kỳ năm trước. Hai khu vực sản xuất là nông, lâm nghiệp, thủy
sản và công nghiệp, xây dựng đều có mức tăng trưởng thấp hơn, cụ thể: Tốc độ tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản
chỉ đạt 2,24%, là mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ các năm gần đây (2010 tăng
4,08%; 2011 tăng 3,35%; 2012 tăng 2,81%) chủ yếu do khó khăn trong chăn nuôi và
nuôi trồng thủy sản. Tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,93%, thấp hơn cùng kỳ các năm trước (năm 2012 tăng
5,15%), trong đó, ngành công nghiệp có mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 4
năm qua[34]. Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ ước đạt 5,65%,
cao hơn mức tăng 4,99% của cùng kỳ năm trước.
Như vậy, tăng trưởng GDP quý I năm 2013 cao hơn cùng kỳ năm trước chủ yếu do tăng
trưởng cao của khu vực dịch vụ, đóng góp 2,6% điểm phần trăm vào mức tăng
trưởng chung.
b) Về sản xuất công nghiệp: Đã có những chuyển biến, nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn.
Chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) 4 tháng năm 2013 ước tăng 5% (cùng
kỳ tăng 5,9%), trong đó: khai khoáng tăng 2,1%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,5%; sản xuất, phân phối điện tăng 9%; cung cấp nước, xử lý nước thải
tăng 8,8%.
Riêng đối với ngành khai khoáng: khai thác dầu thô chiếm
tỷ trọng lớn nhưng chỉ số IIP 4 tháng đầu năm 2013 tăng ở mức thấp là 3,9%,
trong khi đó, một số ngành khai thác khác có chỉ số IIP giảm mạnh, như: khai
thác than cứng và than non giảm 2,5%; khai khoáng khác giảm 9,7% nên mức tăng
của toàn ngành khai khoáng thấp nhất so với các ngành còn lại.
Chỉ số tồn kho tại thời điểm
01/4/2013 của ngành công nghiệp chế biến tăng 13,1% so với cùng thời điểm năm
trước, thấp hơn mức 16,5% tại thời điểm 01/3/2013. Những ngành có chỉ số tồn
kho tăng cao so với cùng thời điểm năm trước, gồm: sản xuất đồ uống tăng 41,5%;
sản xuất xe có động cơ tăng 35,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 35%; sản
xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 26,6%;…
c) Về sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản tiếp tục phát triển nhưng đang gặp nhiều khó khăn do thời tiết không
thuận và dịch bệnh.
Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay vẫn tiếp tục đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến vụ Hè thu mới xuống giống. Tình trạng khô hạn ở
các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên vẫn còn diễn biến khá phức tạp, diện tích cây
trồng bị khô cạn cao hơn trước.
Quy mô đàn trâu bò 4 tháng đầu năm 2013 ước giảm 3-4% so
với cùng kỳ năm trước, đàn lợn ước tính giảm 2-3% do giá bán thấp trong khi giá
thức ăn chăn nuôi tăng và dịch bệnh bùng phát như dịch lợn tai xanh, dịch lở
mồm long móng. Chăn nuôi gia cầm đang tập trung đối phó với nguy cơ bùng phát
và lây lan virus cúm H5N1 ở trong nước và virus H7N9 từ Trung Quốc. Bên cạnh
đó, giá trứng gia cầm giảm khá mạnh nên cũng đã ảnh hưởng đến tái đàn, ước tính
số lượng gia cầm giảm khoảng 2-3% so với cùng kỳ năm 2012.
Tổng sản lượng thủy sản 4 tháng năm 2013 ước đạt 1.561
nghìn tấn, chỉ tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản tăng chủ
yếu là từ sản lượng thủy sản khai thác, đặc biệt là khai thác biển, tập trung
vào đối tượng cá lớn vùng biển xa bờ với sản lượng cá ngừ đại dương tăng khá;
trong đó sản lượng khai thác biển ước đạt 825 nghìn tấn, tăng 4,3% so với cùng
kỳ.
Nuôi trồng thủy sản 4 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn
chủ yếu do sản xuất cá tra chưa có dấu hiệu khởi sắc mặc dù giá thức ăn đầu vào
đã giảm nhẹ so với đầu năm nhưng giá thành vẫn lớn hơn giá bán, thị trường xuất
khẩu cá tra trầm lắng cùng với việc Bộ Thương mại Mỹ ra phán quyết áp đặt mức
thuế chống phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá ba sa phi lê đông lạnh của Việt
Nam xuất khẩu sang Mỹ (ngày 14/3/2013).
Do thời tiết khô hạn vẫn tiếp diễn
tại nhiều địa phương nên đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất lâm nghiệp, đặc
biệt là công tác trồng rừng. Trong 4 tháng đầu năm 2013 diện tích rừng trồng
tập trung là 14,7 nghìn ha, giảm 17,9% so với cùng kỳ năm trước; tổng diện tích
rừng bị thiệt hại là 534,1 ha, trong đó diện tích rừng bị cháy là 445,7 ha
(chiếm 83,4%).
d) Về
khu vực dịch vụ: Hoạt động thương mại tăng
trưởng chậm, khách quốc tế có xu hướng giảm.
Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 4 tháng năm
2013 ước tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước (tăng
21,6%).
Khách quốc
tế đến Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2013 ước đạt 2,4 triệu lượt người, giảm
5,3% so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế đến Việt Nam có mức giảm khá mạnh
ở tất cả các mục đích đến và ở hầu hết các thị trường[35].
Khối lượng vận chuyển hàng hoá 4 tháng đầu năm ước
tăng 2,6% so với cùng kỳ năm 2012; tuy nhiên, khối lượng luân chuyển hàng hóa ước giảm 9,8%. Khối lượng vận chuyển hành khách ước tăng 4,4%; khối
lượng luân chuyển hành khách ước tăng 4,1%.
đ) Về phát triển doanh nghiệp:
Phát triển doanh nghiệp gặp khó
khăn, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tiếp tục tăng đáng kể so với cùng kỳ
năm trước. Trong 4 tháng đầu năm 2013, cả nước có 23,8 nghìn doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký 123,38 nghìn tỷ đồng, so với
cùng kỳ năm 2012 thì số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 1,2% và số vốn
đăng ký giảm 14,1%.
Trong 4 tháng đầu năm 2013, khoảng 3
nghìn doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục giải thể doanh nghiệp, giảm 4,8% so
với cùng kỳ năm 2012; 16,6 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động[36],
tăng 16,9%. Tuy nhiên, trong 4
tháng đầu năm có 8,3 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong năm 2012 đã hoạt động trở lại, trong đó,
lĩnh vực kinh doanh có số doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại cao là bán
buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (chiếm 35,2%), lĩnh vực xây dựng (chiếm
17%), lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 14,9%).
3. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã
hội và các lĩnh
vực xã hội khác:
a) Về lao động,
việc làm:
Trong 4 tháng đầu
năm 2013 ước tạo việc làm cho khoảng 475,6 nghìn lao động, đạt 29,7% kế hoạch,
tăng 0,68% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó:
tạo việc làm trong nước khoảng 450
nghìn người, tăng 0,9%; xuất khẩu lao động 25,6 nghìn người, giảm 2,93%.
Việc thực hiện các chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, an toàn vệ sinh lao động, cải thiện quan hệ lao động được triển khai
đồng bộ, có nhiều tiến bộ so với cùng kỳ năm trước. Rà soát, nắm tình hình nợ
lương, nợ tiền tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động; tập trung giải
quyết các trường hợp doanh nghiệp bị giải thể, phá sản, ưu tiên giải quyết chế
độ, quyền lợi của người lao động theo quy định của pháp luật. Vận động các cơ
quan đoàn thể quan tâm, chăm lo đời sống người lao động, nhất là lao động ngoại
tỉnh làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất không có điều kiện về quê ăn Tết.
b) Về bảo đảm an
sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo:
Chính sách đối với người có công được tích cực thực hiện, đã trợ cấp
thường xuyên cho trên 1,5 triệu người, tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho 1,89
triệu người trong dịp Tết Quý Tỵ[37]. Đã
ban hành chính sách hỗ trợ người có công về nhà ở với mức hỗ trợ cao hơn và
phấn đấu cơ bản hoàn thành trong năm 2013.
Đã xuất cấp khoảng 38 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ nhân dân ở
những vùng bị thiếu đói, giáp hạt. Triển khai chính sách tín dụng lãi suất thấp
cho hộ cận nghèo; nâng mức hỗ trợ mệnh giá bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo lên
100%; phê duyệt Chương trình 135 giai đoạn 3; bổ sung 23 huyện nghèo được hỗ
trợ theo cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng quy định tại Nghị quyết 30a;
phê duyệt danh sách 311 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo
để hỗ trợ đầu tư hạ tầng, phát triển sản xuất (tăng 154 xã so với trước); hoàn
thành việc thí điểm hỗ trợ xây dựng nhà ở tránh lũ cho các hộ nghèo tại 7 tỉnh
Bắc Trung bộ, duyên hải miền Trung và đang chỉ đạo mở rộng ra cả vùng. Tổng
kết và tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số. Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí học tập và sinh hoạt cho trẻ em
nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và vùng khó khăn. Đẩy mạnh xây dựng nông thôn
mới; đã sửa đổi, bổ sung tiêu chí, cơ chế chính sách đầu tư cho phù
hợp hơn. Tích cực triển khai các hoạt động “Năm gia đình”; công tác
bình đẳng giới, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, người cao tuổi.
c) Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:
Công tác y tế dự
phòng và vệ sinh an toàn thực phẩm
được đẩy mạnh. Công
tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở giết mổ, sản xuất, chế biến thực phẩm được tăng cường, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán; kiên quyết xử lý nghiêm và công khai
các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm. Các biện pháp phòng
chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được triển khai; phát hiện và xử lý kịp thời, không để dịch
bệnh bùng phát, lây lan. Các cơ quan chức năng đã tăng cường phối
hợp, giám sát tại các
cửa khẩu, kịp thời ngăn chặn và giảm thiểu việc xâm nhập, lây truyền dịch bệnh[38];...
4. Về văn hóa, thể dục thể thao:
Hoạt động văn hoá, nghệ thuật,
thể thao kỷ niệm 83 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Tết Nguyên đán
được tổ chức sôi nổi, rộng khắp, đáp ứng yêu cầu chất lượng nghệ thuật, nội
dung tư tưởng. Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của Trung ương và các tỉnh,
thành phố tổ chức lưu diễn phục vụ nhân dân, chú trọng phục vụ nhân dân vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng kháng chiến cũ. Công tác
quản lý lễ hội được tăng cường. Bản sắc văn hoá và các giá trị truyền thống của
lễ hội được bảo tồn và phát huy, tạo sức hấp dẫn đối với du khách trong nước và
quốc tế. Ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội của người dân có
chuyển biến. Hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hoá được quan tâm.
Tổ chức các hoạt động thi đấu thể thao mừng Đảng,
mừng Xuân; tập
trung chuẩn bị lực lượng tham dự Đại hội Thể thao trong nhà và Võ thuật Châu Á,
World Games, SEA Games 27 năm 2013; ASIAD năm 2014 và các giải thi đấu ở trong
nước và quốc tế. Các đội tuyển tham dự giải thể thao quốc tế giành 29
HCV, 34 HCB, 33 HCĐ tại các giải
thể thao cấp thế giới, châu lục và Đông Nam Á.
5. Về thông tin truyền thông:
Công tác thông tin tuyên truyền các sự kiện chính trị
xã hội trên toàn quốc được quan tâm thực hiện, như: đưa tin, phản ánh về không khí đón tết, vui Xuân; các hoạt động kỷ niệm 83 năm thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam; các hoạt động ngoại giao, thăm hỏi chúc tết đồng bào của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phản ánh tình hình triển khai các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, nhất là nỗ lực của
các cấp, các ngành trong thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm
phát, tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; tuyên truyền về công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật đất đai sửa đổi, đồng thời
phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về công tác bảo
vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam;…
Hoạt động khai thác mạng lưới,
vận chuyển trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát trước, trong và sau Tết Nguyên
đán được bảo đảm đúng lịch trình, kịp thời. Công tác bảo đảm an toàn thông tin
và đáp ứng tối đa lưu lượng trong dịp tết được thực hiện tốt. Công tác quản lý
tài nguyên internet được bảo đảm, không phát sinh trường hợp bất thường. Hoàn
tất việc xử lý các tên miền liên quan đến chủ quyền biển, đảo. Đẩy mạnh xuất
bản các xuất bản phẩm bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới hải đảo, khẳng định
vị trí pháp lý của lãnh thổ đất nước đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa
và các xuất bản phẩm có nội dung đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc.
Chấn chỉnh quy trình xuất bản, trong đó chú trọng công tác biên tập, đọc duyệt
nội dung và quy trình liên kết xuất bản.
6. Về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ:
Trong 4 tháng đầu năm, đã tập trung chỉ đạo thực hiện Đề
án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tiếp tục thí điểm áp dụng một số
mô hình giáo dục/dạy học mới để đổi mới phương pháp giáo dục/dạy học, như mô
hình nhà trường lấy học sinh làm trung tâm,... Mạng lưới các trung tâm giáo dục
thường xuyên theo mô hình thực hiện đa nhiệm vụ được củng cố và phát triển. Xây
dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa cho người đi lao động xuất khẩu
lao động tại 62 huyện nghèo; phân cấp cho chính quyền địa phương các tỉnh/thành
phố quản lý đào tạo trung học chuyên nghiệp; đổi mới phương pháp dạy, học và
kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm
việc theo nhóm, phát triển các kỹ năng mềm;... Các hoạt động dạy nghề tiếp tục
phát triển theo hướng tăng cường đào tạo nghề trình độ cao, đồng thời đẩy mạnh
đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Tiếp tục đổi mới phương thức xây dựng, tổ chức và quản lý các Chương
trình khoa học - công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, cũng như các nhiệm vụ
nghiên cứu triển khai ở các cấp; nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu, tăng tỷ lệ các dự án sản
xuất thử nghiệm và huy động tiềm lực của doanh nghiệp để thương mại hóa sản
phẩm nghiên cứu, đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh. Thực
hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; hình thành hệ thống doanh
nghiệp khoa học - công nghệ, phát
triển thị trường công nghệ; tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu đổi mới
công nghệ; nâng cao năng lực các tổ chức dịch vụ khoa
học - công nghệ trên cả nước;...
7. Về tài nguyên môi trường:
Xây dựng và thực hiện dự án xây dựng cơ sở dữ liệu đất
đai quốc gia. Triển khai xây dựng các trạm quan trắc
tài nguyên nước; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về tài
nguyên nước; thực hiện công tác quy hoạch tài nguyên nước. Tiếp tục đẩy nhanh
xây dựng quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn, thực hiện việc thu gom chất thải rắn, bảo vệ môi trường[39].
Thực hiện đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước
biển dâng đối với tài nguyên nước trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn và vùng
châu thổ sông Cửu Long, đề xuất các giải pháp nhằm thích ứng với những hậu quả
do tác động của biến đổi khí hậu gây ra đối với tài nguyên nước.
8. Về công tác ngoại giao, quốc phòng an ninh và bảo đảm ổn định chính trị
xã hội:
Tiềm lực quốc phòng tiếp tục được củng cố. Tăng cường
quản lý biên giới, các hoạt động tuần tra bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán của Việt Nam trên biển, bảo vệ và cứu nạn ngư dân[40]; chỉ đạo xử lý kịp thời, linh hoạt các vi phạm chủ
quyền nước ta trên biển Đông.
An ninh chính trị được giữ vững; chủ động ngăn chặn
mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm tiếp tục được chỉ đạo quyết liệt. Ban chỉ đạo phòng chống
tội phạm của Chính phủ (138/CP) đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương
tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 48 của Bộ Chính trị về phòng, chống tội
phạm với nhiều mô hình tốt[41]. Đã mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm,
nhất là ở các thành phố lớn và trong các dịp Lễ, Tết, triệt phá nhiều băng nhóm
tội phạm nguy hiểm, xã hội đen, bảo kê, cướp giật, tội phạm sử dụng công nghệ
cao, tội phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng[42].
Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông theo Nghị
quyết số 21/2012/QH13 của Quốc hội và Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư được
thực hiện quyết liệt với nhiều giải pháp đồng bộ, có nhiều đổi mới, gắn với
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, coi công tác bảo đảm an toàn giao thông là
nhiệm vụ của cả cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành và của cả hệ thống
chính trị.
Công tác đối ngoại được đẩy mạnh toàn diện. Đã tích
cực tham gia và đạt được mục tiêu cơ bản trong các hoạt động đối ngoại đa
phương, đặc biệt là tại Hội nghị cấp cao ASEAN 22, Hội nghị cấp cao kinh tế
ASEAN - EU, các Hội nghị cấp cao về phát triển khu vực Việt Nam, Lào,
Campuchia, Thái Lan, Myanma. Quan hệ song phương, nhất là với các đối tác lớn
tiếp tục được tăng cường và đi vào chiều sâu; thiết lập mới quan hệ đối tác
chiến lược mới với Italia. Triển khai đẩy mạnh đàm phán các hiệp định tự do
thương mại với các đối tác, khối kinh tế lớn; chỉ đạo thực hiện đàm phán Hiệp
định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đã tổng kết 5 năm gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), 25 năm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và đề ra định
hướng cho giai đoạn tới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công
dân tiếp tục được quan tâm[43].
Đánh giá chung:
Trong 4 tháng đầu năm
2013,
các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện nghiêm túc các Nghị
quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ. Kinh tế vĩ mô bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực: Tăng trưởng kinh tế Quý I đạt 4,89%, cao hơn cùng kỳ năm trước; Lạm phát được kiềm chế, giá cả, thị
trường khá ổn định. Lãi suất tiếp tục được điều chỉnh giảm, góp phần tháo gỡ khó
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ giá và thị trường
ngoại hối diễn biến tương đối ổn định; thanh khoản các ngân hàng thương mại cải
thiện đáng kể; dự trữ ngoại tệ của Nhà nước tăng cao; thị trường vàng trong nước từng bước
đi vào hoạt động ổn định. Xuất
khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao, nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất
kinh doanh tăng trở lại. Đã có nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Vốn FDI đăng ký và
thực hiện đều tăng so với cùng kỳ năm trước; giải ngân vốn ODA đạt khá. An sinh
xã hội và phúc lợi xã hội được
triển khai tích cực, nhất là việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
cho gia đình chính sách, người có công, hộ nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó
khăn. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, vệ
sinh, an toàn thực phẩm được quan tâm. Công tác thông tin tuyên truyền được chú
trọng hơn, nhất là tuyên truyền các sự kiện chính trị, sửa đổi Hiến pháp năm
1992, các ngày lễ lớn,… Cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
được quan tâm chỉ đạo. Quốc phòng, an ninh được tăng cường,
chính trị, xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được củng cố.
Tuy
nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, ẩn
chứa nhiều rủi ro gây bất ổn định kinh
tế vĩ mô. Các khu vực sản
xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và khu vực công
nghiệp, xây dựng đều còn rất nhiều khó khăn. Chăn nuôi gia súc, gia cầm và nuôi
trồng thủy sản giảm sút. Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến và
chế tạo gặp rất nhiều khó khăn do chi phí đầu vào cao, sức mua giảm, tiêu thụ
chậm. Thị trường bất động sản còn gặp
nhiều khó khăn. Số lượng doanh nghiệp
ngừng hoạt động, giải thể và phá sản vẫn ở mức cao. Tiến độ thu ngân
sách nhà nước chậm hơn cùng kỳ các năm trước; giải ngân vốn
đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước đạt thấp. Số vụ tai
nạn giao thông và số người chết tăng so
với cùng kỳ năm 2012. Việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động vẫn gặp
nhiều khó khăn. Chậm cụ thể hóa các giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ-CP của Chính phủ để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phục hồi và
phát triển nền kinh tế.
III. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ CÁC GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Dự báo tình hình:
a) Tình hình kinh tế thế giới:
Kinh tế toàn cầu tháng 4/2013 tiếp tục đón
nhận những thông tin không mấy khả quan từ khu vực đồng Euro và khủng hoảng nợ
công châu Âu. Tuy nhiên, những dấu hiệu hồi phục của kinh tế thế giới cũng được
ghi nhận tại Mỹ, Nhật Bản và các nền kinh tế
đang nổi[44]. Trong báo cáo Giám sát Tài chính mới đây, IMF cho rằng
có tới 1/3 các nền kinh tế hàng đầu thế giới đang có vấn đề lớn về tài chính và
khuyến nghị đưa ra các chương trình giảm nợ rõ ràng
và đáng tin cậy trong trung hạn chứ không phải là các biện pháp khắc khổ trong
ngắn hạn để tránh làm sụt giảm tăng trưởng trong lúc các nền kinh tế vẫn yếu. IMF cũng cảnh báo chính sách tiền tệ siêu
lỏng lẻo của nhiều nước có thể kéo theo bong bóng tín dụng và đẩy thế giới vào
một cuộc khủng hoảng tài chính mới.
- Tại Mỹ, giá đầu vào giảm xuống mức thấp nhất kể
từ tháng 9/2012; các
hoạt động sản xuất
gia tăng, đặc
biệt là sự hồi phục rõ rệt của ngành xây dựng và ôtô[45]; lĩnh vực
bất động sản được cải thiện rõ rệt khi giá nhà đất và nhu cầu các khoản vay mua
nhà tăng nhẹ[46].
- Tại Nhật Bản, chính sách nới lỏng định lượng được
thông qua ngày 04/4/2013 nhằm mục tiêu đạt được mức lạm phát
2% trong vòng 2 năm[47]. Đồng Yên Nhật đã giảm xuống mức thấp nhất
so với USD kể từ 2009. Chỉ số Nikkei cũng gần lên mức đỉnh điểm trong vòng 5
năm qua vào ngày 05/4/2013. Chỉ số PMI (Purchasing Managers Index) trong cả lĩnh vực chế tác và dịch vụ tháng 3/2013 đều
tăng so với tháng trước, cho thấy sự hồi phục về các hoạt động kinh tế của Nhật
Bản. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp vẫn tăng từ 4,2% trong tháng 01/2013 lên 4,3% trong tháng 02/2013 do nhiều công ty vẫn còn miễn cưỡng trong việc
tuyển dụng để chờ đợi các tín hiệu phục hồi kinh tế.
- Tại Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm từ 7,9% trong quý IV năm 2012 xuống còn 7,7%
vào quý I/2013. Xuất nhập khẩu tháng 3/2013 cũng giảm mạnh so với tháng 02/2013[48]. Tuy nhiên, một số tín hiệu cho thấy kinh tế Trung Quốc đang hồi phục. Sản lượng công nghiệp của Trung
Quốc tháng 3/2013 đã tăng 8,9%, doanh số bán lẻ của Trung Quốc đã tăng 12,6%
trong tháng 3. Lĩnh vực đầu tư bất động sản của Trung Quốc đã tăng 20,2% trong
quý I/2013 so với cùng kỳ năm ngoái. Chỉ số PMI tháng 3/2013 ở mức cao là 51,6
điểm. Trung Quốc đã thu hút gần 30 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trong quý I/2013, tăng 1,44% so với cùng kỳ năm ngoái.
- Các nền kinh tế đang nổi khác cũng chứng kiến sự phục hồi
nhẹ. Chỉ số phát triển kinh tế tại các thị
trường mới nổi EMI đã tăng từ mức 52,4 điểm trong tháng 2/2013 lên mức 52,6 điểm trong
tháng 3/2013[49] và là
tháng thứ 6 liên tiếp ở trên mức 50 điểm. Các chỉ số về sản lượng, đơn hàng mới và
đơn hàng xuất khẩu vẫn ở trên mức 50 điểm cho thấy tăng trưởng tại các nền kinh
tế đang nổi trong quý I/2013 vững chắc hơn so với nửa cuối năm 2012. Chỉ số giá
đầu vào tại các nền kinh tế đang nổi đã giảm từ mức cao nhất 10 tháng trong
tháng 2/2013 xuống mức thấp nhất 7 tháng trong tháng 3/2013 do áp lực chi phí
trong ngành chế tác giảm.
- Chỉ số PMI tổng hợp của khu vực đồng Euro giảm từ 47,9 điểm tháng 2/2013 xuống còn
46,5 điểm tháng 3/2013, cho thấy tốc độ suy giảm của hoạt động kinh tế tại khu
vực này, đồng thời cũng là tháng thứ 19 liên tiếp
hoạt động sản xuất tiếp tục ở mức thu hẹp (ngoài trừ giai đoạn đầu năm trước).
Pháp tiếp tục đà suy giảm sản lượng với tốc độ suy giảm mạnh nhất trong vòng 4
năm. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh tại Đức tiếp tục hồi
phục, nhưng với tốc độ chậm dần và gần như ở mức đình trệ. Việc làm tiếp tục suy giảm tháng thứ năm liên
tiếp. Tại 27 nước Liên minh châu Âu (EU), lạm phát cũng tiếp tục xu hướng giảm,
duy trì ở mức 1,9% trong tháng 3/2013.
b) Dự báo kinh tế trong nước:
Những khó khăn, bất ổn định của kinh tế thế giới sẽ
ảnh hưởng lớn đến sự phục hồi và phát triển kinh tế của nước ta. Việc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản nới lỏng tiền tệ có thể sẽ ảnh hưởng tích
cực tới các nước mới nổi ở châu Á, dòng vốn đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản đổ
vào Việt Nam được kỳ vọng sẽ tăng lên trong thời gian tới. Tuy nhiên, đồng Yên có thể tiếp tục giảm giá, ảnh hưởng không thuận tới xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang
Nhật Bản.
Sức mua của nền kinh tế khó có thể tăng mạnh trở lại
trong một thời gian ngắn khi việc làm và thu nhập của người lao động giảm sút,
hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp thu hẹp
sản xuất, giải thể và phá sản nhiều, tồn kho vẫn ở mức cao.
Tăng trưởng tín dụng có thể sẽ khó tăng cao trong ngắn
hạn và thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng
nếu nợ xấu không sớm được giải quyết, các ngân hàng thương mại không có các
giải pháp hữu hiệu phân loại đối tượng cho vay mà vẫn siết chặt điều kiện cho
vay sẽ ảnh hưởng đến phục hồi nền kinh tế.
Khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần được tháo
gỡ cùng với việc tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn các nguồn
vốn tín dụng, giữ ổn định kinh tế vĩ mô để tăng niềm tin của doanh nghiệp và
người dân vào triển vọng đầu tư, kinh doanh.
Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến,
chế tạo cần được tháo gỡ để từng bước phục hồi. Ngoài ra, khả năng hạn hán sắp
tới rất lớn nên cần có các biện pháp hữu hiệu và kịp thời bảo đảm việc cung cấp
nguồn điện trong mùa khô sắp tới.
Nếu các khó khăn nêu trên không
được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2013
là rất khó khăn.
2. Những nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới:
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội năm 2013 đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ đề ra đồng thời xuất phát
từ thực tiễn tình hình 4
tháng đầu năm, Chính phủ
xác định nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới:
a) Tiếp tục thực hiện nhất quán mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ
mô, kiềm chế lạm phát, đạt mức tăng trưởng cao hơn năm 2012:
Điều hành chủ động, linh
hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với chính sách
tài khóa. Tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất, giảm chênh lệch giữa lãi suất huy
động và cho vay. Tăng cung tín dụng để góp phần tăng tổng cầu của nền kinh
tế, điều hành ở mức tăng 12% cả năm 2013;
tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên. Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín
hiệu thị trường, bảo đảm giá trị tiền đồng Việt Nam, tăng dự trữ ngoại hối nhà
nước. Quản lý tốt hơn thị trường vàng, thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước
và thế giới.
Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước; phấn đấu
giữ bội chi ngân sách như đã được Quốc hội thông qua (4,8% GDP). Triển khai thực hiện Chương trình quản lý
nợ trung hạn 2013-2015. Tập
trung các giải pháp chống thất thu, nợ đọng thuế. Kiểm soát chặt chẽ chi
ngân sách nhà nước; kiên quyết cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các khoản
chi chưa thực sự cần thiết; thu hồi các khoản vốn, kinh phí đã giao dự toán
nhưng đến hết 30/6/2013 các Bộ ngành, địa phương chưa phân bổ hết. Thực hiện
tiết kiệm thêm 10% các khoản chi thường xuyên (không kể chi lương); trong đó,
tiết giảm tối đa chi phí điện, nước, văn phòng phẩm, xăng dầu, tiết kiệm tối
thiểu 30% kinh phí hội nghị, tiếp khách, lễ hội, khánh tiết, đi công tác trong
và nước ngoài.
Đẩy nhanh tiến độ thi công và
giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là các nguồn vốn NSNN, trái phiếu
Chính phủ, ODA. Điều chuyển vốn của các dự án, công trình chậm tiến độ. Xem xét tiếp tục
ứng vốn trái phiếu Chính phủ đã giao
giai đoạn 2012-2015 cho một số công trình quan trọng cấp bách hoàn thành
trong năm 2013. Trình cấp có thẩm quyền bổ sung vốn trái phiếu
Chính phủ để dành cho dự án Quốc lộ 1A, Quốc lộ 14 đoạn qua Tây Nguyên. Tăng
cường huy động các nguồn lực ngoài ngân sách thông qua các hình thức
đầu tư thích
hợp.
Tiếp tục thực hiện chủ
trương điều chỉnh giá điện, than
cho điện, nước, dịch vụ công về giáo dục, y tế theo cơ chế thị trường với lộ trình phù hợp và
làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền.
b) Tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, xử lý nợ xấu, phát triển thị trường, tăng sức mua, đẩy mạnh tiêu thụ
hàng hóa:
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị
quyết số 01 và 02 của Chính phủ, nhất là các chính sách giãn, hoãn, miễn, giảm
thuế và chính sách hỗ trợ tín dụng. Các Bộ,
ngành, địa phương tăng cường chỉ đạo, rà soát, ban hành ngay các văn bản hướng
dẫn; tiếp tục rà soát, cải cách các chính sách thuế, phí, lệ phí, các thủ tục
đăng ký kinh doanh, tín dụng, thuế, hải quan, bất động sản... góp phần phục hồi và phát triển sản xuất kinh
doanh. Chỉ đạo quyết liệt việc xử lý nợ xấu, sớm thành lập và phát
huy vai trò của Công ty quản lý tài sản Việt Nam.
Tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp
thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là hỗ trợ về thị trường, khuyến nông, chủ động đối phó với dịch bệnh, thiên tai, nhất là vào mùa mưa bão.
Phát triển mạnh kinh tế biển theo tinh thần Kết
luận số 60/KL-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược biển.
Tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển
thị trường trong nước, nhất là hỗ trợ doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, đưa
hàng hoá về nông thôn, đổi mới kênh thu mua, phân phối. Thực hiện hiệu quả
các giải pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu như một đầu ra quan trọng của
nền kinh tế như: tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại; mở rộng thị
trường; bảo hiểm tín dụng xuất khẩu; bảo đảm chất lượng hàng xuất khẩu; nâng cao khả năng giải quyết tranh chấp thương
mại; hỗ trợ thông tin thị trường thế giới...
Tăng cường quản lý thị
trường, đẩy mạnh kiểm tra, thanh tra, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về giá cả, thị trường. Ngăn chặn có hiệu quả tình trạng chuyển giá, trốn,
lậu thuế, thao túng thị trường, buôn lậu qua biên giới...
c)
Triển khai thực hiện có kết quả các
nhiệm vụ trọng tâm tái cơ cấu kinh tế:
Các Bộ, ngành, địa phương các cấp khẩn
trương ban hành và chỉ đạo triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả
Chương trình hành động tái cơ cấu trong lĩnh vực quản lý nhà nước
được giao và Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế đã được phê duyệt.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy
động nguồn lực đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng theo tinh thần Nghị
quyết 13 của Hội nghị Trương ương 4 (Khóa XI).
Từ nay đến cuối năm, tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương tái
cơ cấu đầu tư đã đề ra. Tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, trình Quốc hội sửa Luật ngân sách nhà nước, ban hành Luật đầu tư công. Thực hiện Kế hoạch đầu tư trung hạn 3 năm
2013-2015. Tăng cường kiểm tra, giám sát trách nhiệm của
chủ đầu tư, nhà thầu và tư vấn giám sát trong việc bảo đảm chất lượng và tiến
độ công trình. Hoàn thành phê duyệt đề án tái cơ cấu và điều lệ tổ chức
và hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, đặc biệt là các đơn vị
trực thuộc các Bộ, ngành, địa phương. Đẩy mạnh cổ phần hóa; tiếp tục thoái vốn
đầu tư ngoài ngành kinh doanh chính tại các DNNN và tại các doanh nghiệp mà Nhà
nước không cần chi phối. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ pháp luật. Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng và công tác cán bộ đối với DNNN. Khẩn trương nghiên cứu, ban hành một số đề án, văn
bản quy phạm pháp luật nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tại doanh
nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty[50].
Tiếp tục
thực hiện lộ trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng theo Đề án và các phương
án đã được phê duyệt; trong đó tập trung vào xử lý nợ xấu, nâng cao
chất lượng tín dụng, tiết kiệm chi phí; tăng cường
việc giám
sát,
kiểm tra, thanh
tra nhằm bảo đảm an toàn cho từng tổ
chức tín dụng và toàn hệ thống.
Tiếp tục rà soát, bổ sung và phê duyệt quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế xã hội đối với 6 vùng lãnh thổ, 4 vùng kinh tế trọng
điểm, các địa phương, ngành còn lại. Hỗ trợ có hiệu quả các
vùng,
địa phương khó khăn, các sản phẩm chủ
lực, các sản phẩm mới cần khuyến
khích. Kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch.
d) Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và chăm sóc sức
khoẻ nhân dân:
Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các cơ chế chính
sách mới về xã hội, tiền lương, triển khai Bộ luật lao động, Pháp lệnh ưu đãi
người có công. Quan tâm hỗ trợ đối với 92 huyện nghèo, triển khai Chương trình 135
giai đoạn 3. Trợ giúp xã hội đối
với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thực hiện các cơ chế, chính
sách hỗ trợ về sản xuất, đời sống đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh
dạy nghề, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, gắn dạy nghề với tạo việc làm cho lao động nông thôn. Chú trọng giải quyết những trường
hợp hồ sơ còn tồn đọng và hỗ trợ giải quyết cơ bản về nhà ở đối với 71 nghìn hộ
người có công. Ngăn chặn và đẩy lùi
các nguy cơ xâm hại, buôn bán trẻ em và phụ nữ; thực hiện Đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc
thù.
Củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự
phòng, chủ động phòng, chống dịch bệnh, nhất là dịch cúm A (H1N1), (H5N1) và (H7N9), không để dịch lớn xảy ra. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để giảm quá
tải bệnh viện. Quản lý hiệu quả giá thuốc chữa bệnh. Tăng cường thanh tra, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm.
đ) Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ:
Tiếp tục triển khai thực hiện Luật
giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục và Kết luận của Hội nghị Trung
ương 6 (khóa XI), khẩn trương hoàn thành việc xây
dựng Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo. Đẩy mạnh thực hiện xã hội học tập. Chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm, liên kết đào tạo; nâng cao
chất lượng giáo dục đại học, nhất là đại học ngoài công lập. Nghiên cứu tăng mức
vay và mở rộng diện được hưởng chính sách tín dụng dành cho học sinh,
sinh viên.
Tiếp tục triển khai Nghị quyết của
Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI) và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ,
chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, chương trình nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Áp dụng cơ chế đặt hàng nghiên cứu khoa
học, cơ chế khoán thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Phát triển
dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định công nghệ và thị trường khoa học công
nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ.
e) Tăng cường phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu:
Triển khai Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa
XI) về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý
tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thực hiện có hiệu quả chiến lược
phát triển bền vững, chiến lược tăng trưởng xanh; làm tốt công tác bảo
vệ và phát triển rừng. Nâng cao khả
năng phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Tiến hành tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; triển khai chương trình hành động về phát triển mạnh mẽ thể
dục, thể thao. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao. Tích
cực phòng chống HIV/AIDS và đấu
tranh ngăn chặn các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy, mại dâm.
Tiếp tục hoàn thiện
pháp luật về thông tin truyền thông; thực hiện có hiệu quả chương trình quốc
gia về thông tin truyền thông. Đề cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan
thông tin đại chúng. Các Bộ, địa phương chủ động thông tin về chỉ đạo điều
hành; thực hiện trách nhiệm giải trình, cơ chế người phát ngôn; cung cấp kịp
thời, công khai, minh bạch cho các cơ quan báo chí. Làm tốt công tác dân vận.
Thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
g) Đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường phòng chống tham nhũng, lãng phí:
Nâng cao chất lượng, khắc phục tình trạng nợ đọng
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật và việc ban hành văn bản không phù hợp,
không khả thi. Hoàn thành tổng
kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường. Tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính; tích cực
triển khai Đề án cải cách chế độ công vụ, công chức; tăng cường công khai, minh
bạch trong hoạt động công vụ; xây dựng hệ thống vị trí việc làm trong các cơ
quan hành chính nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập; sớm ban hành và
triển khai Đề án tinh giản biên chế. Xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý dân cư sử
dụng chung, phục vụ việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho
người dân và doanh nghiệp.
Xây dựng,
triển khai các đề án, các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật phòng, chống
tham nhũng (sửa đổi). Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra để
phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Chỉ đạo thực hiện nghiêm
các kết luận thanh tra và việc xử lý sau thanh tra, kiên quyết thu hồi tài sản
của Nhà nước bị chiếm đoạt, thất thoát. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đề cao trách nhiệm của
lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tiếp dân và giải quyết
khiếu nại, tố cáo; xử lý vụ việc ngay từ cơ sở, không để phát sinh thành điểm
nóng; tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài.
h) Tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại:
Tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc
phòng, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Củng cố nền quốc
phòng toàn dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng kết hợp với phát triển kinh
tế. Tiếp cận khoa học công nghệ quốc phòng tiên tiến, làm chủ trang thiết bị kỹ
thuật, vũ khí hiện đại.
Tập trung
thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về công tác phòng,
chống tội phạm. Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn
dân đối với công tác phòng, chống tội phạm. Triển khai có hiệu quả các chương
trình mục tiêu quốc gia về phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy, phòng
chống mua bán người. Tất cả các địa phương kiên quyết truy quét, triệt phá các
băng nhóm tội phạm, hoạt động bảo kê, xã hội đen. Nhân rộng các mô hình phòng chống
tội phạm có hiệu quả.
Xây dựng và triển
khai Chiến lược tổng thể về hội nhập
quốc tế. Tích cực đàm phán và tham gia các khu vực mậu dịch tự do, mở rộng thị
trường. Triển khai lộ trình nâng cấp quan hệ với một số đối tác; đưa các mối
quan đã thiết lập đi vào chiều sâu, hiệu quả. Nâng cao vai trò, bảo đảm lợi ích
quốc gia tại các tổ chức, cơ chế, diễn đàn quốc tế và khu vực. Đóng góp tích
cực, trách nhiệm vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015.
Tăng cường công tác bảo hộ công dân, người lao
động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, bảo vệ ngư dân hoạt động trên biển. Kiên
trì, nhất quán chủ trương giải quyết các vấn đề trên biển bằng biện pháp hòa
bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Chủ động đối thoại về dân chủ, nhân quyền và tôn giáo. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, nâng
cao hình ảnh Việt Nam.
Thực hiện quyết liệt Chiến lược quốc gia về bảo
đảm trật tự an toàn giao thông đường bộ và các giải pháp đồng bộ đã đề ra về an
toàn giao thông. Tăng cường tuần tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật; đề
cao trách nhiệm của người thực thi công vụ. Quản lý chặt chẽ công tác đăng
kiểm, đào tạo, sát hạch lái xe, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mũ bảo hiểm.
Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao ý thức của người tham gia
giao thông, nhất là tại vùng nông thôn. Đẩy mạnh triển khai các dự án hạ tầng
giao thông trọng điểm và tổ chức giao thông hợp lý, nhất là tại các địa bàn
thường xảy ra ùn tắc, tai nạn.
*
* *
Trên đây là
báo cáo đánh giá
bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2012 và tình
hình triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, Chính phủ báo
cáo để Quốc hội xem xét./.
Nơi
nhận:
- Thủ tướng,
các Phó Thủ tướng CP;
- Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội (720b);
- Văn
phòng Chính phủ;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (145b);
- Lưu: VT,
KTTH (3b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
(đã ký)
Bùi Quang Vinh
|
[2]
Lãi suất cơ bản giảm 5% so với cuối năm 2011, từ mức trần
14%/năm xuống 9%/năm. Các mức lãi suất điều hành khác cũng giảm mạnh. Lãi suất
tái chiết khấu giảm từ 13%/năm xuống còn 7%/năm, trong khi lãi suất tái cấp vốn
giảm từ 15%/năm xuống 9%/năm.
[3]
Tỷ trọng dư nợ cho vay với lãi suất trên 15% giảm mạnh từ
mức 65,8% vào thời điểm trước 15/7/2012 xuống còn 19,2%.
[6]
Vốn ODA của Nhật Bản ở Việt
Nam giải ngân năm 2011 đứng thứ 2 thế giới, năm 2012 đứng số 1 thế giới. Vốn của
Ngân hàng Thế giới (WB) giải ngân tăng từ 13% lên 19% tổng số vốn ký kết.
[7] Nhà máy Thuỷ điện Sơn La; Các cảng
hàng không quốc tế Phú Quốc, Đà Nẵng, Cần Thơ; các tuyến quốc lộ: 1 (đoạn Ninh Bình), 21B, 18, 38, 32, 39, 3 (đoạn
Cao Bằng), 7, 48 (đoạn Nghệ An), 32, 12 (đoạn Lai Châu), 279; Cầu Đầm Cùng, Cầu
Hàm Luông; tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp;… Các tuyến đường quan trọng của địa
phương, như: đường Gò Găng - Long Sơn, Vị Thanh - Cần Thơ, Mậu Thân - sân bay
Trà Nóc, Đại lộ Đông Tây, Cầu Bạch Hổ,… Các tuyến đường liên huyện, đường ô tô
đến trung tâm xã được đầu tư, giao thông nông thôn miền núi được cải thiện.
Hoàn thành xây dựng cụm cảng Cái Mép - Thị Vải; mở rộng giai đoạn I cảng Đồng
Nai; hoàn thành đầu tư, nâng cấp cảng biển Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Tiên
Sa, Dung Quất, Kỳ Hà, Quy Nhơn,…
[9] Nghị quyết số 13/NQ-CP
ngày 10/5/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường; Nghị
quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2012 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu; Quyết định
số 704/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án hoàn thiện
quản trị doanh nghiệp theo thông lệ thị trường; Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày
17/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2012-2015; Quyết
định số 339/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ;… Đã trình Bộ Chính
trị thông qua Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng; Đang hoàn tất
thủ tục thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt
Nam. Đã soạn thảo trình Quốc hội dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), Luật
sửa đổi một số điều Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, trong đó kiến nghị giảm
mức thuế thu nhập doanh nghiệp để vừa giảm gánh nặng tài chính trước mắt cho
doanh nghiệp vừa khuyến khích đầu tư phát triển ổn định lâu dài, là yếu tố quyết
định đối với tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
[10] Khai thác
dầu thô và khí tự nhiên tăng 9,9%; sản xuất, truyền tải và phân phối điện tăng
12,4%; sản xuất thiết bị truyền thông tăng 48,3%; phụ tùng và bộ phận phụ trợ
cho xe có động cơ và động cơ xe tăng 39,6%; linh kiện điện tử tăng 23,7%; dây
cáp, dây điện và điện tử tăng 13,6%; giấy nhăn, bì nhăn, bao bì từ giấy và bìa
tăng 12,7%; mỹ phẩm, xà phòng, chất tẩy rửa, làm bóng và chế phẩm vệ sinh tăng
11,4%; chế biến sữa và sản phẩm từ sữa tăng 10,1%; bia tăng 9,8%; phân bón tăng
9,8%; sợi tăng 8,1%;... Sản xuất xe có động cơ giảm 12,6%; mô tô, xe máy giảm
12%; điện tử dân dụng giảm 8,1%; xi măng giảm 5%; hàng may sẵn (trừ trang phục)
giảm 3,9%; khai thác và thu gom than cứng giảm 9,1%;...
[11]
Điện
cung cấp cho các lĩnh vực khác đều tăng: điện cho quản lý và tiêu
dùng dân cư tăng khoảng 12%, chiếm tỷ trọng 36,4%; điện dùng cho khu vực thương nghiệp, khách sạn nhà hàng tăng 15%, chiếm tỷ trọng 4,7%; điện dùng cho nông, lâm nghiệp, thủy sản
tăng mạnh, khoảng 39,3%, chiếm tỷ trọng 1,4%; điện cho các hoạt động khác tăng khoảng
10,6%, chiếm tỷ trọng 4,9%.
[12]
Sản lượng lúa đạt 43,7 triệu tấn, tăng 1,3 triệu tấn so với năm 2011. Trong đó, lúa Đông Xuân đạt gần 20,3 triệu tấn, tăng 510,4 nghìn tấn so với vụ Đông Xuân trước; lúa Hè Thu đạt 14 triệu tấn, tăng 573,3 nghìn tấn; lúa mùa đạt gần 9,4 triệu tấn,
tăng 179,6 nghìn tấn.
[13]
Sản lượng chè đạt 923,1 nghìn tấn, tăng 5%; cà phê đạt 1292,4 nghìn tấn, tăng 1,2%; cao
su đạt 863,6 nghìn tấn, tăng 9,4%; hồ tiêu đạt 112,7 nghìn tấn, tăng 0,6%.
Riêng sản lượng điều giảm, đạt khoảng 297,5 nghìn tấn, giảm 3% so với năm 2011. Nhiều nhóm hàng nông sản có sản lượng xuất khẩu tăng khá,
như: Sắn và sản phẩm sắn tăng 55,2%; cà phê tăng 37,9%; cao su tăng 23,8%; hạt
điều tăng 25,6%; gạo tăng 13,1%; chè tăng 10,4%.
[14] Do tỷ lệ che phủ rừng năm 2011 đánh giá lại chỉ đạt 39,7% (giảm so với số
ước tháng 10/2011 là 40,5%). Ngoài ra việc chuyển đổi đất rừng sang trồng cây
công nghiệp ở Tây Nguyên, tích nước các hồ thuỷ điện, nạn phá rừng và tình
trạng cháy rừng tại một số địa phương cũng ảnh hưởng đến việc chỉ tiêu này
không đạt kế hoạch.
[15]
Sản lượng thịt hơi cả năm đạt 4,3
triệu tấn, tăng 2,5% so với năm 2011, trong đó: thịt trâu tăng 0,8%; thịt bò tăng
2,4%; thịt lợn tăng 2%. Sản lượng thịt gia cầm tăng 4,8%. Sản lượng sữa tươi tăng 9,8%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi tăng 5,9%.
[16] Đến cuối năm 2012 có 96,8% số hộ dân
nông thôn có điện; 80% dân số nông thôn được sử
dụng nước hợp vệ sinh; tỷ lệ hộ dân có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 58%; 98,6% tổng
số xã cả nước đã có đường ô tô đến trung tâm xã.
[17]
Một số thị trường có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước là: khách
Nga tăng 71,5%, Hàn
Quốc tăng 30,7%, Ma-lay-xi-a tăng 28,3%, Thái Lan tăng 24,2%, Nhật Bản tăng
19,7%. Trong khi đó một số thị trường như Úc, Trung Quốc hầu như không tăng so
với năm 2011.
[18]
Đài Loàn 30.533 người, Nhật
Bản 8.775 người, Hàn Quốc 9.228 người, Malaysia 9.298 người, , Ảrập Xêut 2.360
người, Macau 2.304 người, UAE 1.731 người, Campuchia 5.215 người, Lào 6.195
người, Sip 1.669 người, đưa trở lại thị trường Libia 615 người,…
[19]
Năm
2012, cả nước có 482.128 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, tăng 43,5% so với
năm 2011; số người thất nghiệp đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp
là 432.356 người, tăng 46,4%; số người thất nghiệp
có quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng là 421.048 người, tăng
45,6%; số người được tư vấn giới thiệu việc làm là 342.145 người, tăng 58,8%;
số người được trợ cấp học nghề là 4.776 người, tăng 3,6 lần.
[20]
Hỗ
trợ giáo dục - đào tạo; hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, cận nghèo;
hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà
ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg đã hoàn thành các mục tiêu, yêu cầu đề ra
với 511.644 hộ nghèo đã được hỗ trợ nhà ở, đạt 103% so với số hộ phê duyệt ban
đầu); đào tạo nghề ngắn hạn cho lao động nông
thôn; hỗ trợ xuất khẩu lao động đối với lao động trên địa bàn các huyện nghèo;
chính sách cho vay tín dụng ưu đãi, hướng dẫn cách làm ăn và khuyến nông lâm ngư;
hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo;…
[21]
Tỷ
lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên tổng số trẻ em giảm xuống dưới 5,8%; 82%
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc dưới các hình thức như trợ cấp xã
hội, trợ giúp về khám chữa bệnh, chỉnh hình phục hồi chức năng, hỗ trợ về giáo
dục, tư vấn, tham vấn, tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em, các phúc lợi xã hội và
các hình thức trợ giúp khác; 60% trẻ em phát hiện có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh
đặc biệt được can thiệp để giảm thiểu, loại bỏ nguy cơ; 90% trẻ em có nguy cơ bị
xâm hại khi phát hiện được can thiệp và trợ giúp kịp thời; 65% xã, phường được
công nhận đạt tiêu chuẩn xã phường phù hợp với trẻ em;…
[22] Số vụ ngộ độc thực phẩm giảm
20,7%, số mắc giảm 12,7%, số đi viện giảm 22,3% và không ghi nhận trường hợp tử
vong.
[23] Đã đưa vào hoạt động hơn 1.350
giường bệnh mới tại một số bệnh viện như Bệnh viện đa khoa trung ương Quảng
Nam, cơ sở Tân Triều của Bệnh viện K, cơ sở Tam Hiệp của Bệnh viện Nội tiết
Trung ương, Viện Tim mạch bệnh viện Bạch Mai,…
[24]
Đến hết năm 2012, 100% số hộ có thể nghe ổn định ít nhất một hệ phát thanh
của Đài Tiếng nói Việt Nam; 99,5% số hộ có thể xem được Đài Truyền hình Việt
Nam.
[25]
Năm 2012, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 10.081 vụ
tai nạn giao thông, làm chết 9.838 người và làm bị thương 7.624 người. So với
năm 2011, số vụ tai nạn giao thông giảm 28,1%, số người chết giảm 14,1% và số
người bị thương giảm 28,2%.
[26]
Thủ tướng Chính phủ đã ra các Quyết định: số 1788/QĐ-TTg ngày 05/12/2012 về việc
giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013; số 1792/QĐ-TTg ngày
30/11/2012 về việc giao dự toán NSNN năm 2013; số 1902/QĐ-TTg ngày 19/12/2012
về việc giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2013; số 2086/QĐ-TTg
ngày 27/12/2012 về việc giao kế hoạch vốn TPCP năm 2013; và số 2081/QĐ-TTg ngày
26/12/2012 về việc giao dự toán NSTW năm 2013 thực hiện chương trình MTQG ứng
phó với biến đổi khí hậu và Chương trình MTQG khắc phục ô nhiễm và cải thiện
môi trường.
[27] Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất huy động và
cho vay, tập trung vốn cho vay các lĩnh vực ưu tiên; ổn định tỷ giá. Bộ Công thương
chỉ đạo thực hiện giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ
thị trường; phê duyệt Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia năm 2013; tiếp tục rà soát và cập nhật
danh mục các mặt hàng không thiết yếu, các mặt hàng trong nước đã sản xuất được
để có biện pháp kiểm soát nhập khẩu, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại,
phát triển thị trường nội địa, đưa hàng Việt về nông thôn, miền núi. Bộ Tài chính ban hành
thông tư hướng dẫn thực hiện việc gia hạn, giảm một số khoản thu Ngân sách Nhà
nước theo Nghị quyết số 02/NQ-CP; trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thuế giá trị gia tăng; trình Chính phủ giãn thời gian nộp đối với một số
sắc thuế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Thông tư hướng dẫn về đăng ký doanh
nghiệp nhằm tăng cường minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính liên quan đến sản xuất kinh doanh và đầu tư; tiếp tục phối hợp với các bộ,
ngành liên quan đẩy mạnh việc rà soát, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong
hoạt động giải ngân vốn đầu tư phát triển, vốn trái phiếu Chính phủ;...
[31] Lãi suất cho vay VND phổ biến
đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa,
công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở mức 9-11%/năm; lãi
suất cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác ở mức 11-13%/năm ở khối NHTM
Nhà nước, 12-15%/năm ở khối NHTM cổ phần.
[33]
Trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2,24%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,93%; khu vực dịch vụ tăng 5,65%
[35]
Trong đó: khách du lịch chiếm tỷ trọng lớn (61,3%) giảm 3,8% so với cùng kỳ
năm trước; khách đến với mục đích công việc (chiếm 16,8%) giảm 5,4%.
[36] trong
đó, số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 4,3 nghìn doanh nghiệp, số
doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng chưa hoàn thành thủ tục đóng mã số thuế là
12,3 nghìn doanh nghiệp.
[37] Kinh phí
thăm hỏi tặng quà từ ngân sách trung ương là 393,5 tỷ đồng, ngân sách
địa phương và nguồn xã hội hóa là trên 800 tỷ đồng.
[38] Trong 4 tháng đầu năm 2013, cả nước có trên
18 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, giảm 36% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó có 5 trường hợp tử vong; hơn 11 nghìn người mắc bệnh sốt xuất huyết,
tăng 3,1%, trong đó có 10 trường hợp tử vong; Cúm A (H5N1) đã ghi nhận 01
trường hợp mắc và tử vong tại Đồng Tháp;… Tính đến 17/4/2013, cả nước có khoảng 210,6 nghìn người nhiễm HIV/AIDS,
trong đó khoảng 54,4 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và khoảng 54,5
nghìn người đã tử vong do AIDS. Về
vệ sinh an toàn thực phẩm: trong 4 tháng đầu năm xảy ra 23 vụ ngộ độc thực phẩm với 737 người mắc và 04 trường hợp tử vong.
[39] Hiện có 22/63
tỉnh đã hoàn thành việc lập, phê duyệt Quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa
bàn, các tỉnh còn lại đang lập và dự kiến trình phê duyệt năm 2013.
[42] Tính đến trung tuần tháng 3, đã
điều tra khám phá gần 10.832 vụ phạm tội
về trật tự xã hội, xử lý 24.909 đối tượng, triệt phá 478 băng nhóm tội phạm;
phát hiện, xử lý 3.639 vụ vi phạm về trật tự kinh tế, trong đó có 87 vụ vi phạm
pháp luật về tham nhũng, lợi dụng chức vụ; xử lý 2.658 vụ với 12.047 đối tượng
cờ bạc, phá 4.968 vụ với 7.390 đối tượng phạm tội ma túy; bắt và vận động 3.001
đối tượng truy nã trong đó có 789 đối tượng nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm.
[43] Tổ chức thành công Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ II, Kiều bào thăm Trường Sa, Chương trình Xuân Quê hương. Bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, ngư dân,
lao động làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ kiều bào ta tại các địa bàn khó khăn.
[44] Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF, 4/2013) đã hạ dự
báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2013 xuống 3,3%, thấp hơn 0,2% so với dự
báo tháng 1/2013 do lo ngại những rủi ro mới đối với toàn cầu như sự kiện tại Cộng
hòa Síp và bất ổn chính trị tại Italia.
[46] Báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ ngày 16/4/2013
cho thấy số nhà xây mới tại Mỹ trong tháng 3/2013 tăng lên 1,04 triệu ngôi nhà,
cao hơn dự báo 930.000 của các chuyên gia và tăng mạnh nhất trong vòng 5 năm
qua.
[47] Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) sẽ mua
lại 7.500 tỷ Yên (78,6 tỷ USD) trái phiếu mỗi tháng.
[48]
Xuất khẩu tháng 3/2013 tăng 10% so với cùng kỳ năm trước nhưng chỉ bằng một nửa
so với mức tăng 21,8% trong tháng 2, nhập khẩu trong tháng 3/2013 tăng 14,1% so
với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn thấp hơn mức tăng 15,2% trong tháng 2/2013.
[50] Về hoạt động
của Kiểm soát viên; tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng
quản lý nhà nước; tổ chức, quản lý, hoạt động và giám sát đối với tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước; đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý tài
chính đối với doanh nghiệp do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét