Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (5)

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (5)
Sự Can Thiệp của Nhà Tấn
Nhà Ngô ở Nam Kinh phung phí quá độ nên có một nhu cầu rất lớn về những đồ xa xỉ ở miền Nam và cần đến kỹ năng của những người thợ thủ công khéo léo. Dưới triều Ung An (258-63), Thái Thú Giao Chỉ là Tôn Tư đã trưng dụng trên 1.000 tay thợ khéo nhất để đưa họ sang Nam Kinh. Tiếc thay là chúng ta không được biết họ là những thợ về những ngành gì. Được biết Tôn Tư đã bị mọi người ghét bỏ vì những hành động như vậy cũng như vì các sự tàn bạo của ông. Năm 263, triều đình nhà Ngô sai một quan chức là Đặng Tuân sang Giao Chỉ lấy cớ là cần điều tra về tình trạng rối ren do Tôn Tư gây ra. Nhưng khi Đặng Tuân vừa tới nơi, Tôn Tư lại mới vừa thu được 30 con công gửi về Nam Kinh, gây thêm sợ hãi là sẽ có nhiều người nữa bị trưng dụng để gởi về nơi xa. Tình trạng có thể đã không trở nên trầm trọng hơn hơn nếu không có những biến cố ở Tứ Xuyên khiến người ta lại hy vọng có thể đuổi được quân Ngô.
Năm 263, nhà Ngụy đánh được nhà Thục Hán ở Tứ Xuyên và từ đó đe dọa nhà Ngô ở phía Tây. Những người chống Ngô ở Việt Nam hy vọng có thể lợi dụng được tình hình ấy. Lã Hưng, một quan chức Ngô ở Giao Chỉ được dân chúng địa phương và các binh sĩ ủng hộ, nổi lên giết Tôn Tư và Đặng Tuân, rồi sai sứ sang Ngụy xin quy thuận và xin gởi sang Giao Châu một Thái Thú khác; đồng thời xin được giúp đỡ về quân sự. Hai quận Cửu Chân và Nhật Nam cũng theo Giao Chỉ quay sang quy phục Ngụy.

Năm 264, Ngụy phong Lã Hưng làm tướng tổng chỉ huy các lực lượng quân sự ở Giao Châu. Một tướng nữa đóng ở Tứ Xuyên là Hoắc Đặc được phong Thứ Sử Giao Châu với đặc quyền bổ nhiệm các quan chức thuộc hạ. Một năm sau, một gia đình khác có thế lực lại lấn át nhà Ngụy và lập nhà Tấn. Việc can thiệp vào Giao Chỉ vì thế chậm lại do những thay đổi triều đại mặc dầu là không đổ máu.
Hoắc Đặc giám sát mọi việc từ Tứ Xuyên. Hai người đầu tiên được ông bổ nhiệm làm Thái Thú Giao Chỉ lại chết vì bệnh trước khi đến nhiệm sở. Hơn nữa, Lã Hưng lại bị giết bởi một người trong số thuộc hạ của ông trước khi quân Tấn kéo đến.
Trong thời gian đó, nhà Ngô đang bị bận tâm về những đe dọa trực tiếp đến miền biên giới ở phía Bắc và phía Tây; hành động duy nhất của Ngô ở phía Nam là chia cắt Giao Châu như đã làm trước kia trong một thời gian ngắn vào năm 226, thiết lập Quảng Châu ở miền Bắc, nơi mà quyền hành của Ngô vẫn chưa bị lung lạc.
Tình hình Giao Chỉ trong thời gian này rất đen tối. Không ai biết người giết Lã Hưng có phải là thân Ngô hay không; nhưng một số quan chức địa phương vẫn trung thành với Ngô và tình hình chính trị bấp bênh cho tới khi quân Tấn kéo đến. Cuối cùng, viên Thái Thú của Tấn bổ nhiệm là Dương Tắc cùng 7 tướng lãnh và quân sĩ bản hộ tới nơi sau khi đã vượt 600 dặm đường qua vùng núi non. Trước khi rời Tứ Xuyên, họ đã hội thề với Hoắc Đặc rằng nếu họ bị mắc bẫy hay bị bao vây, họ sẽ chống cự trong vòng 100 ngày rồi mới chịu đầu hàng hay là sẽ chịu tử hình khi trở về; và nếu không có cứu viện đến trong vòng 100 ngày Hoắc Đặc phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của họ. Dựa trên tính chất của lời thề, cuộc viễn chinh này có lẽ là một cuộc thử vận nhiều hơn là một cuộc can thiệp quân sự được bố trí cẩn thận.
Năm 268, vua Ngô sai hai tướng là Lưu Tuấn và Tu Tắc đến chiếm lại Giao Châu. Ba lần họ mưu tiến vào Giao Chỉ là ba lần họ bị Dưong Tắc đánh bật ra. Rồi Dương Tắc phản công bằng cách sai bộ tướng đem quân vào Hợp Phố để đánh căn cứ của Ngô. Hai tướng Lưu Tuấn và Tu Tắc bị giết và quân sĩ tan vỡ, chạy tứ tung. Trong chiến thắng này, quân Tấn đã được các đơn vị quân sự địa phương giúp đỡ. Ngoài Giao Chỉ ra, các quận Cửu Chân và Uất Lâm cũng nhiệt liệt ủng hộ quân Tấn.
Một năm sau, 5 tướng Ngô lại tập hợp binh sĩ ở Hợp Phố để mở cuộc phản công. Nhưng 5 tướng không đồng ý được với nhau về kế hoạch chung nên bị chia rẽ trầm trọng. Năm 270, 2 trong 5 tướng bị xử tử vì đã đơn phương rút quân giữa lúc cuộc chiến đang dữ dội.
Đầu 271, Tấn và Ngô đánh nhau trong quận Hợp Phố, tại địa điểm là Phân Thủy. Một trong các tướng Ngô là Đào Hoàng bị thiệt mất 2 bộ tướng nên bắt buộc phải rút lui. Vì thế, ông bị các tướng kia chê bai và một trong bọn này dọa bỏ về. Đào Hoàng rất nóng lòng củng cố hàng ngũ, nên đêm hôm ấy cấp tốc đem quân đến cướp trại của Đồng Nguyên, một trong các tướng của Tấn. Ông cướp được trại, lấy được nhiều thuyền bè và cả vàng bạc của Đồng Nguyên. Nhờ đó, Đào Hoàng được thăng chức tổng chỉ huy quân Ngô.
Đào Hoàng là con của một cựu Thứ Sử Ngô ở Giao Châu. Trước khi có cuộc can thiệp của Tấn, ông là Thái Thú quận Thương Ngô. Do đó, ông rất thông thạo công việc miền Nam và thường có hành động rất mau lẹ để giải quyết tinh hình có lợi cho Ngô. Ông đánh úp quân Tấn bằng cách trực tiếp tiến vào Giao Chỉ bằng đường biển. Đồng Nguyên đặt quân phục kích và giả vờ rút lui. Nhưng Đào Hoàng đã biết trước mưu đó nên đã đánh bại được Đồng Nguyên. Thế là nắm được tình thế; Đào Hoàng liền tiếp xúc với Lương Kỳ, tướng chỉ huy các đơn vị quân sự địa phương hợp tác với Tấn. Hoàng đem cho Lương Kỳ vô số vàng bạc lấy được của Đồng Nguyên và Lương Kỳ đem hơn 10.000 quân bản hộ về với Đào Hoàng.
Sau vụ này, quân Tấn không còn tin tưởng ở các đồng minh cũ của mình nữa và Dương Tắc đem chém đầu viên tướng chỉ huy địa phương ở Long Biên vì nghi ông này đang chuẩn bị đào ngũ. Trước đó, quân Tấn bị vây ở Long Biên và bị hết lương thực trước hạn 100 ngày họ đã thề thốt khi ra đi. Biết rằng không có viện binh nào tới cả, vì Hoắc Đặc đã chết, nên đội quân ấy đầu hàng. Các tướng Tấn bị bắt, giải về Nam Kinh. Dọc đường Dương Tắc bị chết, phần lớn các tướng khác về sau được tha cho về Tấn. Một người trong số là Mạnh Cán về sau hiến được một mưu hay giúp được việc đánh bại quân Ngô và do dó được phong làm Thái Thú quận Nhật Nam.
Cuộc mạo hiểm của Tấn ở Giao Chỉ không phải là một giai đoạn hời hợt của bộ mặt chính trị địa phương. Những người không chịu theo Ngô lại tập hợp ở Cửu Chân dưới quyền lãnh đạo của một quan chức địa phương là Lý Tố. Đào Hoàng đem quân đánh Lý Tố, và sau bao vây được y. Người cậu bên họ mẹ của Lý Tố là Lê Hoan lại làm việc trong quân của Đào Hoàng nên tìm cách thuyết phục ông hàng Đào. Lý Tố trả lời, “Cậu là tướng của Ngô, cháu là tướng của Tấn. Không có gì cậu cháu ta phải nói với nhau hơn là hãy đọ sức”. Sau một tiếng đồng hồ đánh nhau, đồn của Lý Tố bị hạ.
Lòng trung thành đến hơi thở cuối cùng của Lý Tố được một sử gia Việt Nam sau này hết lòng ca ngợi; nhưng sau lập trường cứng rắn của ông còn có thể nhiều lý do sâu xa hơn là lòng trung thành với nhà Tấn. Cuộc can thiệp của quân Tấn chỉ có thể tiến hành được với sự hậu thuẫn của những phần tử địa phương chống Ngô. Có thể cho rằng những phần tử ấy đang tìm cách tước bớt đi những quyền lợi vẫn bị quân Ngô giữ chặt. Cho nên đằng sau cuộc xung đột Tấn-Ngô có thể còn có một cuộc đấu tranh quyền lực giữa một nhóm mới nổi lên đang khao khát quyền hành với một nhóm khác bảo thủ hơn, muốn duy trì địa vị của mình.
Lập trường của Lý Tố có vẻ hơi kỳ dị nếu cho ông là trung thành với Tấn, bởi lúc đó các tướng Tấn đã đầu hàng cả rồi. Hơn nữa, Tấn chưa ở Giao Chỉ lâu đủ để gây được một sự trung thành sâu xa tại địa phương. Ngược lại, lời tuyên bố trung thành với Tấn của họ Lý chỉ có thể được coi như một cuộc đấu tranh quyền lợi của địa phương mà lực lượng chống Ngô thiết lập chính nghĩa của mình bằng cách tự xưng là chư hầu của Tấn.
Hầu như những cuộc chiến chinh trong những năm đó đã làm cho dân chúng xa rời cả hai phe đối thủ. Những người theo phe Ngô ở Việt Nam không có những tình cảm ràng buộc với xã hội địa phương. Phe chống Ngô thì tìm cách quay sang triều Hán cầu cứu, xin giúp đỡ, nhưng rồi cũng kết thúc bằng cách tự tách mình ra khỏi xã hội địa phương. Ý nghĩa của sự kiện này cũng được thấy rõ nét khi đối chiếu với những biến cố năm 248. Vào năm 248, những lực lượng địa phương chống Ngô nổi lên cầm cự một quyền lực đang bành trướng ở miền Nam. Lực lượng ấy được lãnh đạo bởi một vị nữ anh hùng với danh nghiệp được ghi nhớ sâu xa trong lòng dân chúng.
Năm 263, những lực lượng địa phương chống Ngô nổi lên để hưởng ứng một quyền lực đang bành trướng ở phương Bắc và được lãnh đạo bởi những viên chức với tham vọng được gắn liền vào với vận mệnh đang lên của triều đình nhà Tấn. Nhưng khi nhà Tấn suy tàn thì các quan chức ấy bị cô lập bởi vì rõ ràng họ không được dân chúng địa phương ủng hộ rộng rãi. Do đó, phong trào lúc đầu đuợc coi như làn sóng nhân dân chống Ngô bị kết thúc thành chuyện tranh chấp quyền hành giữa hai phe quan chức đối nghịch.
Vụ Lý Tố cho ta thấy là những liên hệ máu mủ của họ hàng đã bị khuất phục bởi những trách nhiệm tượng trưng cho sự trung thành về mặt chính trị. Lý Tố vẫn khăng khăng phò Tấn ngay cả lúc cuộc chiến đã coi như ở giai đoạn hạ màn, và nhà Tấn đã bị thua trận. Ông cậu của họ Lý lại đứng về phe Ngô. Có lẽ điều này cũng bao hàm sự xung đột ở giữa hai thế hệ. Những người nhiều tuổi, vì đã sống nhiều, kinh nghiệm nhiều, nên điềm đạm bình tĩnh hơn, chỉ muốn có thái bình, dù rằng Ngô quay trở lại. Những người trẻ, có lý tưởng, nhưng mạo hiểm hơn, nên không chịu từ bỏ mục tiêu mà tuổi trẻ tận tụy phục vụ. Trong 10 năm trời, bạo loạn bao trùm sân khấu chính trị. Điều này dĩ nhiên tạo một ảnh hưởng bất ổn cho giới trẻ dễ bị xúc cảm. Trong những năm ấy, lớp người cầm quyền địa phương ngày càng bận tâm với những đòi hỏi đối nghịch của các triều đại ở phương Bắc nên đánh mất chỗ đứng của mình trong xã hội địa phương. Những người thân Ngô không bao giờ có chỗ đứng an toàn trong xã hội địa phương, còn những người theo Tấn mất luôn chỗ đứng vì đã rước binh sĩ ngoại bang vào nhà.
Năm 268, cuộc tấn công của Ngô bị thất bại vì không được sự ủng hộ của dân chúng. Ba năm sau, Ngô lại thành công nhờ có sự đào ngũ đại quy mô của các lực lượng địa phương về với mình. Sự bất mãn của dân đối với Ngô chắc đã tiêu tan hết sau khi Ngô rút đi lần đầu; và với sự dai dẳng của cuộc chiến chẳng có mục tiêu rõ rệt giữa những viên tướng chỉ lo đi tìm vinh quang cho mình, đa số dân chúng sẵn sàng chấp nhận bất cứ một lãnh tụ nào có thế lực mạnh nhất và có khả năng mang đến hòa bình cho họ. Đào Hoàng là một người như vậy.
ĐÀO HOÀNG
Đào Hoàng không phải chỉ là một chiến lược gia có tài; hơn thế, ông thực sự được lòng tất cả dân chúng Việt Nam. Sử chép rằng ông hay giúp đỡ những người gặp cảnh hoạn nạn nên rất được lòng dân. Khi ông bị triều đình Ngô đổi đi chỗ khác, giữ nhiệm vụ khác, hơn 1.000 thủ lãnh địa phương đã yêu cầu ông được trở lại và triều đình Ngô đã khôn ngoan đổi ông trở về.
Năm 280, khi cuối cùng nhà Tấn chinh phục được Ngô và vua Ngô bại trận gửi một tờ chiếu ra lệnh cho Đào Hoàng hàng Tấn, sử đã chép ông đã khóc trong nhiều ngày trước khi trình ấn tín lên cho triều đình Tấn. Nhà Tấn ở quá xa không làm gì được cho miền Nam nên lại giữ ông ở lại chức vụ cũ; rồi lại phong cho ông tước hiệu mới để thừa nhận công lao xứng đáng của ông. Ông đã ở Giao Châu nhiều năm, nên khi ông chết, sử chép dân đã để tang ông như cha mẹ.
Bản đồ quận Giao Chỉ dưới thời Đào Hoàng
Những gì còn lại cho lớp cầm quyền địa phương sau những biến cố của các năm 226, 248, và sau cuộc can thiệp của nhà Tấn, đều rõ ràng là một sự kết hợp có lợi cho Đào Hoàng. Cũng như Sĩ Nhiếp, Đào Hoàng đã cai trị vào một thời gian mà không một triều đại nào ở Trung Quốc đủ mạnh để dòm ngó miền Nam. Ông vun trồng một quyền lực căn bản địa phương trong khi vẫn giữ được quan hệ đứng đắn với triều đình. Sau những vụ nổi dậy và chinh chiến trong nửa thế kỷ đầu, ông đề ra một chính sách tái thiết để cho xã hội bản xứ được vững mạnh, đặt nó trên một nền tảng hành chánh chắc chắn mà không đe dọa đến tính chất địa phương.
Đào Hoàng xây lại thành Long Biên ở cách xa chỗ cũ nhiều dặm về phía Tây, và trong 3 thế kỷ kế tiếp, thành này được giữ làm kinh đô của Giao Châu. Vấn đề cấp bách của ông là giữ được an ninh ở nơi biên thùy. Nhắm mục đích đó, ông thành lập 3 quận mới ở biên giới. Huyện Mê Linh với vùng núi phụ cận là quận Tân Hưng rồi đổi là Tân Xương sau khi nhà Ngô mất. Ranh giới phía Bắc đồng bằng sông Hồng với vùng đất cao và xa hơn, thành quận Vũ Bình. Nửa phía Nam của quận Cửu Chân trong đồng bằng sông Cả (ngày nay là sông Lam) được lập thành quận Cửu Đức. Đào Hoàng dẹp yên những tộc dân “làm cản trở văn minh” ở những vùng này và đặt thêm 30 huyện mới trong các quận mới thành lập và trong quận Cửu Chân. Tuy nhiên phần đất ở phía cực Nam vẫn liên miên bất ổn.
Đầu tiên, Đào Hoàng thất bại khi tiến quân vào Nhật Nam bằng vũ lực. Ông bèn dùng những phương pháp khác. Ông nói: ”Nếu ta cắt đứt việc buôn bán muối và sắt với bờ biển phía Nam và gây cho sự buôn bán của họ nhiều thiệt hại thì sau 2 năm, chỉ một trận đánh là họ sẽ bị đè bẹp”. Chính sách này quả đã thành công. Nhưng nếu những đám “giặc cỏ” bị dẹp yên ông lại phải đối phó với vua nước Lâm Ấp, người được Trung Quốc gọi với tên Phạm Hùng.
Phạm Hùng lại liên kết với một người khác nữa là vua nước Phù Nam, và cả 2 cùng nhau theo đuổi một chính sách không ngừng xâm lấn qua biên giới. Năm 280, trong tờ biểu đầu tiên tâu về triều đình Tấn, Đào Hoàng tâu rằng trong số hơn 7000 quân sĩ của ông đóng ở biên giới lúc đầu, nay chỉ còn 2402 người còn sống. Số còn lại đã chết vì bệnh tật hay trận mạc. Nhà Tấn đáp ứng bằng cách sai Mạnh Cán, một trong tướng lãnh đã đầu hàng Đào Hoàng năm 271 làm Thái Thú Nhật Nam.
Không có tài liệu nào nói thêm về những quan hệ với Lâm Ấp trong thời kỳ này. Tuy nhiên, những chiến dịch của Đào Hoàng cho thấy là không có một đường biên giới nhất định giữa 2 vùng, thành ra trong thời gian ấy có chiến chinh kinh niên. Trong thời kỳ rối ren vì có sự can thiệp của nhà Tấn, một số những trung tâm quyền lực chính trị đã mọc lên ở Nhật Nam, có lẽ có liên kết với Lâm Ấp. Chiến luợc của Đào Hoàng để dẹp sự kháng cự của những khu vực, trung tâm ấy cho thấy tầm quan trọng thương mại của những xứ ở dọc bờ biển này. Bằng cách đơn giản là mở cuộc cấm vận thương mại, Đào Hoàng thành công trong việc bắt các xứ phải thần phục. Như vậy có nghĩa là những thủ lãnh những vùng đó đều phải sống dựa vào nguồn thịnh vượng kinh tế và vào sự phân phối của cải để giữ được lòng trung thành của kẻ theo mình. Nhưng Lâm Ấp rõ ràng là một quốc gia khác hẳn so với những thủ lãnh nhỏ bé ở vùng biên giới mà nhà Tấn bó buộc phải gửi tướng giỏi của mình xuống để ổn định tình hình với Lâm Ấp.
Những gia đình thượng lưu ở địa phương vào lúc này được cải tổ dưới sự lãnh đạo của Đào Hoàng để thành một lớp cầm quyền hữu hiệu hơn, với tầm hiểu biết sâu sắc hơn về sự quan trọng của những vùng biên giới ổn định, và có khả năng tinh tế hơn về chuyện bảo vệ biên giới. Sự kiện này cho ta thấy rằng những thủ lãnh địa phương, vì bị cô lập bởi những trung tâm chính trị ở mãi tận Hoa Bắc, phải học biết cách tự lực, ngõ hầu phát huy được lòng tự tin để đảm đương được vận mệnh của chính mình.
Sự lãnh đạo của Đào Hoàng rất cốt yếu trong lịch sử hành chánh của Việt Nam. Những quận cũ Giao Chỉ và Cửu Chân lần đầu tiên được phân chia thành những huyện để tách biệt những vùng nông nghiệp với những vùng ít an ninh hơn ở biên giới. Sau thời đại bóc lột của nhà Ngô và những vụ nổi loạn hay bạo động do sự can thiệp của nhà Tấn, Đào Hoàng triển khai một kỷ nguyên mới, thái bình và ổn định. Nhà Ngô đã mất nhưng nhà Tấn chưa đến. Những gia đình thuộc giới quý tộc Ngô còn sống sót nay đổi sang thần phục nhà Tấn và được hưởng một thế hệ tương đối độc lập ở miền Nam, cách xa hẳn triều đình Tấn ở trên phía Bắc. Việc củng cố chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đào Hoàng được tiếp tục bởi những người kế vị ông và tạo tinh thần kháng cự quân Tấn khi họ kéo đến miền Nam.
Chân dung Tấn Vũ Đế (Jin Wu Di)
Tấn Vũ Đế, người có công khai lập Triều đại nhà Tấn, đã tìm cách phục hồi các di sản Hán và thống nhất Trung Quốc. Nhưng ngay sau khi ông băng hà vào năm 290, Trung Quốc lại lâm vào cảnh nội chiến do tính hiếu chiến và ham quyền lực cố hữu của các hoàng thân quốc thích nhà Tấn. Vì nội chiến triền miên còn gọi là Loạn Bát Vương, Trung Quốc đã trở thành miếng mồi ngon cho những dân du mục từ chính biên thùy phía Bắc của họ. Vào khoảng thập niên thứ Nhì của thế kỷ thứ 4, những dân du mục từ phương bắc này đã lần lần chiếm trọn miền bắc Trung Quốc. Biến cố này đã gây ra hàng loạt các ảnh hưởng dây chuyền như việc dân quân nhà Tấn lũ lượt kéo nhau xuống miền Nam để tị nạn, kinh đô Trường An – nơi tập trung quyền lực của vương triều nhà Tấn trước đây – phải di dời xuống Nam Kinh là phần đất gần Việt Nam ngày nay hơn. Vì lẽ đó, giới cầm quyền địa phương của các vùng ở phía nam Trung Quốc đã buộc phải xét lại thái độ của mình sao cho phù hợp hơn với những đòi hỏi và tham vọng của Nam Kinh. Việc định hướng lại thái độ này đã kéo theo nhiều hệ lụy, rối ren, và bạo loạn nhiều năm sau đó.
Cũng cần nhắc lại, trong thời gian Tấn triều còn đang bận bịu với nội chiến và chưa bị dân du mục phương bắc vào chiếm trọn; ở miền Nam xa xôi, thế lực chính trị của nhà Ngô cũ được dần dần phục hồi vì ít bị triều đình nhà Tấn ở xa phiền hà nhũng nhiễu. Khi Đào Hoàng qua đời, nhà Tấn bổ nhiệm Ngô Ngạn, một quan chức của nhà Ngô cũ xuống thay. Ngô Ngạn đến Giao Châu đúng lúc dân chúng Cửu Chân đang nổi lên đánh đuổi viên Thái Thú sở tại. Sử Trung quốc và Việt Nam không nói nhiều về thân thế thủ lãnh của nhóm dân chúng nổi dậy này ngoài việc cho biết tên ông là Triệu Chi; và rằng sau đó Ngô Ngạn đã mau chóng bắt được ông, rồi đem xử chém.
Việc Triệu Chi nổi dậy ở Giao Châu không khác các cuộc nổi dậy hai thế kỷ trước đó. Đó là những cuộc nổi dậy bắt nguồn từ Cửu Chân và lan sang các vùng kế cận thuộc Giao Châu. Triệu Chi nhất định phải là một quan chức bởi vì ông cầm đầu những binh sĩ được huấn luyện đàng hoàng. Rất có thể Triệu Chi là tiếng vang cuối cùng của các cuộc nổi dậy chống nhà Ngô cũ trong đó có việc giết cha con Thái Thú Cửu Chân là Lý Tốn trước khi có cuộc can thiệp trực tiếp của nhà Tấn. Mặc dầu cái chết của Đào Hoàng được một số dân quanh quẩn ở đồng bằng sông Hồng thành thật để tang, các thủ lãnh địa phương từng bị thất bại cay đắng ở Cửu Chân lại coi đây là một dịp tốt để giành lại chính nghĩa. Vì triều đình nhà Tấn thì ở xa và suy yếu, do đó trở ngại duy nhất để các thủ lãnh địa phương giành lại quyền tự trị là việc đương đầu với thế lực của những đại gia đình nhà Ngô cũ vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở miền Nam.
Không may cho Triệu Chi vì phải đương đầu với Ngô Ngạn, là một tay đảm lược, nên ông bị bắt và bị giết không lâu sau đó. Sau khi dẹp yên được Triệu Chi, Ngô Ngạn trực tiếp cai trị Giao Châu trong nhiều năm. Sử Trung Quốc chép rằng Ngô Ngạn đã thi hành hai biện pháp, vừa khoan dung, vừa uy dũng khiến các vùng đất ông đô hộ được yên ổn. Công thức đô hộ này cho thấy Ngô Ngạn tuy nghiêm khắc nhưng không tàn bạo.
Khi Ngô Ngạn xin người thay thế, triều đình nhà Tấn sai Cổ Bí, con trai một tướng Ngô cũ, xuống thay. Vì triều đình Tấn ở mãi miền Bắc lại đang có cơ nguy sụp đổ, nên Cổ Bí rất có thể là người được chính Ngô Ngạn tiến cử. Lúc ấy thế lực của các gia đình Ngô cũ khá ổn định nhưng với sự sụp đổ của miền Bắc và việc tràn xuống miền Nam của dân tị nạn thuộc giai cấp thượng lưu nhà Tấn đã khiến nhóm quý tộc Ngô cũ tại địa phương lâm vào tình thế khó xử vì yếm thế. Quan quân và dân chúng nhà Tấn mới di tản xuống phương Nam nhưng đã vội vã lấn chiếm đất đai và phô trương thanh thế. Tất nhiên là những giới cầm quyền nhà Ngô cũ cảm thấy họ bị lấn ép và mất dần quyền lợi về tay nhà Tấn. Dù chỉ ngắn ngủi, các thủ lãnh địa phương người Việt đã mau chóng khai thác các mâu thuẫn giữa Tấn và Ngô để và cố biến nó thành lợi thế cho mình trong các nhen nhúm giành độc lập.
Khi Cổ Bí chết, các lãnh tụ Giao Châu và các gia đình có thế lực địa phương đã đồng ý một cách đơn giản với nhau là đưa con ông là Cổ Sâm lên kế vị cha thay vì đợi chiếu chỉ bổ nhiệm chính thức từ nhà Tấn lúc đó đang hết sức rối loạn. Tuy nhiên giới cầm quyền Giao Châu dường như chưa được chuẩn bị để tách ra khỏi cái khuôn khổ đã được định sẵn từ bao đời trong những quan hệ hữu danh vô thực với triều đình phương Bắc.
Dòng họ Cổ lại đông con nhiều cháu cho nên khi Cổ Sâm chết, em là Cổ Thọ tạm thời lên thay vì giành được ưu thế sau những tranh chấp nội bộ giữa những người được gọi là “các quan chức ở Giao Châu." Nhằm củng cố quyền hành, sau khi nhậm chức Cổ Thọ đã giết luôn cả viên Trưởng Sử Hồ Triệu và những người về phe với họ Hồ.
Theo luật pháp vương triều Trung Quốc, Trưởng Sử làm phụ tá cho Thứ Sử. Trưởng sử có nhiệm vụ giám sát các công việc hàng ngày ở Giao Châu, chức vị này dường như đã được thay đổi để có thể đại diện cho những quyền lợi lớn hơn theo ý muốn của giới cầm quyền địa phương. Thực tế cho thấy sự tranh chấp giữa Hồ Triệu và Cổ Sâm chính là sự tranh chấp giữa các thế lực địa phương khi họ tự coi mình là đại diện cho một triều đình ở xa và đang suy yếu.
Sau khi Cổ Thọ giết Trưởng Sử họ Hồ, kẻ chống đối mạnh mẽ và có tiềm lực nhất đối với dòng họ Cổ còn lại lúc đó là Lương Thạc, một lãnh tụ địa phương có nhiều kinh nghiệm trận mạc. Thoạt đầu, Cổ Thọ lập mưu giết Lương Thạc nhưng Thạc thoát chết và huy động binh sĩ bản bộ chống trả và bắt sống được Cổ Thọ và ép y uống thuốc độc cho đến chết.
Nhiều năm sau đó, Lương Thạc tiếp tục cai trị Giao Châu. Sử Trung Quốc chép rằng ông lấy chức hiệu là Thái Thú Tân Xương. Tân Xương là huyện Mê Linh cũ, quê hương của các vua Hùng và hai Bà Trưng. Có nhiều binh sĩ trấn đóng tại Tân Xương vì nó nằm ở vị trí chiến lược cửa ngõ đồng bằng sông Hồng, nơi được coi là trung tâm chính trị cổ xưa nhất của Việt Nam,.
Có thể hiểu ngầm rằng tước hiệu Thái Thú Tân Xương được ghi trong các nguồn sử liệu Trung Quốc cho thấy ảnh hưởng quyền lực của Trung Quốc vẫn còn áp đặt lên Việt Nam vào thời kỳ này. Lương Thạc đã chứng tỏ là một trong những thủ lãnh kiên trì và thành công nhất trong số những thủ lãnh địa phương qua việc việc tập họp và lãnh đạo dân chúng ở địa phương chống lại Tấn triều trong thời gian Giao Châu bị Trung Quốc đô hộ. Tuy nhiên Lương Thạc vẫn thấy ông không có một phả hệ hay huyết thống và uy tín cần thiết. Để đạt được bình phong về phương diện chính thống đối với hoàng triều. Lương Thạc cho vời Thái Thú Thương Ngô là Đào Uy con của Đào Hoàng lên làm Thứ Sử. Mặc dù Đào Uy đứng ra chịu tiếng thần phục vương triều trong các quan hệ với vua Tấn khi phải tiếp đón các quan chức Tấn xuống miền Nam nhưng đứng về phương diện quyền hành ở Giao Châu, Đào Uy chỉ là một bình phong cho Lương Thạc mà thôi. Sử chép Đào Uy rất được lòng dân chúng vì rõ ràng ông thừa hưởng tiếng thơm của cha ông là Đào Hoàng. Nhưng chỉ ba năm sau, Đào Uy qua đời. Sau khi Đào Uy mất, cả em trai và con ông đều tranh nhau đòi giữ chức Thứ Sử, nhưng quyền hành thực sự vẫn nằm trong tay Lương Thạc. Thế lực nhà họ Đào ngày càng mờ dần trên sân khấu chính trị vì họ còn bị nhà Tấn triệu hồi lên miền Bắc do tình hình rối ren tại Quảng Châu.
Cũng như tại Giao Châu, tại Quảng Châu, làn sóng chống đối việc phô trương thanh thế và bành trướng xuống phương Nam của nhà Tấn được được dẫn đầu bởi Vương Chi là người thuộc gia đình Ngô cũ và có cha cùng anh trai từng làm Thứ Sử Quảng Châu. Mặc dầu gia đình họ Vương ở miền Nam đã tạo lập được tiếng tăm tốt trong số dân bản xứ qua bao nhiêu thế hệ cai trị, Vương Chi lập tức bị gạt sang một bên bởi những người nhân danh Tấn triều từ phương Bắc tràn xuống. Uất hận, Vương Chi thành lập một đạo quân lên đến 1.000 người sẵn sàng ứng chiến. Sử chép rằng các binh sĩ và nhân dân Quảng Châu đều nhất tề ủng hộ Vương Chi lên làm Thứ Sử và hoàn toàn "quay lưng lại" với người mà nhà Tấn bổ nhiệm.
Vương Chi tin ở tính cách chính thống của mình nhưng vẫn còn do dự trong việc triển khai các tham vọng của ông vì xét thấy ưu thế của các quan chức tị nạn từ phương Bắc xuống cùng với gia nhân và thân quyến của họ. Chính sự do dự của Vương Chi: biết là phải chống lại nhà Tấn, nhưng lại không dám công khai chống đối đã tạo nên nối bất bình và chia rẽ trong nội bộ gia đình họ Ngô cũ. Thái độ do dự của Vương Chi được biểu hiện rõ nét khi ông nắm được quyền kiểm soát Quảng Châu. Lo sợ trước phản ứng của nhà Tấn, Vương Chi đã tìm cách biểu lộ lòng trung thành của ông bằng cách xin được làm Thứ Sử Giao Châu. Yêu cầu của ông được chấp thuận ngay với điều kiện ông phải thân chinh đi đánh dẹp Lương Thạc ỏ Giao Châu.
Nghe tin Vương Chi được Tấn triều bổ nhiệm làm, Lương Thạc bèn cho con trai đến tiếp kiến Chi ở gần Uất Lâm, biên giới Quảng Châu và Giao Châu. Lấy cớ con trai Lương Thạc đến trễ, để thị uy, Chi đã nặng lời mắng nhiếc và đe dọa Lương Thạc. Khi nghe con trai về thuật lại thái độ ngạo mạn của Vương Chi, Lương Thạc đã nói như sau: "Cái thằng họ Vương này đã làm hỏng cơ đồ Quảng Châu, bây giờ còn viện cớ gì mà đến phá rối Giao Châu?" Thế là Lương Thạc ra lệnh đóng cửa biên giới không cho Vương Chi đi qua và cấm mọi người ở Giao Châu không được liên lạc với Vương Chi.
Không vào được Giao Châu mà trở về Quảng Châu thì không yên thân với nhà Tấn, Vương Chi đành lưu lạc như một kẻ làm loạn rồi cuối cùng phải vào vùng núi lánh thân và chết tủi nhục ở đó. Đào Khản, một bộ tướng của nhà Tấn, vì đã có công vãn hồi được trật tự Quảng Châu, nên mùa thu năm 318 y lại được chính thức bổ nhiệm việc cai quản Giao Châu.
Trong khi Lương Thạc đang phải bận đối phó với những hệ lụy của vụ Vương Chi thì ở Giao Châu lúc đó nổi lên một nhóm người có cảm tình với Vương Chi. Phần lớn nhóm người này là những người Hán mới di cư xuống miền Nam sau khi miền bắc Trung Quốc bị dân du mục chiếm trọn. Họ bao gồm những thương nhân mơ tưởng là sẽ làm giàu nhanh chóng và dễ dàng một khi Giao Châu được Tấn triều thu phục; họ cũng có thể gồm những người của nhà Tấn tiên phong di cư xuống Nam, những gia đình Bắc phương danh gía với cả đoàn tùy tùng võ trang đi theo. Họ thường được gọi là những người "tạm trú" và họ luôn coi Vương Chi là Thứ Sử được bổ nhiệm chính thức bơi Tấn triều. Trong nhóm “người tạm trú” này có Đỗ Tấn, một võ tướng, đã tập hợp được một số thủ hạ trong nhóm này đem quân tiến đánh Lương Thạc nhưng bị Lương Thạc dẹp tan một cách dễ dàng. Sau việc này Lương Thạc càng lo sợ hơn những người "tạm trú" có bụng dạ nọ kia nên ra lệnh giết tất cả những tùy tùng của họ!
Sau diễn biến này, Lương Thạc đã nhanh chóng tự xưng là Thái Thú Giao Chỉ và cảm thấy tự tin hơn trong chức vị này. Tuy nhiên, vì những người "tạm trú" luôn bất tuân các mệnh lệnh mà ông ban hành Lương Thạc hiểu rằng ông cần phải tìm cách hợp pháp hoá địa vị của mình để được chấp nhận như là một chư hầu trong quy chế Tấn triều. Do đó Lương Thạc cho vời Tu Trạm về làm bình phong về pháp lý cho mình vì Tu Trạm có cha là Tu Tắc, người đã từng được nhà Ngô trước kia bổ nhiệm làm tổng chỉ huy quân sự ở Giao Châu nhưng về sau đã bị thiệt mạng khi mưu toan chiếm lại Giao Châu trong tay nhà Tấn vào năm 268. Hơn thế nữa, trong số các anh em của Tu Trạm đi theo Đào Hoàng tiến vào Giao Châu năm 271, có một người sau được bổ làm Thái Thú Hợp Phố cho nên gia đình Tu Trạm rất nổi tiếng ở Giao Châu. Mặc dù đã dùng con trai của Tu Tắc là Tu Trạm làm bình phong cho mình để tiêu biểu cho các quyền lợi của Giao Châu theo thể chế Tấn triều nhưng tự thâm tâm Lương Thạc vẫn tiếp tục theo đuổi mục tiêu độc lập của ông.
Tình hình Giao Châu được ổn định trong vài năm sau đó vì Đào Khản còn bận bịu với việc củng cố quyền hành của nhà Tấn ở Quảng Châu. Thế rồi đến năm 322, chủ nhân của Đào Khản, một viên tướng đang trông coi vùng lưu vực sông Dương Tử, lại phong một tướng tay chân của y là Vương Lượng làm Thứ Sử Giao Châu. Trước khi đi Vương Lượng được căn dặn rằng :" Tu Trạm và Lương Thạc là hai kẻ phản loạn, khi đến nơi phải trừ ngay." Vương Lượng đến Giao Châu không bị cản trở gì vì Lương Thạc chưa muốn so gươm với Đào Khản, kẻ đang cai trị Quảng Châu và tiếng tăm võ nghệ của y cũng đáng kể. Kế đến Lương Thạc cũng muốn tương kế tựu kế nghênh đón vị tân Thứ Sử một cách long trọng để dò xem sự việc tiến triển ra sao. Xét về thực lực thì Lương Thạc cũng rất mạnh nên Vương Lượng cũng chưa dám trực tiếp gây chuyện. Hơn nữa Lương Thạc cũng chưa dám tự xưng là Thứ Sử, nên giữa Lương Thạc và Vương Lượng hai bên chưa có chuyện gì gọi là căng thẳng ngoài mặt.
Mặt khác, Tu Trạm lại ở vào vị thế bấp bênh và nguy hiểm hơn vì không có thực lực. Những người tâm phúc trước đây của Tu Trạm lại thuộc loại đón gió trở cờ. Họ thấy rằng đi với Vương Lượng có lợi hơn vì Vương Lượng chính thức mang ấn tín Thứ Sử – bảo đảm được Tấn triều phương Bắc can thiệp nếu cần. Trong tình hình như thế Tu Trạm bèn quyết định rút lui về Cửu Chân cho được tương đối an toàn.
Từ Quảng Châu, Đào Khản điều nghiên rất kỹ tình hình ở Giao Châu bởi vì trách nhiệm của y là tìm mọi cách giúp Vương Lượng thi hành sứ mạng thu phục Giao Châu từ tay Lương Thạc. Trước tiên Đào Khản sai một sứ giả xuống Cửu Chân thuyết phục Tu Trạm quay về gặp Vương Lượng ở Long Biên. Khi Tu Trạm vừa đặt chân đến sảnh đường thì quân lính của Vương Lượng bắt lập tức. Lượng muốn đem giết Tu Trạm ngay nhưng Lương Thạc phản đối và nói:" Tu Trạm là con của một tướng quân cũ của Giao Châu này; nếu y có phạm pháp thì có thể đuổi chứ không thể giết". Vương Lượng trả lời:" Nghĩa tình của nhà ngươi với phụ thân hắn không liên quan gì đến công việc của ta." Thế rồi Vương Lượng đem Tu Trạm ra chém đầu để dằn mặt Lương Thạc. Từ câu chuyện này chúng ta có thẻ hình dung được những tranh chấp xung đột gay go như thế nào giữa giới trưởng giả nhà Ngô cũ và nhà Tấn mới.
Bất bình và nghi ngại trước việc Vương Lượng ra tay giết Tu Trạm, Lương Thạc bỏ về và chuẩn bị quân lương sẵn sàng ứng chiến. Đi trước một bước, Vương Lượng sai thích khách đến ám sát Thạc nhưng âm mưu của hắn bại lộ. Thế rồi Lương Thạc bèn đem quân vây kín Vương Lượng đang trấn thủ trong thành Long Biên. Dù Đào Khản tức tốc gởi viện binh từ Quảng Châu xuống nhưng Long Biên đã bị thất thú. Sử chép lại rằng khi mặt đối mặt với Vương Lượng, Lương Thạc đòi Vương Lượng trao lại cho ông cờ hiệu Thứ Sử nếu không sẽ chém đứt tay nhưng Vương Lượng nói:" Ta không sợ chết, há gì sợ mất một cánh tay" và khư khư giữ lấy không chịu nhả ra. Thạc bèn rút gươm chặt đứt cánh tay phải của Lượng và giật lấy lá cờ. Khoảng mười ngày sau, Lượng chết vừa đau đớn vừa tức giận.
Các thủ lãnh người địa phương ở Giao Châu thấy rằng họ không thể làm ngơ trước sự hiện diện ngày càng trâng tráo của nhà Tấn. Tấn triều lại ngang nhiên bổ nhiệm hết thứ sử này đến thứ sử khác nhưng một tân thứ sử vừa đến biên giới thì bị dân Giao Châu đuổi về, một thứ sử khác vừa được Tấn triều bổ nhiệm liền bị dân chúng nổi lên giết ngay. Tuy thế nhà Tẫn vẫn gia tăng áp lực với việc ủng hộ những người mới tị nạn từ phương bắc trong việc lớn tiếng đòi sát nhập hoàn toàn Giao Châu vào với Tấn. Mỗi lần xẩy ra đụng độ giữa dân địa phương và người tị nạn phương bắc là lại càng có nhiều binh sĩ Tấn kéo đến Giao Châu.
Sau cái chết của Vương Lượng, theo nhận định phần nào chủ quan của các sử gia Trung Quốc, vì tàn bạo nên Lương Thạc ngày càng gặp nhiều khó khăn và tuyệt vọng hơn nữa. Trên thực tế có thể Lương Thạc và những gia đình địa phương theo ông đều muốn chống lại sự thay đổi, nhưng họ không có cách gì quay ngược lại được cán cân vì làn sóng quân, tướng Tấn, và những kẻ phiêu lưu mạo hiểm ùn ùn kéo vào Giao Châu. Lợi dụng tình thế rối ren này, Đào Khản sai Cao Bảo, một bộ tướng của y, đến Giao Châu và chỉ trong một năm, Cao Bảo đã bắt được Lương Thạc, đem chém đầu và giao nộp thủ cấp Lương Thạc lên Nam Kinh.
Rõ ràng, Lương Thạc, xuất thân từ giai cấp nông dân bản xứ chân lấm tay bùn, chẳng phải văn quan cũng chẳng phải võ tướng, nhưng ông xứng đáng được coi như một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam vì đã tập hợp và đoàn kết dân địa phương Giao Châu vào một mối vào thời kỳ mà thế lực Tấn triều đang suy yếu và lung lay. Lương Thạc sẵn sàng thoả hiệp, nếu cần, bao lâu mà ông và các người đi theo ông chưa bị dồn vào chân tường. Tiếc thay Lương Thạc đã bị giết khi cao trào tranh đấu cho quyền lợi người bản xứ chống lại những tham vọng từ phương bắc đang ở mức độ cao nhất. Xuyên suốt bề dày lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy rõ rằng cuộc tranh đấu này vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Lại nói về Đào Khản, mặc dầu được chính thức phong làm Thứ Sử Giao Châu, nhưng vì còn đang bận đánh dẹp giặc ở mạn Bắc, nên y đành để quyền cai trị một cách không chính thức Giao Châu vào tay Cao Bảo. Năm 325, Đào Khản lại được thăng lên một chức vụ cao hơn trong Tấn triều và năm sau đó, Nguyên Phương, một quan đại thần triều Tấn, được chính thức bổ nhiệm làm Thứ Sử Giao Châu thay cho Đào Khản. Vừa được bổ nhiệm, Nguyên Phương ngoài mặt giả vờ thiết tiệc nhưng thực tâm là tìm cách ám sát Cao Bảo. Nhưng Cao Bảo, do được mật báo, nên ra tay tấn công trước. Nguyên Phương may mắn thoát chết và chạy trốn vào nội địa Giao Châu. Sử chép rằng không lâu sau Nguyên Phương đột nhiên qua đời sau một cơn khát nước ghê gớm.
Tình trạng quyền lực ở Giao Châu tiếp tục không rõ ràng như thế phần chính liên quan đến một nhà vua mới ở Tứ Xuyên tên là Cheng Han. Là người mới cải đạo sang Lão giáo, vua Cheng Han nhân cơ hội có những rối loạn do nhà Tấn gây ra đã nổi lên để chống lại. Năm 328, khi Cheng Han đem binh từ Tứ Xuyên kéo ra đánh Tấn, thì ở Giao Châu cũng có một người tên Trương Liên kéo quân tiến đánh Quảng Châu. Quân sĩ của Trương Liên tiến lên mãi tận Thủy Hưng nhưng sau bị một tướng của Tấn đánh bại. Việc Trương Liên không chịu ở yên tại chỗ để chống cự nhà Tấn, mà lại tiến quân đánh đến tận kinh đô Tấn cho thấy là hành động của ông được khích động và hậu thuẫn bởi những ý đồ chiến lược lớn lao có liên quan đến việc Cheng Han tiến đánh Tấn cũng năm ấy. Có một số ý kiến cho rằng Trương Liên ngoài việc muốn đánh đuổi nhà Tấn ra khỏi Giao Châu và Quảng Châu mà còn bị thúc đẩy bởi những cảm tình với Lão Giáo, điều thường thấy trong số những người đối lập với Tấn triều ở Hoa Trung và Hoa Bắc thời bấy giờ.
Làn sóng chống đối nhà Hán hiện rõ trong tất cả những biến cố quan trọng ở miền Nam trong suốt thờì kỳ đó. Tất cả những phong trào chống đối, dù chỉ là tàn dư của những lớp thượng lưu nhà Ngô dưới quyền Vương Chi, hoặc những viên chức cấp thấp ở Giao Châu dưới quyền Lương Thạc, hay là liên minh chống Tấn rộng rãi của Trương Liên với Cheng Han, tất cả đều bắt nguồn từ mối căm thù mạnh mẽ với thể chế Tấn triều. Ngoài việc nổi dậy của dân bản xứ của những vùng đất bị lệ thuộc nhà Tấn, còn có những phong trào chống đối đương triều nhà Tấn khác có liên quan ít nhiều đến tầng lớp những người Tấn ly khai cấp tiến khi họ quyết định chọn các vùng phương nam Quảng Châu, Giao Châu như là nơi quê hương mới của họ.
Bằng phương cách nào mà cuối cùng Trung Quốc ổn định được việc đô hộ của họ ở Giao Châu đã không được sử sách ghi lại một cách chi tiết, nhưng rõ ràng tình hình đã trở nên sáng sủa hơn vào năm 336, năm mà Thứ Sử Quảng Châu sai một đạo quân đi đánh dẹp những bộ lạc ở Quế Châu. Thái Thú Tân Xương lúc đó là Đào Hiệp, thừa lệnh nhà Tấn, có tham dự trận này bằng cách dẫn một đạo quân tiến vào Vân Nam và chiếm được một thành trì trên đường tiến đến Tứ Xuyên. Đây có lẽ là một phần trong nỗ lực khoá chặt Giao Châu của nhà Tấn nhằm ngăn cản dân chúng địa phương không bị khích động do việc nổi dậy của vua Cheng Han ở Tứ Xuyên mà mãi đến năm 347 nhà Tấn mới bị dẹp yên được.
Để củng cố quyền lực, nhà Tấn đã tìm cách thay đổi sâu đậm tại miền Trung và miền Nam Trung Quốc. Trước kia văn minh Trung Quốc chỉ hiện hữu ở những nơi có tầm quan trọng về chính trị và nơi có nhiều người có học thức sinh sống nhưng theo thời gian, những điều mới lạ dần dần lan tràn về miền quê qua trung gian của những người tị nạn phương Bắc. Tuy nhiên trong số những địa điểm ở miền nam, Giao Châu là nơi ít bị ảnh hưởng của chính sách đó bởi vì địa thế quá xa nên có ít dân chịu xuống miền Nam như thế. Và từ đó Giao châu, mặc dù xa xôi cách trở như đã nói ở trên, đã nghiễm nhiên trở thành một nơi ẩn náu lý tưởng cho những gia đình thượng lưu và quan chức nào muốn tránh những rắc rối với quan quân nhà Tấn. Phẩm chất của những người mới di cư đến Giao Châu tương đối cao. Một thí dụ rõ nhất là dòng họ Đỗ dần dần nổi tiếng ở Giao Châu vào thế kỷ thứ 4.
Cũng chẳng khác các đám quan chức Hán và Ngô trước kia, đa số đám quan chức Tấn khi mới được bổ nhiệm xuống Giao Châu cũng tìm mọi cách để vơ vét và làm giàu cho thật mau rồi hồi hương. Vơ vét tại Giao Châu và Quảng Châu chưa đủ, quan quân nhà Tấn còn kéo sang cả các nước lân bang ở sâu hơn phía nam. Đó là nguyên cớ của những cuộc chiến tranh với Lâm Ấp trong thế kỷ thứ 5 và thế kỷ thứ 6. Những cuộc chạm trán giằng dai này giữa quan quân nhà Tấn và Lâm Ấp đã gían tiếp đẩy người Việt Nam, về mặt tâm lý, vào một cái thế phải lệ thuộc và chịu ảnh hưởng của Trung Quốc nhiều hơn nữa.
Tượng Phật trong viện bảo tàng Chàm ở Đà Nẵng. Địa thế của Kinh đô Champa nằm cùng khu vực của nước Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 3 sau Thiên Chúa
Năm 270 Phạm Hùng, vua Lâm Ấp, bị tử trận trong trận giao chiến với Đào Hoàng, Thứ Sử Giao Châu, Phạm Miễn, con trai Phạm Hùng lên kế nghiệp cha tiếp tục lèo lái Lâm Ấp trở nên một nước thịnh vượng và ổn định. Năm 284, Phạm Miễn gửi sứ bộ chính thức của Lâm Ấp sang yết kiến Tấn triều để nối lại bang giao bị gían đoạn từ lúc Lâm Ấp tiếp kiến Lữ Đại vào năm 226, sau khi Lữ Đại giết con trai Sĩ Nhiếp là Sĩ Huy và lên làm Thứ Sử Giao Châu cũng vào năm đó. Nhờ giao hảo với Trung Quốc Lâm Ấp ngày càng phát triển và thực hiện được nhiều tiến bộ quan trọng. Nhưng khi Phạm Miễn băng hà vào năm 336, thì ngôi vua Lâm Ấp bị lọt vào tay một người gốc Trung Quốc tên là Văn.
Theo sử sách ghi lại thì Văn ra đời ở vùng hạ lưu sông Dương Tử và bị đem bán làm nô lệ ngay từ khi còn nhỏ. Bao phen lưu lạc, Văn có một thời làm người hầu cho một hoàng tử Lâm Ấp. Đến tuổi thanh niên, sẵn máu giang hồ, Văn bỏ trốn và theo một thương nhân Lâm Ấp đi buôn bán xa. Thời vua Min ở Trung Quốc (313-316), Văn theo đoàn thương buôn lên tận kinh đô Lạc Dương của Trung Quốc lúc đó đang bị các bộ tộc bắc phương tràn xuống xâm lược và chiếm đóng.
Chứng kiến tận mắt những biến cố tại Lạc Dương giúp Văn hiểu rõ ràng rằng Tấn triều phương Bắc đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Đó là một dịp may hiếm có cho một ngoại nhân giàu óc tưởng tượng như Văn rắp tăm xưng hùng ở phương Nam. Sau khi từ Lạc Dương về, Văn nhanh chóng thực hiện các tham vọng của y bằng cách giúp xây một cung điện nguy nga cho Phạm Miễn theo kiểu Trung Quốc. Văn còn được Phạm Miễn tin dùng trong việc cai quản và xây dựng cả những công sự chiến đấu và giám sát việc chế tạo vũ khí để rồi sau đó được phong chức tổng chỉ huy quân đội Lâm Ấp. Càng về già vua Phạm Miễn càng tùy thuộc nhiều vào Văn nên khi Phạm Miễn chết, Văn gạt bỏ các hoàng tử kế vị và ngang nhiên lên ngôi vua.
Dẹp tan một số phản kháng ngoài biên giới Lâm Ấp, năm 340 Văn nhanh chóng sai sứ thần sang triều cống Tấn triều và yêu cầu dùng rặng Hoành Sơn làm biên giới như một cách gián tiếp sát nhập Nhật Nam vào Lâm Ấp. Dĩ nhiên nhà Tấn bác bỏ đề nghị này mặc cho Tấn triều đã chẳng còn khả năng đô hộ Nhật Nam. Được thể vào năm 344, Văn xua quân đánh phá Nhật Nam, Cửu Đức, và Cửu Chân để dò xem thái độ Tấn triều như thế nào.
Song song với tham vọng của Văn, tình hình xôi đậu ở biên giới Lâm Ấp và Nhật Nam, trung tâm giao thương quan trọng giữa Trung Quốc và các vùng phía nam và phía tây, còn trở nên căng thẳng hơn do việc cai trị sai trái của các thứ sử Tấn triều. Đầu tiên là việc Thứ Sử Khương Trang bổ nhiệm một người bà con tên là Thao Tập làm Thái Thú Nhật Nam. Thao Tập tham lam bắt các thương nhân nộp tiền mãi lộ lên đến 50% gía trị các món hàng. Mặc dù sau khi Thao Tập chết, Tạ Trạc lên thay và cho giảm tỉ lệ ấy xuống còn khoảng 30%, và rồi người kế vị Tạ Trạc là Hạ Hầu Lam bãi bỏ hẳn việc nộp tiền mãi lộ này nhưng vì Hầu Lam tham ô và nhũng nhiễu quá đỗi nên làn sóng phẫn nộ của dân chúng vẫn không suy giảm.
Lợi dùng tình thế nhiễu nhương và bất mãn này năm 347, Phạm Văn đưa quân Lâm Ấp bắc tiến với cờ xí chiêng trống mở đường loan báo rằng :” Cuộc tấn công là do sự phẫn nộ của các lân bang đối với cách hành xử sai trái của Tấn triều.” Văn tự xưng là người đứng ra bảo vệ các nhóm thương nhân từ khắp nơi đến buôn bán hoặc dừng chân ở Nhật Nam. Việc Văn đem quân tiến chiếm Nhật Nam đúng là do sự phẫn uất của quần chúng một phần nhưng thật ra là do tham vọng mở rộng đất đai mà Lâm Ấp đã ấp ủ từ lâu như sử sách đã chép rằng ” Lâm Ấp đất hẹp nên luôn để mắt đến Nhật Nam.” Văn tiến vào Nhật Nam, bắt Thái Thú Hạ Hầu Lam và đem hành hình Hầu Lam dưới cờ để mua lòng dân chúng. Sau khi chiếm được Nhật Nam, Văn lại đề nghị với Chu Phiên, Thứ Sử Giao Châu ấn định rặng Hoành Sơn làm biên giới nhưng Chu Phiên phản đối bằng cách đem quân, dưới quyền chỉ huy của Đô Đốc Lưu Hùng, tiến xuống Nam. Nhưng Lưu Hùng bị Văn đánh bại. Năm 348, Văn lại đưa quân đánh phá Cửu Đức và Cửu Chân, áp đảo quân Tấn đóng ở đấy, giết được khoảng 5.000 đến 6.000 người; lên đến 80-90% binh sĩ của hai quận này. Thấy thế năm 349, lực lượng hỗn hợp của Quảng Châu và Giao Châu, dưới quyền chỉ huy của Đô Đốc Đặng Tuấn, tìm mọi cách nỗ lực phản công. Hai bên giao tranh một trận lớn ở hải cảng lớn Lô Dung, nay là cửa sông Gianh, phía Bắc Nhật Nam. Đô Đốc Tuấn bị thua và phải rút về Cửu Chân nhưng không may cho Văn bị thương nặng và chết trong năm ấy.
Con của Văn là Phạm Phật lên nối ngôi và tiếp tục chính sách của cha. Năm 351, Phạm Phật lại đem quân tiến lên phía Bắc và bao vây Thái Thú quận Cửu Chân là Quán Thúy. Đô đốc Đặng Tuấn và Thứ Sử mới là Dương Bình vội kéo quân xuống giải vây cho Quán Thúy. Khi quân tiếp viện của Tấn triều đến gần, bất ngờ Thúy phá được vòng vây khiến quân của Phạm Phật phải bỏ chạy. Thấy thế quân của Tuấn và Bình đuổi theo và đánh bại Phạm Phật ở nam Nhật Nam. Khi quân Tấn kéo đến gần kinh đô Lâm Ấp, Phạm Phật đầu hàng, ngỏ lời xin lỗi và thề sẽ không gây hấn nữa và quân Tấn đồng ý lui binh về biên giới.
Tuy nhiên những cuộc hành quân khiêu khích vẫn thỉnh thoảng xảy ra vì Phạm Phật vẫn nuôi tham vọng mở mang bờ cõi về phía bắc. Năm 352, Thứ Sử Nguyên Phu đem quân trừng phạt Lâm Ấp và tiêu diệt được hơn 50 đồn lũy. Tuy nhiên phần vì tình hình biên giới đã bớt căng thẳng và  phần chính là vì cuộc chiến tranh phòng thủ đã biến thành một cuộc chiến nhằm dành vinh quang và lợi lộc cho các quan quân Tấn nên các thủ lãnh địa phương không còn sốt sắng trợ giúp quân Tấn nữa.
Năm 358, dưới sự giám sát của Đằng Hàn, Thứ Sử Quảng Châu, và Ôn Phóng Chi, Thứ Sử Giao Châu, quân Tấn lên kế hoạch quy mô tiến đánh Lâm Ấp. Nhưng kế hoạch này bị Đỗ Bảo, Thái Thú Giao Chỉ và Nguyên Lang, một pháp quan của Giao Châu cực lực phản đối. Không muốn bất đồng lan rộng, Phóng Chi ra lệnh giết cả Đỗ Bảo và Nguyên Lang và năm 359, Phóng Chi kéo quân xuống Nam, bao vây được Phạm Phật trong kinh đô Lâm Ấp và bắt Phạm Phật phải tuyên thệ trung thành. Từ đó miền biên giới được yên ổn được một thời gian dài. Trong thập kỷ 370, Phạm Phật nhiều lần gửi sứ bộ ngoại giao yết kiến Tấn triều để giữ hòa khí và đến năm 380 Phạm Phật qua đời.
Nhìn lại cuộc chiến tranh với Lâm Ấp chúng ta có thể hình dung bối cảnh văn hoá và chính trị của các thủ lãnh địa phương ở Giao Châu vào lúc đó. Đầu tiên Giao Châu phản ứng bằng nhiều cuộc nổi dậy chống lại Tấn triều. Nhưng năm 348, khi Lâm Ấp tiến chiếm Nhật Nam và tàn phá lên mãi tận Cửu Chân, sử sách không ghi nhận các phản ứng hoặc tranh thủ thời cơ nổi dậy chống lại Tấn triều của người Việt mà ngược lại giới cầm quyền địa phương lại đi theo các quan chức Tấn để đẩy lui quân Lâm Ấp về bên kia biên giới. Chỉ sau khi tình hình chiến tranh với Lâm Ấp đã bớt đi và việc hạch sách nhũng nhiễu để thị oai của Tấn triều tái diễn thì các thủ lãnh địa phương mới lợi dụng cơ hội này để chống lại những đòi hỏi của Tấn triều với Giao Châu. Chúng ta có thể ước đoán rằng thiện chí hợp tác của dân chúng Giao Châu với miền Bắc là do tác động của việc người Tấn di dân và tiến quân xuống miền nam trên giới cầm quyền địa phương.
Tuy nhiên, việc hợp tác giữa các thủ lãnh địa phương ở Giao Châu với sự cai trị của Tấn triều chẳng được bao lâu vì ảnh hưởng của việc Tấn đem quân chống sự bành trướng từ Lâm Ấp xẹp xuống mau lẹ khi những đe doạ ấy giảm bớt đi.
GIA ĐÌNH HỌ ĐỖ
Vào thập niên 370, việc cai trị của nhà Tấn ở Giao Châu lỏng lẻo hẳn đi. Năm 377, quan Thứ Sử Kinh Châu thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ, nắm quyền quân sự năm châu: hai châu thuộc Tứ Xuyên, Quế Châu, Quảng Châu, và Giao Châu. Vài tháng sau, một châu khác nữa ở về phía Đông được thêm vào quyền chỉ huy bao la và có tính cách lễ nghi ấy. Trong khi đó thì triều đình Tấn đang phải chịu bất lực trước một quan đại thần nắm mọi quyền sinh sát và ngay cả quyền truất phế và lập vua theo ý mình. May là viên quan đại thần này chết sớm nên nhà Tấn mới còn lây lất thêm cho mãi đến biến cố Lưu Du. Lúc đó ở Tây Tạng có một người tên là Phù Kiên (357 -385) thống nhất được miền Bắc Trung Quốc. Năm 383, Phù Kiên kéo quân xuống tấn công nhà Tấn ở miền nam. Mặc dù nhà Tấn đã may mắn sống còn sau cuộc tấn công này nhưng vẫn tiếp tục bị thao túng bởi các sứ quân địa phương, đáng để ý là cuộc nổi loạn của các nông dân theo Lão Giáo khi họ chiếm được nhiều đất đai, kể cả Quảng Châu. Người có công lớn nhất trong việc dẹp yên được nội loạn ấy là Lưu Du, chính là người sau này cướp ngôi nhà Tấn năm 420, lập ra nhà Tống. Trong suốt thời kỳ rối ren ở phương bắc ấy, Giao Châu lại được hưởng thái bình tương đối và đời sống chính trị ở Giao Châu phát triển mạnh dưới quyền lãnh đạo của gia đình họ Đỗ.
Thứ Sử Giao Châu Ôn Phóng Chi, người đã đánh bại Lâm Ấp năm 359, được kế vị bởi một thứ sử khác tên là Chu Phù mà lai lịch không thấy ai nhắc đến. Sau đó, ghế Thứ Sử bị bỏ trống và Thái Thú Cửu Chân là Lý Tốn lên cầm quyền. Lý Tốn và con trai ông là hai người nổi tiếng về tính can đảm và quả quyết. Quyền thế và ảnh hưởng của hai cha con nhà Lý Tốn trùm lấp Giao Châu.
Năm 380, Tấn triều lại cử Đặng Độn Chi làm tân thứ sử Giao Châu nhưng Lý Tốn quyết định chống lại vì có lẽ ông cho rằng nhà Tấn đang phải bận tay trên đối phó ở phương. Có thể Lý Tốn có cái nhìn chiến lược, nhưng ông lại quên không đếm xỉa đến những địch thủ chính trị ở địa phương đang nóng lòng tranh chức trong đó có Thái Thú Giao Chỉ là Đỗ Viện. Họ chỉ đợi thời cơ để chống lại Lý Tốn lấy cớ rằng ông bất tuân lệnh ban của Tấn triều. Tháng 10 năm 380, Lý Tốn sai hai con trai canh giữ những đường bộ và đường biển quan yếu dẫn vào Giao Châu để chặn đường Độn Chi. Chỉ 9 tháng sau, Lý Tốn bị Đỗ Viên, Thái Thú Giao Chỉ, giết chết.
Nói về nhà họ Đỗ, gốc tự Tràng An. Vào giữa khoảng thời gian nhà Ngô bị sụp đổ năm 280 và Lạc Dương bị mất năm 311, ông nội của Đỗ Viện làm Thái Thú Ninh Phố, một quận ở ngay bên kia biên giới phía bắc Giao Châu và được thành lập bởi nhà Ngô bằng cách cắt một phần đất của quận Uất Lâm và Hợp Phố. Có lẽ là để tránh những rối ren của vụ Vương Chi nổi loạn, nên họ Đỗ dọn xuống Giao Chỉ và định cư ở Chu Diên. Thái Thú Giao Chỉ, Đỗ Bảo, người bị Ôn Phóng Chi giết chết trước khi có chiến dịch năm 359 đánh Lâm Ấp, có thể là phụ thân của Đỗ Viện. Bắt đầu sự nghiệp là một quan chức của chính quyền Giao Châu, Đỗ Viện được thăng lên làm Thái Thú Nhật Nam, Cửu Đức và sau đó là Thái Thú là Giao Chỉ. Khi Lý Tốn nổi dậy năm 380, Đỗ Viện tập hợp được một số tùy tùng tấn công giết được Lý Tốn và nghênh đón Thứ Sử Đặng Độn Chi. Để thưởng công Tấn triều đình phong cho Đỗ Viện chức Vũ Long Tướng Quân.
Quan hệ giữa Đỗ Viện và Độn Chi rất thân thiết và kéo dài tới 20 năm cho tới khi Độn Chi trở về Bắc. Độn Chi vừa đi khỏi, Lâm Ấp lại động binh, phá vỡ cuộc hoà bình 40 năm.
Sau cái chết của Phạm Phật năm 380 là thời kỳ nhiếp chính vì con Phạm Phật là Phạm Hồ Đạt, lên nối ngôi lúc còn nhỏ tuổi. Khi Độn Chi đi khỏi Giao Châu vào đầu năm 399, Hồ Đạt, lúc bấy giờ đã lớn, nhân cơ hội ấy lại hâm nóng những tham vọng của cha và ông nội. Y tiến quân lên Bắc, chiếm ngay được hai quận Nhật Nam và Cửu Đức vì cuộc tấn công hoàn toàn bất ngờ và bao vây được thủ phủ hai quận trước khi quân trú đóng kịp trở tay. Đỗ Viện và người con thứ ba của ông không thể không có phản ứng. Theo tiểu sử của ông chép:
“Cẩn thận và kiên trì trong việc đối đầu với quân Lâm Ấp, hai cha con nhà họ Đỗ đã dùng dùng mưu lược gây cho quân địch rất nhiều thiệt hại. Hết tổn thất này đến tổn thất khác, cuối cùng Hồ Đạt phải rút quân về Lâm Ấp.”
Đây là một thí dụ điển hình về chiến tranh du kích mà có lẽ sau này đã trở thành bản năng tự vệ của các người Việt Nam. Họ Đỗ được kể như là có “gốc gác” Việt Nam nhất trong số những nhóm cai trị ở Giao Châu. Sinh ra và lớn lên trong lòng dân Việt, nhưng Đỗ Viện nổi bật lên là một lãnh tụ trung thành và có tài trong con mắt triều đình nhà Tấn. Sau khi đánh bại được Phạm Hồ Đạt, ông được bổ nhiệm làm Thứ Sử Giao Châu.
Năm 405, Hồ Đạt lại lần nữa đánh phá các vùng biên giới Nhật Nam khiến Đỗ Viện phải phái đội chiến thuyền đến tấn công bờ biển Lâm Ấp để trả đũa vào năm 407. Sau trận này, vùng biên giới Nhật Nam với Lâm Ấp lại được yên ổn vài năm, và các lãnh tụ Giao Châu lại quay sang củng cố thế lực nhưng không quên theo dõi tình hình chính trị rối ren ở phương Bắc, nơi mà những cuộc nổi loạn đang làm rung chuyển giang sơn Trung Quốc.
Năm 410, Thứ Sử Quảng Châu là Lư Tuần làm phản. Ông gửi sứ giả đến tìm Đỗ Viện để bàn việc hợp tác giành độc lập cho Quảng Châu và Giao Châu từ tay Tấn triều. Năm ấy Viện ngoài 84 tuổi. đã tạo dựng được một sự nghiệp vững chắc và chứng tỏ là bầy tôi trung thành của Tấn triều nên ông không thể thông đồng với một ý định phiêu lưu như thế. Vì thế Đỗ Viện sai chém đầu sứ giả của Lư Tuần. Năm sau, ông qua đời và các bộ tướng của ông nhất lòng đưa người con thứ năm của ông là Đỗ Tuệ Độ lên kế vị.
Đỗ Tuệ Độ trước đó là người giữ chức vụ về sổ sách dân số ở Giao Châu. Về sau, ông được bổ làm Thái Thú Cửu Chân. Ngay trước khi phụ thân qua đời, Tuệ Độ đã thiết lập được các quan hệ chặt chẽ với các viên chức ở Giao Châu. Việc ông được bầu lên kế vị cha còn được củng cố hơn nữa với việc Tấn triều chính thức phong ông làm “Đặc Cách Mục Bá” với quyền hành bao trùm tất cả việc quân sự ở Giao Châu và kiêm luôn chức Quảng Châu Thượng Tướng. Chức vị sau chót này hàm ý thúc dục Tuệ Độ ra tay dẹp trừ Lư Tuần đang làm loạn. Nhưng Tuệ Độ chưa kịp xoay trở, vì ngay trước khi chiếu chỉ bổ nhiệm ông tới được Giao Châu, Lư Tuần bị Lưu Du đuổi đánh nên phải chạy xuống phía nam qua ngả Hợp Phố rồi thẳng đường kéo xuống Giao Chỉ. Tuệ Độ đem 6.000 quân chận đánh Lư Tuần ở Thạch Kỳ, một địa điểm nằm trong Giao Chỉ. Lư Tuần bị thua, và quân sư của ông bị bắt nhưng Lư Tuần chạy thoát. Biết được rằng họ Lý vốn thù ghét họ Đỗ, Lư Tuần sai sứ đến gặp các con trai Lý Tốn là Lý Nhiếp và Lý Thoát đề nghị hợp tác. Hai anh em nhà họ Lý bèn kéo khoảng 5-6 ngàn quân bộ lạc Li xuống núi hợp sức với 3.000 lính tinh nhuệ còn sót lại dưới quyền lãnh đạo của Lư Tuần để tiếp tục cuộc phiêu lưu chống lại Tuệ Độ chứ chưa chịu bó tay.
Để đối chọi với liên minh đáng sợ này, Tuệ Độ bèn vội vã phân phát gia tài của ông cho các quan chức trong châu để khuyến khích họ trung thành với mình. Ông lại cử em trai làm Thái Thú Cửu Chân, nơi trung tâm quyền lực của họ Lý đồng thời hiệu triệu dân chúng và chuẩn bị quân đội. Khi Lư Tuần kéo đến Long Biên vào một sáng mùa hè năm 411, Tuệ Độ đã sẵn sàng nghênh chiến. Lư Tuần và quân chủ lực dùng chiến thuyền tiến ngược dòng sông. Tuệ Độ đứng trên mũi thuyền lớn và xua quân lâm trận tong khi bộ binh của ông cung tên sẵn sàng ở hai bên bờ sông. Tất cả các thuyền của Lư Tuấn bị tên lửa của Tuệ Độ bắn bốc cháy khiến quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Lư Tuần sau khi bị trúng tên và thấy thế trận của mình đã vỡ bèn nhảy xuống sông tự vẫn.
Trận này Tuệ Độ đại thắng. Thân phụ của Lư Tuần, hai người con, và hai bộ tướng cùng với hai anh em họ Lý và một số lãnh tụ ly khai đều bị bắt và bị xử chém. Để tưởng thưởng công lao, Tấn triều phong cho Tuệ Độ làm “Long Biên Hầu” và ông được hưởng bổng lộc 1.000 hộ. Hai năm sau vào năm 413, Tuệ Độ lại thắng Lâm Ấp một trận quan trọng nữa khi Phạm Hồ Đạt đem quân xâm lăng Giao Châu. Sau nhiều trận đánh giằng dai ở Cửu Chân, hai người con của Hồ Đạt, một bộ tướng, hàng trăm sĩ quan khác, đều bị quân của Tuệ Độ bắt hay giết. Còn Hồ Đạt, cũng mất tích từ đó.
Tuy Hồ Đạt mất tích gây gặp nhiều rối ren trong việc truyền ngôi ở Lâm Ấp trong nhiều năm trời, nhưng việc tấn công cướp phá Nhật Nam vẫn còn tiếp diễn nên năm 415 Tuệ Độ lại phái một bộ tướng đi đánh dẹp. Năm 420 Tuệ Độ thân chinh đem 10.000 quân chinh phạt Lâm Ấp và thắng lợi rất lớn. Hơn một nửa quân của Lâm Ấp bị tiêu diệt và tất cả các đồ đạc tài sản bị Lâm Ấp cướp bóc trước đây đều được thu hồi. Khi Lâm Ấp xin hàng Tuệ Độ đã rộng lượng ra lệnh cho quân sĩ ngưng tấn công ngay và thả tất cả mọi tù binh Lâm Ấp trước khi lui về Nhật Nam. Cũng năm ấy, Đỗ Tuệ Độ sai con út là Hoằng Văn dẫn một đạo quân 3.000 người lên giúp đỡ ngai vàng nhà Tấn đang bị lung lay nhưng Hoằng Văn chỉ vừa kịp đến Quảng Châu thì được tình hình đã ngã ngũ là nhà Tấn đã vào tay nhà Tống, nên quay trở về. Về sau, một trong những chức vụ quan trọng mà nhà Tống phong cho Hoằng Văn là ” Lưỡng Biên Tướng Quân,” có nghĩa là họ Đỗ phải tuần tra hai miền biên giới bắc nam để phòng giặc hoặc những nhóm tìm cách ly khai khác. Gương phản loạn của Lư Tuần khiến họ Đỗ để ý nhiều hơn nữa đến những bất ổn khác nhau và tìm cách ngăn chặn ngay trước khi quá muộn.
Xét về những thành tích quân sự chống phản loạn ở phía Bắc và Lâm Ấp ở phía Nam chứng tỏ Đỗ Tuệ Độ là một lãnh tụ có tài. Ông còn là một nhân vật đáng chú ý qua một trích đoạn tiểu sử của ông dưới đây:
“Tuệ Độ mặc quần áo vải thô như một thường dân. Ông chỉ ăn rau, sống thanh đạm và giản dị. Ông còn chơi đàn kìm rất hay và luôn cư xử đứng đắn lịch thiệp. Ông nghiêm cấm những hủ tục phóng túng bừa bãi, và chú tâm vào việc xây dựng trường học. Trong những năm đói kém, khi dân bị đói khổ, ông trích lương bổng của mình ra giúp đỡ họ. Ông cai trị rất khôn khéo và thân mật giống như điều khiển một gia đình. Nhã nhặn nhưng nghiêm nghị khiến những người phóng túng hư hỏng và những quân trộm cướp không dám hó hé và cổng thành không hề phải đóng về đêm. Vật gì ai đánh rơi ngoài đường không có người nhặt.”
Điều này thoảng nghe giống như những lời tuyên truyền cho một nhà cầm quyền lý tưởng. Nhưng thật thế, Đỗ Tuệ Độ biết dung hoà Khổng Giáo và Phật Giáo vì có lẽ trong cái mộc mạc khắc khổ của miền biên cương xa xôi này, chân lý dễ được người ta nghe theo hơn là ở các trung tâm quyền lực chốn “triều đình”. Dù sao, Đỗ Tuệ Độ phải có một tư chất đặc biệt nào đó để dân chúng sau này tôn sùng ông như của một thánh nhân huy hoàng như thế. Các đức tính và cách hành xử của Đỗ Tuệ Độ được truyền tụng cho ta thấy rõ các tinh chất của văn minh Trung Quốc đã hội nhập vào văn hoá Việt Nam sau này. Mặc dù được coi là một bầy tôi trung thành của triều đình phương Bắc, ông vẫn là người sinh ra và lớn lên ở Giao Châu. Trong khi lòng trung thành của ông đối với triều đình phần nhiều chỉ là vấn đề nghi lễ, hình thức, qua ông chúng ta vẫn có thể thấy một hình ảnh thu nhỏ của những quan hệ ngoại giao phiền phức giữa Giao Châu và Trung Quốc. Điều đáng nói là sau này họ Đỗ đã không coi Giao Châu là quê hương vĩnh viễn của mình. Con của Tuệ Độ, Hoằng Văn là người kế vị ông, tìm cách tiến cao hơn trong Tống triều khi vội vã rời bỏ đời sống gò bó quê nhà ở Giao Châu lên kinh đô để phải một gía quá đắt là chính mạng sống của mình và không còn ai kế thừa dòng họ Đỗ trong việc cai trị Giao Châu từ đó về sau. Chi tiết việc này là vào năm 427, Hoằng Văn được sắc chỉ Tống triều gọi về kinh để giữ chức Đình Úy và cử Vương Huy Chi làm tân thứ sử Giao Châu thay thế ông. Thế là ước vọng lớn nhất của Hoằng Văn được thoả mãn và ông lập tức lên đường mặc dầu bị lâm bệnh đột ngột. Khi được đề nghị là hãy nán lại, đợi khi bình phục hãy đi thì ông nói: “Nhà ta đã ba đời hưởng lộc vua; ta vẫn luôn luôn muốn được về triều để tâu trình mọi việc về trách nhiệm của ta. Giờ đây ta được đích thân triệu về, tại sao lại trì hoãn ?”
Hoằng Văn mong mỏi được Tấn triều ghi nhận công lao xứng đáng của gia đình ông sau bao năm trấn thủ ở phương trời quê mùa này đến nỗi bất kể bạo bệnh, cùng thân mẫu tháp tùng chăm sóc, ông vẫn lên đường. Đến Quảng Châu thì ông không cưỡng lại bệnh tật nên qua đời. Thế là sau gần nửa thế kỷ, quyền thế của họ Đỗ ở Giao Châu không còn nữa.
Trong suốt thời gian cầm quyền ở Giao Châu, họ Đỗ đã tạo được sự yên ổn cho các quan chức địa phương vì nhà Tấn bị nhiễu nhương và rối loạn không có thời giờ nom dòm đến miền nam. Việc ông lựa chọn không ngả theo việc dành độc lập do Lý Tốn khởi xướng có hai lý do. Trước là vì thế lực quân sự của nhà Tấn sau cuộc chiến tranh với Lâm Ấp vẫn còn. Sau là, mặc dù chỉ là hình thức, đám quan quân sau chiến tranh vẫn còn thanh thế để tiếp tục duy trì ảnh hưởng Tấn triều. Lại xét việc nổi dậy của Lư Tuần, Lý Du cũng chẳng làm gì được trong tình trạng đó và họ Lư cũng chỉ biết trông cậy vào một nhóm đồng minh của họ ở trên núi hầu hậu thuẫn cho phong trào độc lập. Họ Đỗ rõ ràng đã đạt được một sự đồng tâm nhất trí với giới cầm quyền ở địa phương. Trái lại gia đình họ Lý vẫn không xóa được những dị biệt với các thủ lãnh địa phương trong khi tiếp tục tìm cách ly khai khỏi ảnh hưởng phương bắc. Các chế độ nối tiếp nhau của Trung Quốc ngày càng hiểu rõ rằng mầm mống ly khai ấy không thể diệt trừ hết được. Trải qua bao nhiêu thăng trầm, các ước vọng ly khai và độc lập ấy cuối cùng rồi cũng đơm bông kết trái thành một nước Việt Nam độc lập.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét