Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

TQ muốn trở lại làm 'Thiên triều' của khu vực?

Trung Quốc muốn trở lại làm 'Thiên triều' của khu vực?
Những hành động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông không phải vì dầu khí hay tài nguyên cá mà chính là tư tưởng “Đại Hán”, muốn quay lại thời làm “Thiên triều” của các nước lân bang xưa cũ. Đó là nhận định của nhà báo Philip Bowring – nhà bình luận thời sự Hong Kong ngày 21/8 trên tờ Financial Times.
Tử Cấm thành ở Bắc Kinh - biểu tượng quyền lực của phong kiến Trung Quốc.

Nhà báo này viết: “Bắc Kinh đang tìm cách biến Biển Đông thành một cái “hồ của Trung Quốc”. Hành động dần dần chiếm đóng Biển Đông của Trung Quốc không phải được thúc đẩy bởi nguồn dầu khí hay thủy sản mà có 2 nguyên nhân sâu xa là: Vị trí chiến lược và những người dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc tự cho rằng đất nước họ hôm nay có “vận mệnh hiển nhiên”, một khái niệm vay mượn từ lịch sử nước Mỹ. Nó có nghĩa là ý thức rằng Trung Quốc có quyền sở hữu vùng biển này cũng như quan niệm những nước láng giềng – những nơi chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc ở địa vị thấp hơn đã ăn sâu trong suy nghĩ của người Trung Quốc.

Giờ đây Trung Quốc không còn cảm thấy cần thiết phải được yêu thích. Lời hứa về “sự trỗi dậy hòa bình” của nó đã được thay thế bởi những hành động sô vanh được thực hiện để thu hút những người dân trong nước.

Trung Quốc có thể phải mất hàng thập kỷ để xây dựng được một lực lượng hải quân tương xứng với Mỹ và các đồng minh châu Á – Thái Bình Dương. Nhưng với việc thiết lập chỗ đứng vững chắc ở các vị trí xa bờ của riêng mình, Trung Quốc đã bỏ qua các nước láng giềng và trở thành một mối đe dọa cho các quốc gia lớn hơn và hoạt động thương mại của họ trong khu vực Biển Đông.

Hoạt động này là giai đoạn đầu trong kế hoạch biến Biển Đông – một khu vực trong 2000 năm qua đã trở thành điểm hẹn của các nền văn hóa và một đại lộ của thương mại toàn cầu nhưng chưa từng thuộc sự thống trị của Trung Quốc, thành một cái “hồ của Trung Quốc”.

Thuật ngữ tiếng Anh “South China Sea” chính là một cái tên nhầm lẫn khiến người ta dễ tin vào tuyên bố của Bắc Kinh. Trong khi người Trung Hoa gọi đây là biển Nam Trung Hoa thì người Việt Nam gọi là Biển Đông, và người Philippines gọi là biển Tây Philippines. Rõ ràng nó thiếu một cái tên chung.

Những người châu Âu đầu tiên đến đây đã gọi vùng biển này là Biển Chăm khi họ đến buôn bán ở khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay nhưng lúc đó chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, Mã Lai.

Một thuật ngữ chính xác hơn sẽ là biển Mã Lai nếu như ta biết rằng cư dân Malaysia, Indonesia và Philippines vẫn có mối liên hệ gần gũi với những cư dân Đài Loan và ven biển Việt Nam.

Trung Quốc (bao gồm của Đài Loan) chỉ chiếm ¼ bờ biển trong khi ¾ còn lại là thuộc sở hữu của 500 triệu dân Việt Nam, Philippines, Indonesia, Brunei và Malaysia.

Quần đảo Hoàng Sa, nằm về phía Đông của Việt Nam và phía Nam Trung Quốc đã bị Trung Quốc chiếm đóng năm 1974 sau một hành động vũ lực. Mặc dù các đảo chưa bao giờ là nơi sinh sống vĩnh viễn của cư dân, vấn đề được tranh cãi hơn là phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và chỉ có thể được giải quyết tốt hơn bằng một tòa án quốc tế.

Tuy nhiên, việc triển khai giàn khoan của Trung Quốc vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gần đây cho thấy rằng họ không quan tâm đến trọng tài quốc tế hoặc thỏa thuận.

Tranh đả kích kiểu nói một đằng làm một nẻo của Trung Quốc.

Ngoài ra, Trung Quốc cũng ráo riết hoạt động để mở rộng các bãi đá và cát ngầm trong vùng biển nằm rất gần Philippines, Malaysia và Indonesia nhưng cách Trung Quốc tới 1000 dặm. Đây là hành động đáng nực cười đối với bất kỳ tòa án độc lập nào.

Trung Quốc chỉ dựa vào một căn cứ mơ hồ là lịch sử các chuyến thăm của thủy thủ nước họ mà bỏ qua việc những người dân lân bang trong hàng ngàn năm mới là cư dân chính ở Biển Đông.

Người dân Đông Nam Á, ít nhất là cho đến cuối thời kỳ thuộc địa, luôn là những người buôn bán chính trên Biển Đông. Thật vậy, điều đó là rất quan trọng, cho thấy khu vực này chịu rất ít tác động trực tiếp của Trung Quốc.

Làn sóng văn hóa nước ngoài đầu tiên đến với khu vực này là từ các hoạt động thương mại của Ấn Độ với kết quả là một loạt nước Đông Nam Á chịu ảnh hưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo cũng như các văn hóa Ấn Độ khác. Tiếp theo là các thương nhân Ả Rập, Hồi giáo Ba Tư đã đến rồi mới đến người châu Âu tới buôn bán gia vị, hương liệu.

Thương mại với Trung Quốc cũng quan trọng với khu vực nhưng họ là những người đến sau và cũng chỉ là những thương gia thuần túy chứ không phải các hoạt động buôn bán đại diện cho Nhà nước Trung Quốc.

Đến đầu thời nhà Minh, Trung Quốc tìm cách đóng vai trò chính trị trong khu vực với những chuyến đi của Trịnh Hòa – viên đô đốc sống trong thế kỷ 15, cùng với một hạm đội lớn vòng quanh Đông Nam Á.

Bằng cách nào đó, Trung Quốc cho thấy rằng thương mại của các nước Đông Nam Á là đối tượng của Bắc Kinh vì theo thời gian họ phải “cống nạp”. Nhưng Bắc Kinh chỉ được “tôn vinh” là bá chủ về các quyền không giao dịch. Quan niệm Trung Quốc là lãnh đạo chính trị thực chất đã không dựa trên thực tế mà chỉ dựa vào giả định về tính ưu việt của dòng máu Hán. Đây là vấn đề dòng máu, không thuộc về khoa học hay văn hóa.

Niềm tin vào sự đặc biệt của gen Trung Quốc – và do đó từ chối quan niệm phổ biến rằng cái nôi của loài người là ở châu Phi, vẫn thu hút nhiều “tín đồ” ở Trung Quốc.

Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định bản thân người Hán không có “gen xâm lược” và đổ lỗi cho những hành động xâm lược trong lịch sử là do các hoàng đế Mãn Châu, Mông Cổ. Nhưng người Hong Kong mới đây đang kêu gọi Bắc Kinh hãy nhớ rằng lòng yêu nước đi liền với dòng máu.

Các yêu sách cùng với sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc gần đây đang gây lo lắng cho các nước láng giềng. Quốc gia già nua này bây giờ không còn bị sức ép dân số để đưa dân Trung Quốc vào Đông Nam Á như họ đã làm trong thời đại nhà Thanh thế kỷ 17 và thế kỷ 20 vào Mãn Châu, Mông Cổ và vùng đất gốc của Thổ Nhĩ Kỳ.

Do vậy, cả về nhân khẩu học và lịch sử, Trung Quốc xông vào Biển Đông và va chạm với 500 triệu dân xung quanh sẽ thất bại. Nhưng bây giờ điều quan trọng phải hiểu rằng động cơ của Trung Quốc để kiểm soát đại dương này là các yếu tố nội tại hơn chứ không phải chỉ vì các nguồn hải sản và nhiên liệu.

Trần Vũ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét