Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (4)

Việt Nam khai quốc - the birth of Vietnam (4)
Tượng cừu trên mộ bia Sĩ Nhiếp
Sĩ Nhiếp là con trai lớn của Sĩ Tứ, Thái Thú Việt Nam dưới thời Hoàng Đế Hoàn (147-67). Trước đó, gia đình Sĩ di cư khỏi Sơn Đông để xuống Nam, thời đại Vương Mãng. Sĩ Nhiếp sanh năm 137 ở Thương Ngô, tức Quảng Tây bây giờ. Thời còn trẻ, ông lên miền Bắc, ở Dĩnh Xuyên (tức Hồ Nam bây giờ) để học văn dưới sự hướng dẫn của Lưu Tử Kỳ. Lớn lên, ông được bổ nhiệm làm quan ở triều đình Hán, Khi phụ thân ông mất, ông trở về quê nhà ở Thương Ngô. Chịu tang phụ thân xong, ông đi thi và đỗ Mậu Tài, được bổ làm Lịnh ở huyện Ngô tại miền Đông Tứ Xuyên. Hình như vào thời ông Cổ Tông làm Thứ Sử, trong những năm 180 khi những người địa phương có khả năng được tuyển chọn để thực thi một chính sách nhân đạo mới mà Sĩ Nhiếp được chọn làm Thái Thú Giao Chỉ.

Trong quan hệ của ông với triều đình Hán, Sĩ Nhiếp tỏ ra là một viên Tổng Quản trung thành làm việc trong hệ thống quận và huyện. Tuy nhiên, suy từ những biến cố xảy ra sau khi ông mất, người ta thấy rõ ràng lúc sinh thời, ông chủ trì một tổ chúc quyền lực ở địa phương, căn cứ trên những đại gia đình Hán-Việt nào có thể cung cấp được những đạo quân bản bộ riêng. Viễn tượng hỗn hợp của môi trường Hán-Việt trở thành một yếu tố quan trọng cho kinh nghiệm lịch sử Việt Nam. Về phía Hán, Sĩ Nhiếp hành động với danh nghĩa một người lính giữ gìn biên cương của Hán. Nhưng về phía Việt Nam, ông là thủ lãnh của một xã hội gồm có những người cầm quyền ở địa phương. Trong bối cảnh hỗn hợp này, cũng không khó để chuyển dịch khuynh hướng từ bên này sang bên kia. Vì vậy, một lãnh đạo thuộc giòng máu lai Trung Quốc giữ vai trò Hán-Việt hỗn hợp, hay trong vài trường hợp thiên hẳn về phía Việt Nam là một khuôn mẫu rất phổ biến trong xã hội Việt Nam thuở ấy. Sĩ Nhiếp là vị lãnh đạo đầu tiên trong số nhiều lãnh đạo mạnh của địa phương đã xuất hiện với mục đích xây dựng một xã hội bản xứ trong khuôn khổ của nền văn minh Trung Quốc.
Chu Tuấn, viên tướng đã bình định Giao Chỉ năm 181, đã giúp phá giặc Khăn Vàng ở Bắc Trung Quốc năm 184. Dưới sự bảo trợ của gia đình Chu, nhiều người tị nạn thuộc giới thượng lưu đã chạy xuống Giao Chỉ để tránh cơn bão loạn của giặc. Con trai của ông là Chu Phù đã được phong làm Thứ Sử Giao Chỉ. Quan hệ giữa Thứ Sử Chu Phù và Thái Thú Sĩ Nhiếp có phần chênh lệch. Chu Phù là người ở xa đến, phải nhờ cậy vào các bộ tướng của mình và cả những người tị nạn ở giai cấp thuợng lưu. Sĩ Nhiếp là người ở địa phương đứng đầu các đại gia đình thuộc xã hội cầm quyền ở địa phương. Lãnh thổ cầm quyền của Sĩ Nhiếp được ổn định và ngày càng thịnh vượng. Tuy ở chức vị cao hơn, Chu Phù không thể khẳng định uy quyền của mình với Sĩ Nhiếp; những đất đai dưới quyền Chu Phù (ngày nay là Lưỡng Quảng) đầy rẫy những giặc cướp và quan chức bất mãn.
Chu Tuấn chết năm 195, và gia đình Chu về sau bị sa sút. Năm 196, Chu Phù bị “theo dõi và bị giết chết” bởi một “người hùng địa phương.” Ta có lý do để nhận thấy bàn tay của Sĩ Nhiếp sau vụ này. Bởi vì lúc Chu Phù chết, Sĩ Nhiếp đã mau lẹ chiếm lấy quyền kiểm soát vùng duyên hải Giao Chỉ. Ông bổ nhiệm 3 người em trai của ông là Sĩ Nhất, Sĩ Vi, và Sĩ Vũ làm Thái Thú Hợp Phố, Cửu Chân và Nam Hải. Khoảng 100 sĩ phu theo Chu Phù xuống Nam đều được Sĩ Nhiếp tiếp đón và dung nạp.
Vào lúc đó, giang sơn nhà Hán đang bị quân phân thành 3 nước mà về sau gọi là thời “Tam Quốc” trong lịch sử. Nhà Hán cố gắng để vãn hồi quyền hành đang tàn tạ của mình bằng một cuộc cải cách hành chánh trong đó quyền hành được ủy nhiệm rộng rãi cho các quan Mục Bá (đứng đầu các châu). Giao Chỉ Bộ không nằm trong hệ thống mới này và triều đình bổ nhiệm Truơng Tần thay Chu Phù làm Thứ Sử.
Trương Tần là một người lập dị, mà theo các sử gia “không nghe theo những lời dạy trong sách của các hiền triết xưa, và hủy bỏ luật pháp của nhà Hán.” Ông hay chít một cái khăn đỏ, ngồi đốt trầm hương, gảy đàn và đọc “những sách nhảm nhí.” Thật vậy, Trương Tần rất yêu chuộng Lão Giáo, và từ khi Lão Giáo trở thành một đặc điểm của Giặc Khăn Vàng, có thể kết luận rằng đó là nguyên nhân ông bị lớp quan lại của triều đình dè bỉu. Điều đó giải thích tại sao ông bị đổi xuống Giao Chỉ Bộ.
Tuy nhiên, quyền hành ở phần lớn Giao Chỉ nằm trong tay Sĩ Nhiếp. Trương Tần chỉ có quyền giới hạn trong hai huyện hẻo lánh là Thương Ngô và Uất Lâm ở thượng lưu sông Tích. Địa vị của Trương Tần rất bấp bênh vì nó nằm trong phạm vi tham vọng của Lưu Biểu là thủ lãnh Kinh Châu ở ngay phía Bắc. Chẳng bao lâu, Truơng Tần và Lưu Biểu gây sự xung đột nhau luôn luôn. Sĩ Nhiếp ủng hộ Trương Tần vì họ Lưu bị triều Hán coi như đang làm phản. Triều đình Hán quá yếu và ở quá xa, nên không giúp đỡ gì được cho Trương Tần. Nhưng đến năm 203, triều đình nâng Giao Chỉ Bộ lên hàng Châu và do đó, thăng chức Trương Tần lên hàng Mục bá. Kể tự đó, Giao Chỉ Bộ được chính thức gọi là Giao Châu. Mặc dầu được hậu thuẫn tinh thần, hai năm sau Trương Tần bị một trong những bộ tướng phản bội và giết chết ông. Lưu Biểu lập tức sai bộ tướng là Lai Cung đến Thương Ngô để huy động những binh sĩ trung thành với họ Lưu.
Khi tin Trương Tần bị giết đến tai nhà Hán, tờ chiếu dưới đây được gởi đến cho Sĩ Nhiếp:
Giao Chỉ là đất miền Nam xa xôi ở gần các sông ngòi và bờ biển; những đặc ân của triều đình từ trước đã không xuống tới nơi được, và những tin tức từ dưới cũng không lên được tới triều đình. Trẫm biết rằng loạn tặc Lưu Biểu đã sai bộ tướng Lai Cung xuống để canh giữ miền Nam. Nay trẫm ban chiếu phong Sĩ Nhiếp làm Bình Nam Tướng Quân, có quyền hành 7 quận và xác nhận vẫn làm Thái Thú Giao Chỉ như trước.
Dựa trên tài liệu này, rõ ràng là triều đình Hán từ nay không còn khả năng áp đặt uy quyển trung ương đến mọi sự việc ở đất Nam. Triều đình chỉ còn cách gia phong chức tước với hy vọng sẽ ảnh hưởng được những diễn tiến ở xa. Sĩ Nhiếp đáp ứng lại bằng cách gửi sứ giả mang những đồ triều cống về dâng vua. Vì có những nhiễu loạn, nên đây là một thành tích đáng ghi. Triều đình công nhận sự biểu dương lòng trung thành bằng cách phong thêm cho Sĩ Nhiếp chức Trấn An Tướng Quân và một tước vị nữa lên hàng quí tộc.
Giang sơn của Sĩ Nhiếp thực sự đứng bên ngoài đế quốc nhà Hán. Nó thuộc vào cái thế giới thương mại đang phát triển ở biển Nam Hải với những con đường thông thương trên biển đi xuống phía Nam và sang phía Tây. Như vậy, Sĩ Nhiếp lại vừa có thể đứng ngoài những cuộc tranh chấp ở miền Bắc xa xôi, vừa giữ được địa vị chính thống của mỉnh đối với một triều đình không còn quyền hành gì. Cho tới khi tương lai của nhà Hán bị cạn kiệt, Sĩ Nhiếp mới ngả về phe thắng thế ở Nam Trung Quốc, tức là Tôn Quyền, người sáng lập nhà Ngô thời Tam Quốc.
Liên minh của Sĩ Nhiếp với Tôn Quyền đã chặn đứng những tham vọng của Lưu Biểu tại miền Nam. Lưu Biểu chết năm 208 và hai năm sau, Tôn Quyền sai một tướng là Bộ Chính xuống quan sát Giao Châu. Bộ Chính rất vui lòng quét sạch được sự can thiệp của Lưu Biểu ở Thương Ngô và để đất miền Nam còn lại cho Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp và các em trai của ông đón tiếp Bộ Chính long trọng, nhận lãnh chức tước được ban và dâng biếu cho Bộ Chính rất nhiều tặng phẩm. Tôn Quyền phong Sĩ Nhiếp làm Tả Tướng Quân để thừa nhận sự cai trị hữu hiệu của ông ở miền Nam.
Năm 220, một người họ Tào bắt vua Hán cuối cùng phải thoái vị, nhường ngôi cho y để lập nhà Ngụy ở Hoa Bắc. Họ Lưu ở Tứ Xuyên bèn lập nhà Thục Hán và Tôn Quyền ở Nam Kinh lập ra nhà Ngô. Sĩ Nhiếp lập tức gởi con trai là Sĩ Tấn lên Nam Kinh để bày tỏ lòng trung thành. Tôn Quyền lại phong cho Sĩ Tấn làm Thái Thú một quận ở lưu vực sông Dương Tử. Đồng thời cả Sĩ Nhiếp, em ông là Sĩ Nghi và những con của họ được Ngô phong cho chức tước mới. Khi Sĩ Nhiếp thuyết phục được những thủ lãnh các bộ lạc ở vùng núi Quế Châu thần phục Tôn Quyền, ông lại được phong thêm chức tước nữa.
Sĩ Nhiếp liên tiếp gởi về triều đình Ngô những đồ hàng xa xỉ quý hiếm như nước hoa, ngọc trai, vỏ đồi mồi, san hô, hổ phách, trái cây các loại, chim công, sừng tê giác, ngà voi, thuốc và nhiều thứ hiếm hoi khác. Em ông là Sĩ Nghi triều cống hàng trăm con ngựa. Không có năm nào là không có vật triều cống mới. Đó là một nguồn lợi tức quan trọng cho nhà Ngô và nó cũng bảo đảm cho địa vị họ Sĩ ở Giao Châu.
Trị sở của Sĩ Nhiếp là Luy Lâu, một trung tâm chính trị rất lâu đời. Triệu Đà đã thiết lập một sứ bộ ở đó vào khoảng 450 năm trước. Nó bị bỏ hoang trong những năm 140 khi loạn lạc làm cho Luy Lâu không được an ninh, do đó thành Long Biên ở giữa vùng đối bìa phía Bắc của đồng bằng được dùng làm trung tâm hành chánh của quận từ đó cho tới khi Sĩ Nhiếp lên nắm quyền vào những năm 180. Việc Sĩ Nhiếp lại lấy Luy Lâu làm trị sở cho thấy là quyền hành của ông được địa phương ủng hộ mạnh mẽ. Ông là một nhà cai trị mẫu mực, theo lời người viết tiểu sử ông như sau:
Sở học của Sĩ Nhiếp rất rộng và xuất sắc. Ông lại có tài tuyệt vời về các vấn đề cai trị. Ông rất khiêm nhượng với các thuộc hạ, kính trọng các bậc sĩ phu và có tính tình rất phóng khoáng. Trong thời đại loạn (cuối triều Hán) ông đã bảo vệ được cả 1 vùng rộng lớn. Trong 29 năm trời, ông chặn đứng được mọi rối ren ở trong vùng và nhân dân đều được yên ổn làm ăn sung sướng. Khi ông đi đâu, có chiêng, trống, nhạc, còi, đi trước. Ngựa và xe chật đường. Bất cứ nơi nào ông đến đều có cả chục người Hồ cầm hương đi theo; hàng chục thê thiếp của ông ngồi xe có rèm che theo sau. Anh em, con cháu ông cưỡi ngựa có lính đi hộ vệ. Quyền hạn và uy tín của ông không ai sánh kịp. Tất cả những dân tộc man di ở miền Nam đều run sợ và quy thuận ông. Triệu Đà cũng không bằng ông.
Việc so sánh Sĩ Nhiếp với Triệu Đà là có ý nghĩa. Giang sơn của ông ở cùng khu vực địa lý như đất Nam Việt cũ của Triệu Đà mặc dầu Sĩ Nhiếp cai trị từ miền Bắc Việt Nam chứ không phải từ miền Nam Trung Quốc. Tuy nhiên có một điều khác biệt là trong những thế kỷ tiếp sau thời Triệu Đà, một nền văn minh mới được phát triển ở các vùng biển phía Nam. Sự thịnh vượng của Giao Chỉ dưới quyền Sĩ Nhiếp có liên hệ mật thiết với sự xuất hiện của cực thu hút mới ấy.
Một học giả người Pháp còn đi xa hơn khi so sánh Sĩ Nhiếp với Alcuin, người có công thành lập trường học triều đình vào thời vua Charlemagne và nhờ đó văn hóa La Tinh được truyền bá ở miền Bắc Âu Châu. Danh tiếng của Sĩ Nhiếp là người theo Khổng Giáo cũng được nâng cao nhờ chuyện ông bảo trợ những nho sĩ Hán đến tị nạn. Một số trong những người tị nạn ấy là những bậc sĩ phu thượng thặng và đa diện rất tiêu biểu trong thời Hán. Tuy vậy, ảnh hưởng văn hóa của những bậc sĩ phu Hán đối với dân Việt Nam lúc đó vẫn chưa được sâu đậm. Thật vậy, phần lớn các hoạt động liên hệ đến việc Trung Quốc hóa người bản xứ do các quan chức Hán ghi lại thường chỉ là những tuyên truyền hời hợt và chỉ là một phương tiện cho các học giả này dễ dàng được thăng quan tiến chức ở chốn biên thùy heo hút này.
Những danh sĩ Hán không cho Giao Chỉ là nơi xứng đáng để họ làm việc nên chỉ nôn nóng trở về Bắc ngay khi nào tình hình chính trị cho phép. Khi Sĩ Nhiếp liên minh với Tôn Quyền, nhiều người đã bỏ về Tứ Xuyên và Bắc Trung Hoa. Vốn đã phải chạy xuống Nam làm khách của họ Chu, họ vẫn chống Tôn Quyền là ngưòi đã lên nắm quyền làm thương tổn nhà Chu. Còn những người khác thì dễ dãi hơn và về sau đều quy thuận nhà Ngô.
Tài liệu xác đáng nhất về thời kỳ này là do ngòi bút của Tiết Tống. Ông đã đi xuống miền Nam lúc còn trẻ để trốn tránh hỗn loạn khi nhà Hán sụp đổ và được học hành ở Giao Chỉ với một danh sĩ tị nạn là Lưu Chiểu, người đã được Sĩ Nhiếp che chở trong nhiều năm. Tiết Tống đã làm việc với Sĩ Nhiếp và lập sự nghiệp ở phương Nam. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, ông được nhà Ngô phong làm Thái Thú Hợp Phố ở miền Tây Quảng Đông. Năm 231, 5 năm sau khi Sĩ Nhiếp qua đời, ông viết một tờ biểu dài dâng lên vua Ngô để tóm tắt tất cả những kinh nghiệm của ông với tư cách là một viên chức hành chánh của Giao Châu.
Ý chính trong biểu trình của Tiết Tống là sự gần như vô hiệu quả trong quá trình văn minh hóa dân chúng miền Nam. Tính cách hỗn tạp của các nhóm dân thiểu số cũng đủ làm nản lòng những nhà cai trị. Ông viết:
Những phong tục không đồng nhất, và ngôn ngữ, không ai hiểu được ai đến nỗi phải có nhiều thông ngôn cho mỗi lần nói chuyện.
Đối với một người Trung Quốc “có học” như Tiết Tống, sự man rợ của người dân bản xứ quả là kinh khiếp:
Dân chúng như chim muông và thú vật; họ búi tóc và đi chân đất; còn y phục, chỉ khoét 1 cái lỗ ở giữa mảnh vải rồi chui đầu qua hay là buộc túm vào 1 bên sườn trái (theo kiểu man di). Thật là vô ích nếu bổ nhiệm những quan cai trị địa phương trong nhóm họ; nếu có bổ nhiệm các quan chức huyện, có họ cũng như không.
Tiết Tống duyệt xét lại những biện pháp văn minh hóa do những quan chức thuộc các thế hệ trưóc đã thi hành và có ghi lại trong sử liệu. Ông đề cập đến những tội phạm được Tần Thủy Hoàng đưa xuống miền Nam và nhất là những cải cách lớn thời Vương Mãng mà các quan chức như Tích Quang, Thái Thú Giao Chỉ và Nhâm Diên, Thái Thú Cửu Chân đã thi hành. Những ông này đã dạy dân cày cấy; lập trường học để dạy họ học chữ theo các sách giáo khoa Trung Quốc, và bắt mọi người phải theo những lễ nghi về hôn nhân chính thức, phải có người làm mai mối, có bố cáo của quan chức và có các bậc cha mẹ chứng kiến khi hứa hôn. Nhưng thật ra, những người đã đọc sách chỉ biết “một cách thô sơ về chữ nghĩa” và ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với đời sống địa phương thật là “tiêu cực.” Chỉ những viên chức được bổ nhiệm đến những vùng này mới biết cách cư xử theo đúng phép văn minh.
Những cố gắng Trung Quốc Hóa tóm lại đã không để lại dấu tích gì trên văn hóa địa phương vào thời Tiết Tống:
Cứ theo những thư tịch còn lại, những hoạt động để văn minh hoá dân đã được tiến hành trên 400 năm rồi; nhưng theo những gì mà chính tôi được nhìn thấy trong nhiều năm từ ngày tôi đến đây, tình hình thực sự lại là một cái gì khác.
Tiết Tống kể ra tỉ mỉ những phong tục địa phương không thấm nhuần được ảnh huởng Trung Quốc:
Về hôn nhân ở Châu Nhai trên đảo Hải Nam, nơi không ai chịu tuân theo các quy luật hành chánh, cứ đến tháng 8, những chủ gia đình tập hợp mọi người lại; đàn ông và đàn bà cứ tự ý mình người này lấy người kia và trở thành vợ chồng trong khi cha mẹ chẳng có quyền hành gì. Trong hai huyện Mê Linh ở Giao Chỉ và Đô Long ở Cửu Chân, khi trong nhà có người anh chết, người em trai được lấy chị dâu làm vợ mình. Tục này đã có từ bao nhiêu thế hệ, do đó đã thành lệ hẳn hoi. Và những quan chức huyện cũng đành chịu mà phải cho phép chứ không bắt bỏ đi được. Tại Nhật Nam, đàn ông và đàn bà ở trần truồng mà đi ra ngoài, chẳng thẹn thùng gì cả. Tóm lại, có thể nói rằng những dân ấy ở ngang trình độ với sâu bọ.
Người Trung Quốc đặc biệt ghê tởm những phong tục hôn nhân không chính thống mà lại chối bỏ quyền phụ hệ vốn là trọng tâm nền chính trị của họ nếu không muốn nói là toàn diện nền văn minh của họ. Nói đến chuyện em chồng được lấy chị dâu khi anh mình chết là một điều có ý nghĩa với người Việt Nam bởi vì đó là bằng chứng hùng hồn của tính cách song phương trong xã hội Việt Nam cũ. Như đã nói, Mê Linh là trung tâm chính trị thời tiền sử của đồng bằng sông Hồng; đó là quê hương của các vua Hùng và của Hai Bà Trưng. Nếu Mê Linh nằm ở ngay cửa ngõ đồng bằng sông Hồng, Đô Long nằm ở ngay cửa ngõ đồng bằng sông Mã. Đó là những “bếp lò” được sùng kính của văn minh Việt Nam với cội rễ rất sâu từ thời kỳ đá mới.
Tục gọi là “em trai chồng lấy chị dâu khi anh mình chết” trước kia được cho là “di thừa của chế độ mẫu hệ”, nhưng trong những năm gần đây, quan điểm này đã bị các nhà nhân chủng học bác bỏ bởi vì không ai đồng ý là làm thế nào mà một thói quen lại có thể là di tích của một lối sống cổ và hơn nữa, ngày nay ít có ai muốn dùng từ “mẫu hệ” bởi vì mọi người không ước lượng được ý nghĩa của nó như thế nào trong các xã hội thời cổ.
Tục này, như đã được thi hành qua các thời kỳ lịch sử, cho người đàn bà quyền được lấy em trai của người chồng chỉ khi nào người chồng chết. Đây là một cách chối bỏ nguồn gốc của truyền thống đa phu-đa thê, và hàm ý là nó đã tồn tại sau khi xã hội thẩm định lại vấn đề tình dục. Hơn thế, đứa con đẻ ra do một cuộc hôn nhân “em thay anh” như thế lại được coi như là con của người chồng đã chết. Cái luật thừa kế ít người ưa này, dựa trên những quan niệm về phụ hệ, có lẽ đã nhanh chóng hủy bỏ tục lệ “em trai chồng kế anh lấy chị chồng” trong một môi trường mà nam giới khống chế, bởi vì chúng ta có thể nghĩ rằng hầu hết mọi đàn ông đều không ai muốn làm cha một đứa con nối dõi một người đàn ông khác, cho dù người đó là anh mình.
Sư phụ của Tiết Tống là Lưu Hi, cũng phê bình về phụ nữ ở đất Nam. Lưu Hi coi người Giao Chỉ là những “người man di không thể sửa đổi được,” và ông trở về Bắc ngay khi những điều kiện cho phép. Về sau, ông viết một cuốn sách nhan đề “Chính Danh” và trong mục giải thích về tên gọi của những đồ trang sức phụ nữ, ông viết:
Trưng bày hạt ngọc trai bằng cách xâu vào lỗ tai: thế gọi là đeo bông tai. Nguyên thủy là do người man di phía Nam sử dụng. Những phụ nữ man di không tin cậy được; họ là những con người lang chạ đi lung tung, ngủ hết với mọi người. Vì thế, họ bị bắt buộc phải đeo những thứ kêu leng keng ấy để giữ họ ở nhà. Ngày nay, những người ở Trung Quốc lại bắt chước họ.
Trong khi không có chỗ nào trong đoạn này nêu rõ người Việt Nam, chúng ta biết rằng Lưu Hi sống chung với người Việt Nam trong nhiều năm, gần mười năm, và những điều ông biết về “những người man di” miền Nam là do các cuộc tiếp xúc của ông với người Việt. Chúng ta không biết chắc Lưu Hi đánh giá chính xác đến đâu lý do mà những phụ nữ Việt Nam đeo bông tai, nhưng những lời ông viết có thể biểu hiện sự thay đổi về vai trò giới tính trong xã hội Việt Nam. Đoạn văn trên thể hiện sự áp đặt của giá trị phụ hệ trên xã hội Việt Nam. Những phụ nữ dường như quen được hưởng quyền hành mạnh mẽ gồm cả một vài đặc quyền về tình dục. Những người đàn ông mong được nắm quyền phụ hệ muốn ra vẻ là biết cách trị những bà vợ cứng đầu bằng cách bắt họ đeo một sức nặng như những đôi bông tai kêu leng keng.
Không những người Việt Nam khó dạy về phương diện văn hoá, mà về phương diện chính trị, họ cũng không dễ thuần thục. Tiết Tống đã làm cho độc giả của ông thắc mắc không hiểu tại sao Trung Quốc lại chú tâm đến một nơi như Việt Nam và sau đó ông đưa ra vài lý do:
Họ dễ dàng nổi loạn và khó bình định; những quan chức huyện hành động rất đường hoàng và cẩn thận tránh không khiêu khích họ. Những gì ở ngoài đồng hay ở trong nhà mà có thể thu được bằng thuế rất ít. Mặt khác ở đó nổi tiếng về những đồ quý hiếm: ngọc trai; hương trầm; thuốc; ngà voi; sừng tê giác; mai rùa; san hô; chim vẹt; chim trả; công; và nhiều thứ quý báu có thể thoả mãn được tất cả mọi người. Vì vậy, không cần thiết phải tùy thuộc vào thuế má để đem lợi về cho triều đình.
Những sinh hoạt bình thường của chính quyền Trung Quốc như giáo dục hay thuế má thường hay gặp rắc rối vì những sự khác biệt hiện hữu trong lề lối của dân bản xứ. Chính ra, những quan tâm của Trung Quốc đối với Việt Nam không phải là về mặt hành chánh, mà là về sự khai thác và vơ vét. Sức quyến rũ của những đồ xa xỉ miền nhiệt đới đầu tiên đã khiến Tần Thủy Hoàng phải đem quân xuống miền Nam, và những lợi tức vơ vét được mau lẹ vẫn là sức thu hút của vùng ấy đối với người Trung Quốc. Kết quả là các quan chức Trung Quốc không phải là những nhà cai trị mà là những chuyên gia “làm giàu mau lẹ.” Tiết Tống lại nhận xét như sau:
Phải công nhận rằng ở bên ngoài đất nước (ở miền Bắc và miền Trung Trung Quốc), những người được tuyển chọn làm quan cấp huyện không được xem xét cẩn thận. Dưới thời Hán, luật pháp lỏng lẻo, và nhiều quan chức bê tha và trác táng. Kết cục là có nhiều hoạt động bất hợp pháp xảy ra.
Tiết Tống đưa ra một vài thí dụ tỉ mỉ. Ông nói Hán phải bỏ đảo Hải Nam sau một cuộc nổi dậy được sách động bởi những quan chức tham ô đến nỗi họ buộc dân phải cắt tóc để họ thu đem bán cho nơi làm tóc giả để lấy tiền. Một Thái Thú tên là Hoàng Cái đến Nhật Nam rồi giết vài thủ lãnh địa phương vì cho rằng họ đã không chịu nộp ông nhiều đồ tặng phẩm. Rồi ông bị dân nổi lên đuổi chạy về Trung Quốc.
Những quan chức Cửu Chân coi thường pháp luật đến nỗi có một lần quân sĩ do Sĩ Nhiếp sai đến để vãn hồi trật tự cũng bị đuổi về. Thế thì vùng này có thể được cai trị như thế nào? Tiết Tống khuyến cáo rằng những người được tuyển lựa ra làm quan phải:
Khôn ngoan và cẩn trọng; có khả năng nghĩ ra những phương pháp khéo léo để duy trì lòng trung thành của dân chúng. Chỉ như thế nền hành chánh mới có thể thực thi được. Những người tầm thường được dùng để cai trị theo đường lối bình thường không được tinh tế hay không có những biện pháp đặc biệt ra ngoài khuôn phép, sẽ có ngày càng nhiều cướp bóc và loạn lạc.
Như thế, rõ ràng là người Việt Nam vượt ra ngoài khuôn khổ cai trị thông thường. Những quan chức Trung Quốc ở Việt Nam không thể thành công chỉ qua cách áp dụng luật pháp. Cai trị người Việt Nam đòi hỏi tài nghệ đặc biệt.
Theo những điều Tiết Tống nói thì chúng ta phải nên nghi ngờ là vẫn có cái khuynh hướng nói quá đáng về ảnh hưởng của văn hoá Hán đối với người Việt Nam và của vai trò được cho là của Sĩ Nhiếp để củng cố ảnh hưởng ấy.
Sĩ Nhiếp là một thủ lãnh khôn ngoan, hiểu thấu thời và vị trí của mình. Ông là người được hưởng lợi ở những trào lưu chính trị có thế lực xuất phát từ xã hội bản xứ. Ông lãnh đạo lớp người lai Hán-Việt đã ăn sâu gốc rễ trong xã hội địa phương sau nhiều thế hệ có hôn nhân qua lại giữa hai  bên. Lớp người đã giác ngộ rõ hơn về quyền lực chính trị khi chính quyền Hán bắt đầu bị nao núng. Cái thời đại lâu dài đầy những rối loạn, bất ổn tiêu biểu phần lớn thế kỷ 2 được kết thúc với sự thăng thiên của  Sĩ Nhiếp.
Thật ra, cũng không chắc nhân cách của một người lại có thể là nguyên nhân của nhiều thay đổi như thế. Sự thăng tiến của Sĩ Nhiếp trùng hợp với chuyện hạ màn của chính quyền Hán ở miền Nam. Các biến cố xảy ra sau khi ông mất cho ta thấy rằng gia đình ông khác hẳn với giới cầm quyền ở địa phương. Gia đình ông đứng ra như là đại diện của hoàng triều và là người trung gian giữa các thế lực ở địa phương với chế độ chính trị ở miền Bắc. Việc ông được triều đình gia phong quan tước đem lại tính cách chính thống cho lớp người cai trị ở địa phương bằng những giây ràng buộc họ chặt chẽ vào xã hội địa phương. Có thể nói rằng lớp người ấy rút kinh nghiệm ở truyền thống quyền hành mà họ được hưởng của các Lạc hầu cũng như của các quan chức Hán, vì cả hai đều là tổ tiên của họ.
Lăng Sĩ Nhiếp, Thuận Thành, Bình Ninh (Bắc Việt)
Gia đình Sĩ Nhiếp và những gia đình khác vẫn giữ đặc tính Hán rất mạnh. Hầu hết những người trẻ tuổi trong gia đình họ Sĩ đều được học hành ở miền Bắc. Tiểu sử của Sĩ Nhiếp nói đến “hàng chục thê thiếp”; và nhiều, nếu không phải là hầu hết những người này là đàn bà địa phương, mà ảnh hưởng của họ ít nhiều cũng được nhận thấy trong nội bộ gia đình. Đàng sau gia đình Sĩ, những người Hán-Việt lai cũng tiêu biểu cho một nét văn hoá bị chi phối bởi sự thăng trầm của các cuộc hôn nhân hai dòng. Điều tất nhiên là trong khi các dân lai Hán-Việt, vì hãnh diện và muốn có uy tín, hoặc là vì sở thích riêng, khao khát được thích ứng hoàn toàn với văn minh Hán mặc dầu tổ tiên họ đã bị pha trộn, lại có những người, vì có ác cảm với những sự khoa trương của văn minh Hán, hoặc cũng vì sở thích riêng lại hăng hái giữ chặt lấy lối sống địa phương.
Về sau, Sĩ Nhiếp được giữ một địa vị danh dự trong hàng ngũ anh hùng của dân tộc Việt Nam. Sự thành công của ông không được thấy nhiều qua những điều ông làm, mà qua những điều ông không làm. Ông không đi ngược lại nhân sinh quan của người bản xứ. Ông không thi hành những đường lối cai trị nào có tính cách ngoại lai đối với họ; ông không bòn rút, vơ vét của cải của họ bỏ vào túi riêng. Ông đã để cho lối sống địa phương được phát triển nảy nở.
Một sắc thái của văn hóa Việt Nam đã nảy nở trong thời kỳ Sĩ Nhiếp cai trị là Phật Giáo. Như chúng ta đã thấy, sử chép rằng những người theo Sĩ Nhiếp gồm có nhiều người Hồ. Hồ là tên người Trung Quốc đặt cho những nhóm dân tộc khác nhau, kể cả những người từ Ấn Độ hay từ Trung Á Châu đến. Thật vậy, có một số đông người Ấn Độ và người Trung Á sống ở Giao Châu vì lý do thương mại hay tôn giáo. Vào lúc đó, vương quốc Kushana ở Bắc Ấn Độ phát động thương mại và truyền bá Phật Giáo ra khắp các phần đất ở Á Châu và Giao Châu tiếp thu được rất bén nhạy qua các tiếp xúc với phía Tây.
Tượng Phật Borobodur ở Java, Nam Dương.
Phật giáo đến Việt Nam vào thế kỷ 2 thuộc thời đại Sĩ Nhiếp qua những giao thông thương mại từ Đông Nam Ấn Độ và những quốc gia ở vùng biển Nam Hải  
Một người Hồi ở Giao Chỉ là Khương Tăng Hối có tiểu sử được người Trung Quốc ghi lại. Gia đình Khương Tăng Hối nguồn gốc ở xứ Sogdiana vùng Trung Á, nhưng đã có nhiều thế hệ gia đình lập nghiệp ở Ấn Độ. Cha của Tăng Hối định cư ở Giao Chỉ và chết ở đó. Sau khi cha chết, Tăng Hối đi tu, thành 1 chú tiểu năm lên 10 tuổi. Ông đọc sách Nho và học đạo Phật; ông dịch nhiều kinh điển Phật Giáo từ chữ Phạn sang chữ Nho. Về sau, lúc có tuổi, ông du hành lên miền Bắc, sáng lập ra nhiều thiền viện và xây dựng chùa chiền. Năm 24, ông đứng làm lễ quy y Tôn Quyền theo đạo Phật và do đó, truyền bá Phật Giáo vào triều đình Ngô. Ông mất năm 180. Tiểu sử của ông viết ông là vị tăng lữ đầu tiên đến Đông Ngô.
Thời đó, Giao Chỉ là trung tâm để truyền bá Phật Giáo vào Trung Quốc. Một tăng lữ người Indo-Scythian là Cường Lương Lâu đã dịch kinh Phật ra tiếng Giao Chỉ vào thế kỷ thứ 3. Cũng vào khoảng thời gian ấy một người Ấn khác là Kì Vực đi thuyền lên Phù Nam rồi theo đường bộ đi dọc bờ biển, làm những phép lạ khiến dân địa phương rất quan tâm đến Phật Giáo. Ông tới Lạc Dương vào gần cuối thế kỷ. Sử liệu Trung Quốc chép rằng những vị này là những người duy nhất đáng tôn kính trong số các tăng lữ Ấn Độ hay Trung Á; khoảng vài chục người đã được Sĩ Nhiếp giữ lại ở Giao Chỉ làm môn khách.
Những tháp mộ cổ của các thượng tọa Phật giáo, trong phạm vi chùa Phật Tích, Bắc Ninh, nơi được gọi là “cái nôi của Phật giáo Việt Nam”
Tượng sư tử cá trên bục đá ở chúa Phật Tích, Bắc Ninh
Đồng thời với những tăng lữ từ miền Nam đến, cũng có những người khác cùng đạo đã đến từ miền Bắc. Bài tựa cuốn “Mậu Tứ”, một cuốn sách luận về Phật Giáo, đã mô tả tình hình ở Việt Nam dưới thời Sĩ Nhiếp. Bài này nói đến Mậu Bác, người sinh vào khoảng giữa 165-170 ở Thương Ngô. Mậu Bác đã sống ở Giao Chỉ lúc còn trẻ, và trở về Thương Ngô khoảng năm 190. Ông hấp thụ được một nền học vấn về Lão Giáo, nhưng cuối cùng ông lại quay sang đạo Phật. Bài tựa có những chi tiết quý báu nói về cái không khí văn hoá thời đó như sau:
Vào thời đó, sau cái chết của Hoàng đế Linh (189), đất nước rơi vào cảnh hỗn loạn. Chỉ có Giao Chỉ là được tương đối yên ổn. Có những người khác thuờng ở miền Bắc đến đó sinh sống. Nhiều người quan tâm đến việc thờ cúng các thần linh, tịch cốc và tu đạo trường sinh bất tử. Nhiều người tận tâm học hỏi những môn đồ. Mậu Bác không ngừng chống đối những hành động ấy, và viện những sách Tứ Thư, Ngũ Kinh của Trung Quốc ra; và không một đệ tử Lão Giáo hay đạo thờ thần linh nào dám tranh luận với ông.
Phật Giáo Việt Nam bắt nguồn từ giữa thời kỳ đó. Việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam đi đôi với việc xây dựng bốn ngôi chùa ở chung quanh vùng Luy Lâu trong thời gian Sĩ Nhiếp cai trị. Những chùa này là chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện thờ các vị Phật về mây, mưa, sấm, sét và điện chớp. Huyền thuyết về những ngôi chùa này như sau:Vào thời ông Sĩ Nhiếp, một tăng lữ là Từ Đinh ở Phù Nam, hạ lưu sông Mekong đến ngụ ở một ngôi làng gần Luy Lâu, và tu phép khổ hạnh. Ông là một nguời giản dị, không nghĩ gì đến tiền bạc, tài sản. Ông lấy tên là Man, nghĩa là man di, và có một người con gái, đặt tên là Man Nương, có nghĩa là “tiểu thơ man di.”
Cuối đời hoàng đế Linh (168-89), một người đạo Bà la môn từ miền Tây Ấn Độ, tên là Khâu Đà La từ phía Nam đến. Ông cũng trổ tài những phép lạ và truyền bá đạo Phật. Từ Đinh tôn thờ ông như một vị Phật sống và giữ ông ở lại với mình như một vị khách. Con gái của Từ Đinh là Man Nương trở thành đệ tử của Khâu Đà La, theo ông học đạo Phật và pháp thuật làm mưa, làm gió. Về sau, danh tiếng của Man Nương đến tai Sĩ Nhiếp sau khi bà trổ tài chấm dứt được một nạn hạn hán bằng phép thuật thần thông của bà.
Lại có một lần, một trận bão đánh bật gốc cây bàng to lớn và thổi bay cây ấy đến trước dinh Sĩ Nhiếp. Ba trăm người lực lưỡng không khiêng nổi cây ấy đi chỗ khác. Đến khi bà Man Nương nhấc cây ấy lên một cách dễ dàng thì thấy đó là một linh vật. Có bốn bức tượng được thấy trên thân cây tượng trưng các Phật về Mây, Mưa, Sấm Sét và Điện Chớp. Thế là những ngôi chùa được dựng lên để thờ bốn vị Phật đó. Về sau, Sĩ Nhiếp lại cho dựng một ngôi chùa gọi là Phúc Nhân để bà Man Nương về đó tu, gọi là “Chùa Hang Thần.”
Từ truyền thuyết đó, rõ ràng Phật Giáo được lan tràn trong dân gian, một phần như cách chế ngự những thay đổi bất thường của thiên nhiên trong bối cảnh nông nghiệp. Bằng cách lập những ngôi chùa này, thờ những biểu thị của thời tiết và đặt tên theo các đấng hiện thân của hật, người Việt Nam củng cố truyền thống văn hóa sẵn có của họ với chính thể của những tư tưởng mới. Sự tích bà Man Nương hơn nữa chứng tỏ vai trò quan trọng của phụ nữ trong văn hoá và xã hội Việt Nam thời cổ.
Huyền thoại Đầm Nhất Dạ cũng bao hàm ảnh hưởng Phật Giáo khiến một học giả Việt Nam vào thế kỷ 19 viết bài thảo luận về “các tăng lữ Phật Giáo Ấn Độ vào thời các vua Hùng. ” Bất kể bản gốc của huyền thoại này, điều rõ rệt là nó đã giữ nguyên hình thù từ thời đại Sĩ Nhiếp vì những chi tiết Phật Giáo trong huyền thoại đã phản ảnh thời đại này. Theo huyền thoại Đầm Nhất Dạ, công chúa Tiên Dung, các hoàng tử của vua Hùng và chồng của công chúa là Chử Đồng Tử đã tổ chức một ngôi chợ sầm uất có các thương nhân nước ngoài lui tới. Khi đã được giàu có rồi, Chử Đồng Tử có lần đi theo một thương nhân làm một chuyến du hành trong vùng biển Nam và mang theo ít vàng. Họ ngừng lại nghỉ ngơi ở một ngọn núi ở bờ biển. Và trong khi thương nhân đi tìm nước ngọt uống, Chử Đồng Tử trèo lên đỉnh núi.  Ở đó ông thấy túp lều của một tu sĩ Phật Giáo Ấn Độ, tên là Phật Quang. Chủ Đồng Tử quyết định ở lại đó với tu sĩ. Ông đưa vàng cho thương nhân bảo đi mua hàng và lúc về, ghé lại đón ông cùng về.
Trên đỉnh núi, Phật Quang truyền cho Đồng Tử những lời dạy của Phật và ban cho ông một cây gậy biểu tượng vương quyền và một cái nón rơm biểu tượng vương miện. Khi Đồng Tử trở về với công chúa Tiên Dung, ông kể lại cho bà nghe những gì ông đã học được. Về sau, hai ông bà từ giã cuộc đời thương mại và đi du hành đây đó để tìm sư phụ học đạo. Có một lần, hai ông bà về nhà quá muộn và phải ngủ qua đêm ở ngoài bờ ruộng dưới cái bóng của cây gậy dựng lên, trên chụp cái nón rơm. Sáng hôm sau, khi thức dậy, cây gậy và chiếc nón đã biến thành một toà lâu đài nguy nga trang hoàng đầy những đồ châu báu.
Mối liên hệ giữa các thương nhân đi biển với sự truyền bá đạo Phật mô tả tình hình lịch sử thời Sĩ Nhiếp. Điều đặc biệt lý thú là câu chuyện về quyền phép, pháp thuật của Phật được biểu hiện qua sự xuất hiện của tòa lâu đài do phép lạ từ cây gậy và cái nón, như muốn nói rằng sự thành tâm thờ Phật được gắn liền với sự giàu có về thương mại. Phật Giáo mang ý nghĩa rất mạnh trong giang sơn của Sĩ Nhiếp. Ông bảo trợ các tăng lữ Phật giáo; do đó ông chính thống hóa quyền hành của ông trong con mắt tất cả những tín đồ Phật giáo mới mẻ. Việc lập chùa để thờ các vị Phật bảo trợ cho nông nghiệp được sung túc cho thấy Phật Giáo đã xâm nhập một cách có ý nghĩa vào giới nông dân. Như vậy, trong con mắt của dân, quyền hành của Sĩ Nhiếp được tăng mạnh thêm bởi ông có vị trí như một nhà cai trị tôn thờ Phật Giáo.
Đây là thời kỳ mà Việt Nam xét lại hướng văn hóa của mình. Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo, tất cả đều phát triển qua những mức độ khác nhau. Phật Giáo đặc biệt thu hút những thường dân qua sự hội nhập ôn hòa của tôn giáo này vào việc thờ phụng thần linh bản xứ của họ, sự thờ thần cây cối hay những thần quyền khác. Lớp người cầm quyền phần nhiều theo Khổng Giáo vì học vấn, giáo dục của họ. Lão Giáo đứng giữa Phật Giáo và Khổng Giáo. Nhiều người, ngoài công khai theo Khổng Giáo, nhưng ở chỗ riêng tư theo Lão giáo. Và nhiều người theo Lão giáo thấy Phật giáo chỉ cách Lão giáo một bước ngắn.
Vào gần cuối triều Hán, Lão giáo có khuynh hướng chính trị hóa và nhiều khi có ý hướng chống đối chế độ đượng thời. Khuynh hướng này vẫn tồn tại ở Hoa Trung trong nhiều thế kỷ sau. Nhưng truyền thống Lão giáo ở miền Nam, tuy nhiên chú tâm vào việc tu đạo trường sinh bất tử thay vì về các vấn đề chính trị. Thuốc trường sinh mà những đệ tử Lão giáo pha chế thì sẵn có ở miền Nam, và có nhiều đỉnh núi cao có tiếng là nơi những đệ tử Lão giáo bất tử đã từ gĩa cõi trần bay vào tiên giới. Những tín ngưỡng địa phương đặt vào các thần linh, thần quyền đã thay đổi được rất nhiều ảnh hưởng của cả Lão giáo lẫn Phật giáo.
Tượng Phật trong Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, phố Tràng Tiền, Hà nội.
Tuy Việt Nam có sự gắn bó chính trị với Trung Quốc, những luồng văn hóa quan trọng tiếp tục được đón tiếp từ các miền Nam Hải. Vào thời nhà Đường, ảnh hưởng trước nhất của Phật giáo đến từ miền Đông Nam Ấn Độ bằng đường biển thay vì đường bộ từ Bắc Ấn. Những bức tượng Phật thời nhà Đường đào được ở Quảng Tây cho thấy những nét giống như tượng Borobodur ở Java và khác nhiều với những tượng kiểu Gandharan ở Tây Bắc Trung Quốc. Thời kỳ thịnh vượng ở Giao Chỉ dưới thời Sĩ Nhiếp cũng trùng thời văn minh Ấn Độ phát triển đầu tiên ở Đông Nam Á và do đó, Giao Chỉ được hưởng lợi rất nhiều từ sự phát triển này.
DI SẢN THỜI KỲ HÁN-VIỆT 
Vào đầu thế kỷ thứ 3, giới cầm quyền địa phương ở Việt Nam đã phát xuất từ những đại gia đình Hán-Việt. Theo một tài liệu của Việt Nam, tổ tiên của Lý Bí–vị lãnh đạo tranh đấu cho nền độc lập của Việt Nam ở thế kỷ 6–đã di cư đến Việt Nam từ Trung Quốc dưới thời Vương Mãng, và sau 7 thế hệ đã trở thành “người miền Nam.” Vì Sĩ Nhiếp thuộc thế hệ thứ 6 từ tổ tiên đã di cư đến nuớc Việt cũng vào thời Vương Mãng, chúng ta có thể kết luận rằng chính trong thời đại Sĩ Nhiếp, gia đình họ Lý đã nhận thức được bản sắc mình là thuộc giống dòng Việt Nam.
Kinh nghiệm của gia đình họ Lý có lẽ không phải là kinh nghiệm duy nhất, mà chỉ phản ảnh một phần sự chuyển hướng tập thể của lớp cầm quyền địa phương từ trạng thái lệ thuộc vào các triều vua ở Bắc Trung Quốc đến sự chấp nhận một xã hội và một văn hoá địa phương biết tự thực kỳ lực. Sự sụp đổ của nhà Hán, và sự phân chia Trung Quốc sau đó ra thành 3 nước, tức là thời “Tam Quốc,” chắc chắn đã khuyến khích các gia đình Hán-Việt gia tăng những mối liên hệ của mình với xã hội địa phương và xác định quyền lợi của họ toàn diện hơn với quyền lực chính trị ở đó. Đấy là điều có lẽ đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Sĩ Nhiếp. Một yếu tố quan trọng của sự chuyển hướng này là ảnh hưởng phổ quát của Phật Giáo như một lựa chọn thay cho văn minh Hán.
Vào cuối thế kỷ 3, nhiều chùa chiền Phật giáo đã được dựng lên ở Luy Lâu, đồng thời thành phần tu sĩ địa phương được gia tăng hơn 500 người. Mặc dầu đây là tài liệu duy nhất về Phật giáo Việt Nam kiếm được ở khoảng thời gian từ thời kỳ Sĩ Nhiếp đến thế kỷ 6, chúng ta vẫn có thể kết luận rằng việc dân chúng quy y theo Phật giáo được bành trướng mạnh trong thời gian đó. Các vị sư sãi chắc chắn thuộc thành phần các gia đình cầm quyền ở địa phương. Các thiền viện và chùa chiền là những trường học hay những trung tâm văn hoá, đồng thời là những nơi có tầm quan trọng về mặt kinh tế và chính trị. Các triều vua Hán vẫn tìm cách giám sát các thiền viện ấy, nhưng những nỗ lực này rất ít ỏi và tương đối ngắn ngủi. Có những nhà sư vẫn quan tâm đến các vấn đề chính trị. Sự tiếp xúc của các nhà sư Việt Nam với các cơ cấu Phật giáo ở miền Bắc nhất định là nguồn tin tức quan trọng cho các lãnh tụ địa phương khi họ muốn thách thức quyền hành của Trung Quốc.
Trong suốt 3 thế kỷ sau cái chết của Sĩ Nhiếp vào năm 226, những gia đình thuộc lớp cầm quyền ở Việt Nam liên tiếp chống lại quyền hành của các triều vua Trung Quốc. Những biến cố xảy ra vào thời kỳ này cho thấy hình ảnh của một lớp cầm quyền địa phương được ổn định, có thể tự mình đảm đương trách nhiệm hành chánh; quyền hành của các triều vua Trung Quốc đã trở nên suy yếu, khuyến khích sự quấy nhiễu của Lâm Ấp ở biên thùy phía Nam cũng như sự kháng cự mãnh liệt và công khai từ dân Việt. Những thời kỳ thái bình và thịnh vượng của Việt Nam là những thời kỳ mà các triều đại Trung Quốc bị suy yếu hay đang trải qua những biến chuyển. Những thời mà triều đại mới lên cầm quyền của Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam là những thời cơ có chiến tranh hay bạo loạn.
Những lãnh đạo mới của Việt Nam trong thời kỳ này đều có tổ tiên lai Hán-Việt. Ở một khía cạnh nào đó, họ tự cho mình thuộc thành phần của một vương quốc to lớn hơn; nhưng sẽ là một điều lầm lẫn lớn nếu chúng ta gọi họ là “người Việt gốc Trung Quốc”: hầu hết những gia đình này đã từng ở Việt Nam qua nhiều thế hệ và chắc chắn là họ nói tiếng Việt. Đồng thời, quan điểm chính trị của họ cũng được căn cứ trên những quyền lợi địa phương của xã hội Việt Nam.
Trong thời kỳ này, khi nói đến chính quyền địa phương ở Việt Nam, bất kể những lúc mà sự kiểm soát của triều đình Trung Quốc còn tương đối mạnh, hay vào lúc mà Việt Nam tự chủ hay có độc lập, chúng ta chú trọng đến hệ thống cai trị bởi những gia đình có nhiều ruộng đất và có thế lực. Các hồ sơ hành chánh từ thời đó cho thấy rằng số dân đăng ký kiểm tra ở Việt Nam giảm xuống hơi quá 25.000 hộ dân vào thế kỷ 4, và số dân ấy lại sụt xuống tới khoảng 10.000 hộ vào thế kỷ 5. Như vậy có nghĩa là những người nông dân đóng thuế, vì bị mất đất vào tay những đại địa chủ, đã bị gạt tên khỏi sổ thuế.
Như chúng ta sẽ thấy dưới đây, những gia đình có tiếng tăm ở Việt Nam tham gia vào chính quyền địa phương, và vào thời các vị vua Trung Quốc bị suy yếu, họ tự chọn lấy thủ lãnh cho mình. Triều vua nào khắc nghiệt, tàn bạo hay không khả năng thường hay phân cực lớp lãnh đạo này; chia thành những gia đình chống đối quan chức triều đình và những gia đình nghênh đón họ.
Giới cầm quyền địa phương phát hiện trong thời đại Hán-Việt trải qua nhiều biến đổi trong thời đại gọi là Lục Triều trụ trì ở Nam Kinh từ thế kỷ 3 đến thế kỷ 6. Những biến đổi ấy thoáng nhìn thì có vẻ như chuyện thường được tái diễn, nhưng chúng biểu lộ những manh mối về quá trình tiến hoá của xã hội Việt Nam dẫn đến tự chủ và độc lập.
NHÀ NGÔ
Năm 210, khi Tôn Quyền của nhà Ngô đưa Bộ Chất xuống miền Nam để nhận sự chào mừng tôn vinh của gia đình Sĩ Nhiếp, kinh đô của Giao Châu được dời từ Thương Ngô đến Nam Hải (Quảng Châu). Bộ Chất đóng ở Nam Hải, và sau khi nhà Ngô thành lập năm 221, ông đem một đạo quân 10.000 người từ Giao Châu lên Bắc để chống cự với Lưu Bị, người sáng lập nhà Thục ở Tứ Xuyên, lúc đó đang tiến xuống lưu vực sông Dương Tử. Sau khi đánh bại được Lưu Bị, Bộ Chất ở lại Hồ Nam để diệt trừ giặc cướp và trấn an dân chúng. Lã Đại được phái xuống thay cho Bộ Chất ở Nam Hải.
Sử chép Lã Đại là một người chính trực rất quan tâm đến công vụ và ông đi đến đâu là tiếng tăm của ông còn mãi ở đấy. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông biểu hiện tâm địa nhỏ nhen khi ông mưu mô để tiêu diệt gia đình Sĩ Nhiếp.
Sĩ Nhiếp chết năm 226, thọ 90 tuổi. Triều đình Ngô lập tức phong cho con ông là Sĩ Huy làm Viễn An Tướng Quân, một chức mà nhà Hán đã phong cho Sĩ Nhiếp. Thế rồi trong mưu toan bẻ gãy quyền lực của họ Sĩ, Sĩ Huy bị đổi xuống làm Thái Thú Cửu Chân, trong khi một người tên là Trần Thời lại được chuyển từ Nam Kinh xuống làm Thái Thú Giao Chỉ. Lã Đại khuyến cáo rằng vì lý do đường xá xa xôi giữa Nam Hải và Giao Chỉ nên Giao Châu phải được phân chia ra như sau : 4 quận phía Bắc được tách ra để làm Quảng Châu. Sau đó, Lã Đại được phong Thứ Sử Quảng Châu và một người là Đại Lương được phong Thứ Sử Giao Châu. Trần Thời và Đại Lương lên đường đi Giao Chỉ, nhưng khi đến biên giới, biên giới bị đóng không qua được. Hai ông bắt buộc phải lưu lại ở Hợp Phố.
Sĩ Huy quyết định rằng thời cơ và thì giờ đã đến để ông dứt ra khỏi bàn tay nhà Ngô. Giang sơn nhà Hán đã bị chia thành “Tam Quốc,”  chẳng có lý do gì để ngờ vực rằng một nước thứ tư không thể được thành lập; nhất là trong trường hợp họ Sĩ rất được lòng dân; giàu có; tài giỏi; và về địa dư lại ở chỗ xa xôi hẻo lánh.
Tuy nhiên Sĩ Huy gặp phải sự chống đối mạnh mẽ của địa phương, cho rằng mưu tính của ông chắc chắn sẽ đưa đến một cuộc xâm lăng và rồi dân chúng sẽ bị đau khổ vì chiến tranh. Hoàn Lan, một quan chức có tiếng dưới trướng Sĩ Nhiếp, khuyên nên từ bỏ những tham vọng ấy đi và hãy nghênh đón Đại Lương đồng thời chấp nhận quyền hành của ông ta. Sĩ Huy nổi giận, ra hình phạt là cho binh sĩ quất roi đánh Hoàn Lan cho đến chết. Phản ứng tàn bạo của Sĩ Huy chứng tỏ đa số đồng ý với quan điểm của Hoàn Lan và Sĩ Huy muốn trừng trị Hoàn Lan để làm gương cho kẻ khác.
Con trai của Hoàn Lan và người anh của ông là Hoàn Trí phản ứng lại bằng cách đem quân bản hộ của gia đình ra đánh Sĩ Huy. Sĩ Huy hạ lệnh đóng cửa thành và cố thủ ở bên trong. Hoàn Trí tấn công suốt mấy tháng trời mà không hạ nổi thành; cuối cùng phải xin hoà với Sĩ Huy và rút quân về. Gia đình họ Hoàn đại diện cho các quyền lợi địa phương và là những người nhìn thấy nguy hiểm nếu ủng hộ các tham vọng của họ Sĩ. Điều này cho thấy là số gia đình địa phương muốn duy trì khái niệm yên bình ở địa phương thay vì ủng hộ những tham vọng chính trị của bất cứ cá nhân hay gia đình nào. Những gia đình này tỏ vẻ tự tin ở khả năng của mình trong việc đương đầu nổi với các tướng Ngô.
Mặc dầu bị dồn vào thế phòng thủ ở bên trong thành, nhưng Sĩ Huy có khả năng cầm cự lâu hơn quân vây thành. Điều này chứng tỏ có một số gia đình địa phương ở trong thành, với quân tướng riêng của họ, có thể đã tán thành việc Sĩ Huy mưu tìm độc lập. Sự thử thách ý chí của đôi bên họ Sĩ lẫn họ Hoàn ở thế giằng co và ngay sau đó bị chế ngự bởi chuyện quân Ngô kéo đến.
Lã Đại xin được lệnh tung ra một cuộc viễn chinh để trừng phạt Sĩ Huy. Ông xuống thuyền đi theo đường biển từ Nam Hải, đem theo 3.000 quân sĩ. Ông ước hẹn hội quân với Trần Thời và Đại Lương ở Hợp Phố. Một trong các cố vấn của Lã Đại cảnh cáo rằng Sĩ Huy có thể dựa vào uy tín của gia đình ông ta đã được rèn đúc từ bao thế hệ nay. Toàn thể Giao Châu theo ông ta. Vậy sẽ không phải là chuyện đùa với ông ta đâu.
Lã Đại trả lời: Sĩ Huy sẽ không dự định được chuyện ta mang quân đến. Nếu ta giấu kín được quân sĩ và kéo quân đi bí mật rồi đánh úp một trận, ta chắc sẽ toàn thắng. Nếu như ta chùng chình, tiến quân chậm chạp khiến cho y biết mà đề phòng với lũy cao hào sâu, rồi cả trăm bộ lạc man di ở 7 quận sẽ hưởng ứng theo y; lúc ấy cho đến người tài giỏi nhất cũng không làm gì y được.
Lã Đại nhận thức rằng chỉ có đánh úp, bất ngờ mới có thể thắng nổi Sĩ Huy. Và để làm như thế, ông tìm cách tiếp xúc và lôi kéo được sự cộng tác của vài phần tử trong gia đình Sĩ Huy muốn công nhận bá quyền của Ngô. Bởi gia đình họ Sĩ từ xưa vẫn thấm nhuần một nền giáo dục là trung với vua, nên không phải là tất cả đều một lòng chống lại nhà Ngô.
Một người con của Sĩ Nghi tên là Quang lại có mặt ở Hợp Phố. Sĩ Nghi và Lã Đại lại là bạn cũ từ ngày còn học ở trường, nên Lã Đại cho Quang làm phụ tá và sai đến tìm Sĩ Huy là chú y, hứa sẽ bảo đảm cho Sĩ Huy được toàn vẹn nếu y chịu đầu hàng. Sĩ Huy hết sức bất ngờ khi nghe tin Lã Đại đến nơi. Vì không kịp chuẩn bị và tin ở lời hứa của Lã Đại, nên Huy đem các anh em và các con, tất cả sáu nguời, mở cửa thành đón tiếp Lã Đại, vai áo để trần tỏ dấu hiệu quy thuận. Lã Đại tha thứ cho tất cả và bảo tất cả kéo vai áo lên rồi cho ra ở ngoài thành Luy Lâu. Sáng hôm sau, Lã Đại cho dựng 1 cái lều, rồi gọi người đến. Trước một cử tọa gồm những quan chức và tướng sĩ, Lã Đại đọc một bản cáo trạng buộc Sĩ Huy tội phản nghịch rồi hạ lệnh chém đầu hết.
Mặc dầu sáu cái đầu được đưa về tận kinh đô Ngô để trần tấu mọi việc đã làm tăng thêm tiếng tăm của Lã Đại, nhưng hành động lừa dối của ông đã gây nên sự phẫn nộ và chống đối mãnh liệt ở Giao Chỉ. Hoàn Trí bèn lôi kéo được một trong các bộ tướng của Sĩ Huy là Cẩm Lệ, rồi lãnh đạo các phần tử và dân chúng Giao Chỉ chống Lã Đại. Bởi vì trong mắt họ, Lã Đại là một người phản bội và tàn nhẫn. Nhưng Lã Đại là một tướng dũng mãnh nên đã đánh bại được địch thủ, Sau khi bình định đuợc Giao Chỉ, ông lại kéo luôn quân xuống Cửu Chân và ở đấy. Ông giết và bắt sống được tất cả 10.000 người. Những người thuộc gia đình Sĩ Huy còn sống sót về sau cũng bị bắt và bị xử tử hết.
Lã Đại ở lại Giao Chỉ trong 5 năm. Dưới quyền ông, 2 châu Quảng và Giao lại hợp thành 1 như cũ. Một trong hành động khác của ông là sai các sứ giả băng qua biên giới cai trị để bố cáo cho những vương quốc láng giềng biết về quyền lực của nhà Ngô. Để đáp lại, vua các nước Lâm Ấp và Phù Nam (ở hạ lưu sông Mekong) và Dương Minh (ở Bắc Cam Pu Chia ngày nay) đều gởi sứ bộ và đồ tiến cống đến. Một động lực quan trọng khác trong việc Lã Đại chinh phục Giao Chỉ là ý muốn kiểm soát được những ngôi chợ thương mại quốc tế lập ở đó. Ví dụ như vào năm 226, một sứ giả của La mã đã tới Giao Chỉ và được đưa ngay đến triều đình Ngô. Những lợi tức thương mại mà trước kia chạy cả vào túi gia đình Sĩ Nhiếp, nay được đưa thẳng về kinh đô Ngô. Năm 229, Ngô lại sai sứ giả đến Phù Nam, nơi tụ họp những thương nhân đến từ Ấn Độ và những nơi xa xôi hơn nữa. Ngô cố vun đắp quan hệ của mình với miền biển Nam Hải để bù lại sự bị cô lập với nội địa trên đường vào trung tâm Á Châu.
Năm 231, Lã Đại được gọi về Bắc để dẹp một đám giặc khác đang làm loạn trong đất Ngô. Việc y theo sát quyền lợi nhà Ngô đã tách xa Ngô ra khỏi Việt Nam và dọn đường cho một cuộc nổi loạn quan trọng. Lã Đại không thành công trong việc bình định vùng biên giới phía Nam nơi vương quốc Lâm Ấp mới phát hiện trong quận Nhật Nam cũ. Mặc dù ông đã tạm thời dẹp yên được Cửu Chân, nhưng quyền hành của Ngô vẫn không được thiết lập ở đấy. Ngay sau khi ông rời khỏi Giao Chỉ, nhà Ngô lại sai một tướng khác là Chu Trì xuống để tiêu diệt và bình định bọn Việt (Yueh) man di ở Cửu Chân.
Kể từ khi có cuộc nổi dậy của Khu Liên từ một thế kỷ trước, quận Cửu Chân vẫn luôn luôn ở trong tình trạng sôi sục. Việc này có liên quan đến nước Lâm Ấp đang ngày một mạnh lên, khởi thủy từ huyện Tường Lâm ở vùng biên giới cũ. Lâm Ấp cứ bành trướng mãi ảnh hưởng của mình lên phía Bắc. Năm 248, Lâm Ấp đột nhập vào phần đất còn lại của Nhật Nam, chiếm thêm một phần lớn của quận này, nhập với lãnh thổ của mình và giao chiến với quân Trung Quốc ở gần biên giới Cửu Chân.
Dân chúng ở Cửu Chân bèn nhân cơ hội này nổi dậy, và Giao Chỉ nối gót theo sau. Nhiều tường lũy có thành bao quanh đã bị hạ. Ngô bèn sai tướng Lục Dận xuống để đối phó với tình hình. Lục Dận dùng chiến thuật vừa đánh vừa đàm để dẹp yên nổi dậy. Bằng một bố cáo tỏ lòng thành thật và ban phát ân huệ, Lục Dận dẹp yên được trên 3.000 gia đình đi theo thủ lãnh nổi dậy là Hoàng Ngô. Sau đó, ông lại điều động binh sĩ xuống miền Nam và cũng dùng chiến thuật đó, ông thu phục được hơn 100 thủ lãnh và trên 50.000 gia đình.
Tranh dân gian vẽ Bà Triệu cưỡi voi ra trận chống lại quân nhà Ngô
Tuy nhiên, một đơn vị nòng cốt của quân nổi dậy vẫn còn ở huyện Cự Phong trong quận Cửu Chân, nơi mà năm 157, Chu Đạt đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy. Nhưng nay một phụ nữ trẻ, gọi là Bà Triệu, đã tập hợp được dân địa phương nổi dậy và lãnh đạo đội binh tiến lên Bắc. Sau nhiều tháng cầm cự, Bà Triệu bị thua trận và bị giết.
Sử Trung Quốc không nói gì đến Bà Triệu; chúng ta được biết về bà do những nguồn sử liệu Việt Nam. Theo nguồn sử liệu này, những biến cố năm 248 đã được hai bên tiếp nhận rất khác biệt. Trung Quốc chỉ ghi lại những thành tích của mình là mua chuộc được một số thủ lãnh loạn quân bằng tiền bạc và những lời hứa. Cuộc chống cự do Bà Triệu lãnh đạo đối với họ đơn giản chỉ là một hành động của man di cứng đầu và tất nhiên là đã bị quét sạch, không liên quan gì đến lịch sử. Nhưng đối với Việt Nam thì cuộc nổi dậy của Bà Triệu được nhớ đến như một biến cố quan trọng nhất của thời kỳ đó. Sự lãnh đạo của Bà kích động sâu xa tri giác của dân chúng. Hình ảnh truyền thống của bà là một lãnh đạo đáng khâm phục và đặc biệt nhưng thực tiễn và gần gũi với thường dân, với cặp vú dài cả thước phải vắt lên hai vai mỗi khi cưỡi voi ra trận. Hình ảnh ấy đã được truyền lại suốt từ thế kỷ này đến thế kỷ khác. Sau khi Bà Triệu mất đi, bà được nhân dân Việt Nam thờ cúng. Chúng ta được biết đến Bà là nhờ sự kiện Bà vẫn được dân Việt Nam tưởng nhớ đến mãi.
Những biến cố năm 248 biểu lộ những khuynh hướng đa diện của lớp người cầm quyền ở địa phương thời ấy. Sự áp bức của nhà Ngô khiến cho tất cả đều chín mùi trong ý tưởng nổi dậy, và sự xâm lược của Lâm Ấp đem đến cơ hội này. Quân Ngô bị đánh đuổi ra khỏi nước; có một số những lãnh đạo loạn quân, nhưng chỉ có tên tuổi của một người được ghi lại: đó là Hoàng Ngô với khoảng trên 3000 gia đình theo ông. Hoàng Ngô là lãnh tụ đầu tiên phản ứng lại với “thuyết phục” của quân Ngô: căn cứ lực lượng của ông rõ rệt là ở xa trên miền Bắc và có lẽ ông rất nhạy cảm trước những lời kêu gọi của triều đình. Còn ở xa dưới phía Nam có độ 100 thủ lãnh với độ trên 50.000 gia đình theo họ.
Sự không nhất trí này là hiệu quả của chế độ khắc nghiệt của Ngô. Việc tiêu diệt gia đình Sĩ Nhiếp năm 226 đã đưa đến sự chống cự của lớp lãnh đạo Hán-Việt cũ cùng với đa số dân chúng nói chung. 10.000 người đã bị giết hay bị bắt. Chế độ tàn nhẫn của Ngô chắc chắn đã phân tán được lớp lãnh đạo các cấp Hán-Việt ở địa phương. Vì thế nên năm 248, đã không có một cuộc nổi dậy nào dưới sự lãnh đạo của riêng một người, mà ngược lại có rất nhiều thủ lãnh địa phương trong số đó có những người đã nhận được hối lộ hay bị hăm doạ.
Sau khi lớp nguời này đã bị vô hiệu hoá thì những lãnh đạo bản xứ có tiếng tăm vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh. Bà Triệu là người phụ nữ cuối cùng lãnh đạo một cuộc nổi dậy được ghi trong lịch sử Việt Nam. Sự thất bại của Bà có thể đã chấm dứt sự nẩy mầm muộn màng của những lý tưởng chính trị được để lại từ thời các vị Lạc hầu, và vun xới bởi bầu không khí nới lỏng dưới thời Sĩ Nhiếp.
Chế độ của nhà Ngô đã làm chấn động lớp cầm quyền địa phương, lớp người đã phát triển dưới thời Hán và được mạnh lên dưới thời Sĩ Nhiếp. Hai lần họ nổi lên chống lại Ngô với sự ủng hộ của dân chúng. Nhưng trong khi cuộc nổi dậy năm 226 bị dẹp tan bằng vũ lực, lớp lãnh đạo Hán-Việt năm 248 lại bị Ngô đánh thất bại vì hối lộ và vì những lời đe dọa. Chỉ có những người ngoan cường nhất, mà nhất định không phải là lớp Hán-Việt, mới cầm cự đến hơi thở cuối cùng.
Trong thế hệ giữa hai cuộc nổi loạn, tầng lớp mới phò Ngô phát hiện trong đám dân Việt, và họ đã cho thấy rõ ảnh hưởng của họ. Chúng ta có thể cho rằng họ thuộc thành phần những người tị nạn ở giai cấp thượng lưu trong cuộc di cư thời Hậu Hán. Lớp dân lai Hán-Việt cũ và tầng lớp mới theo Ngô dường như không thể hoà giải được với nhau. Trong thập niên 260, lớp cầm quyền ở Việt Nam bị phân tán trong một cuộc nội chiến. Cuộc nội chiến này có liên quan đến những biến cố ở Trung Quốc và kết thúc thời đại “Tam Quốc” ở đó.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét