MỘT ÔNG GIÀ ĐỌC TIỂU THUYẾT TÌNH YÊU
LUIS SEPÚLVEDA
(1949~)
Luis Sepúlveda sinh năm 1949 tại Ovalle, Chile. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông học ngành kịch nghệ tại Đại Học Quốc Gia Chile. Năm 1969, ông được học bổng 5 năm để tiếp tục học ngành kịch nghệ tại Đại Học Mátxcơva, nhưng chỉ sau 5 tháng, ông bị đuổi học vì đã kết bạn giao du với một vài người bất đồng chính kiến dưới chế độ Xô-viết, và phải quay về Chile.
Ngày 19.2.2009, ông được trao tặng giải thưởng lớn Premio Primavera de Novela với số tiền 200 ngàn Euro cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos [Bóng tối của quá khứ chúng ta, 2009].
Cuốn Un viejo que leía novelas de amor [Một ông già đọc tiểu thuyết tình yêu, 1989] là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông. Cuốn này đã được xuất bản qua hơn 60 ngôn ngữ.
Ông trở thành một lãnh tụ của sinh viên và làm việc với bộ văn hoá của chính phủ Salvador Allende, phụ trách việc xuất bản những tác phẩm văn học cổ điển với giá rẻ cho quần chúng. Sau vụ đảo chính 1973, chế độ quân phiệt của nhà độc tài Augusto Pinochet đã bắt giam Luis Sepúlveda 2 năm rưỡi, rồi được thả nhờ sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế (chi nhánh Đức), nhưng vẫn bị quản thúc tại gia. Thế nhưng, ông đã trốn thoát và ẩn nấp bí mật gần một năm và thành lập một nhóm kịch phản kháng. Rồi ông bị bắt lần nữa và lãnh án tù chung thân (sau này được giảm còn 28 năm tù) vì tội "phản quốc" và "phiến loạn".
Hội Ân Xá Quốc Tế (chi nhánh Đức) lại can thiệp, và bản án của ông được giảm xuống còn 8 năm lưu đày, và năm 1977 ông rời Chile. Từ đó, ông sống và làm việc ở nhiều nước khác nhau, tiếp tục hoạt động như một nhà vận động chính trị - xã hội, và trở thành một nhà văn nổi tiếng. Ông đã xuất bản gần hai mươi tác phẩm văn chương. Ngoài ra, ông còn hoạt động trong ngành điện ảnh, và đã thực hiện bốn cuốn phim.
_________
MỘT ÔNG GIÀ ĐỌC TIỂU THUYẾT TÌNH YÊU
I
Bầu trời õng nước như bụng một con lừa treo rất thấp lửng lơ đe doạ trên đầu. Gió nồng nhớp nháp thổi qua đám lá cây xơ xác, quay quật những cây chuối còm cõi được trồng làm cảnh trước mặt tiền toà thị chính.
Một vài người dân ở làng El Idilio, cùng một nhóm người lang thang đến từ những vùng lân cận đang chờ trên bờ sông. Họ đợi đến lượt mình để được ngồi lên chiếc ghế chữa răng của bác sĩ nha khoa Rubincondo Loachamín. Ông ta đang thực hiện một biện pháp gây tê kỳ lạ bằng ngôn ngữ.
— Thế này có làm chú mày đau không? — Ông hỏi.
Tay bám chặt vào thành ghế, bệnh nhân trợn mắt ra hiệu, mồ hôi toát ra ròng ròng Có người thử cố kéo bàn tay thô bạo của bác sĩ từ trong mồm mình ra, để có thể trả lời bằng những lời thô tục cho đúng với cảm giác mà họ phải chịu đựng, nhưng họ vấp phải những bắp thịt cứng cứng rắn và giọng nói đầy uy quyền của ông.
— Ngồi yên, đồ chó. Hạ hai cái cẳng trước xuống! Đúng là nó đau, nhưng lỗi của ai, hử? Của thằng này? Không, đó là lỗi của nhà nước. Hãy nhồi điều đó vào đầu, do nhà nước. Đấy là tội lỗi của nhà nước khi chú mày có những cái răng thối và nó làm chú mày đau. Lỗi của nhà nước...
Bệnh nhân bất hạnh chỉ còn biết nhắm mắt lại chịu đựng, hoặc ngọ nguậy cái đầu. Bác sĩ Loachamín căm ghét nhà nước, mọi kiểu nhà nước, tất cả các nhà nước. Là con ngoài giá thú của một người dân di cư gốc Tây-ban-nha, ông thừa kế từ cha mình sự căm ghét sâu sắc đối với tất cả những gì đại diện cho quyền lực. Nhưng lý do chính xác của lòng căm thù đã mất đi theo những năm tháng của tuổi trẻ. Bây giờ những lời nguyền rủa vô chính phủ của ông chỉ còn như một thứ bài giảng đạo đức, khiến ông gần gũi, thân mật với mọi người hơn.
Ông nguyền rủa, chống các chính quyền nối tiếp nhau cũng giống như ông chống những người Mỹ thỉnh thoảng tới đây từ những khu thăm dò dầu mỏ ở Coca. Những kẻ nước ngoài thiếu lịch sự, họ dám chụp ảnh những cái miệng há hốc của bệnh nhân mà không chịu xin phép ông.
Cách đó vài bước chân, ê-kíp của tầu Sucre đang khuân lên boong những buồng chuối xanh và những bao tải cà-phê. Ở đầu bến những két bia, rượu mạnh hiệu Frontera, muối, bình ga chất thành đống. Chúng được chuyển lên bờ ngay từ sáng sớm.
Tàu sẽ nhổ neo ngay khi bác sĩ chữa xong tất cả các hàm răng. Nó sẽ ngược dòng sông Nangaritza, rồi xuôi vào sông Zamora. Sau bốn ngày lênh đênh chậm rãi trên sông, tầu sẽ cập bến cảng sông El Dorado.
Con tầu giống như một cái thùng cũ kỹ nổi trên sông. Nó còn nhúc nhích được là nhờ vào ý chí của người thợ máy chính, sự cố gắng của hai thuỷ thủ lực lượng trong ê-kíp, cũng như sự dẻo dai của chiếc đầu máy diesel cũ kỹ. Tầu sẽ không quay lại đây trước khi mùa mưa kết thúc. Điều mà bầu trời xám xịt mầu tang báo hiệu chúng đang tới gần.
Bác sỹ Rubincondo Loachamín ghé tới đây một năm hai lần, giống như người đưa thư của bưu điện, người hoạ hoằn lắm mới đem đến một bức thư cho dân chúng. Chủ yếu anh ta mang đến những giấy tờ hành chính dành cho ông xã trưởng hay những bức chân dung nghiêm nghị đã bạc mầu vì độ ẩm của vị thống đốc bang đương quyền.
Mỗi chuyến tầu ghé qua, dân chúng chẳng chờ đợi điều gì khác ngoài việc nhận hàng hoá dự trữ: muối, bia, rượu mạnh, bình ga. Mặc dù vậy, sự xuất hiện của bác sĩ cũng được đón chào bằng một sự thở phào nhẹ nhõm, đặc biệt của những người còn sống sót sau đợt sốt rét. Mệt mỏi vì phải khạc nhổ những mẩu vụn còn sót lại của chân răng, họ mong muốn có được một hàm răng sạch sẽ, để có thể thử những bộ răng giả, được bầy trên một cái thảm mầu tím. Tấm thảm gợi cho người ta mầu khăn tím của giám mục toà thánh.
Vừa luôn mồm nguyền rủa chính phủ, bác sĩ vừa nhổ hết những gì còn sót lại của chân răng. Sau đó ông bắt bệnh nhân súc miệng bằng rượu mạnh.
— Để xem nào, chú mày thấy thế nào, với cái hàm này?
— Nó chật quá, nhà em không thể ngậm miệng được.
— Đừng khó tính quá như một lũ con gái õng ẹo, thử cái hàm khác xem!
— Cái này lại lỏng, nhỡ nhà em ho, nó sẽ văng ra.
— Thế thì chú mày cố gắng đừng để bị cúm. Thằng đần, há mồm ra!
Họ ngoan ngoãn nghe theo lời bác sĩ. Sau khi thử vài cái hàm răng giả khác nhau, cuối cùng họ cũng tìm được một cái vừa ý để mặc cả giá, trong khi bác sĩ khử trùng những cái còn lại bằng cách nhúng chúng vào nước sôi pha cờ-lo.
Với người dân ở trên các triền sông Zamora, Yacuambi, và Nangaritza, cái ghế chữa răng của bác sĩ Rubincondo Loachamín có một vị trí đáng kính trọng. Thực ra đó chỉ là một cái ghế cắt tóc cũ, chân và thành ghế tráng men trắng, mà thuyền trưởng và cả ê-kíp phải dùng hết sức lực mới bê được lên bờ. Nó được đặt lên một cái bục hình vuông rộng khoảng một mét, được bác sĩ gọi là phòng khám.
— Trong lúc khám bệnh, có chúa chứng giám, ta là người chỉ huy. Ở đây, phải tuân lệnh ta. Ra khỏi phòng khám, các ngươi muốn gọi ta là gì cũng được: lão nhổ răng, thằng móc mồm, thằng bóp lưỡi,... hay bằng bất cứ danh từ nào xuất hiện trong óc các người. Các người còn có thể mời ta một ly rượu.
Những người đang chờ đến lượt mặt như đưa đám. Còn nhưng người đã nếm mùi cái kìm nhổ răng trông cũng chẳng sáng sủa hơn.
Những kẻ duy nhất còn cười được là những người da đỏ Jivaro. Họ ngồi xổm xung quanh phòng khám quan sát. Jivaro là tên dành cho những thổ dân bị chính bộ tộc của mình, bộ tộc Shuars, từ bỏ. Họ coi người Jivaro là những kẻ thoái hoá, biến chất bởi tập quán của bọn "Apaches", một từ dùng chỉ người da trắng. Người Jivaro mặc những đồ rách rưới của người da trắng thải ra, chấp nhận không phản đối cái tên Jivaro, vốn được những kẻ chinh phục Tây-ban-nha đặt cho. Jivaro có nghĩa là mọi rợ.
Có một khoảng cách lớn khủng khiếp giữa một người Shuars cao thượng và kiêu ngạo, người biết tất cả những bí ẩn của vùng rừng Amazon, và một người Jivaro, như những người đang tụ tập trên bờ sông ở làng El Idilio này. Họ đến đây với hi vọng xin được một chút rượu.
Những người da đỏ cười hở hàm răng được mài nhọn hoắt bằng đá cuội dưới sông.
— Còn những thằng kia, nhìn cái gì? Không lúc này thì lúc khác, chúng mày cũng sẽ nếm mùi, những con khỉ kia.
Bác sĩ đe doạ họ. Sung sướng vì có người bắt chuyện, những người Jivaro trả lời.
— Jivaro răng tốt. Jivaro ăn nhiều thịt khỉ.
Đôi khi một bệnh nhân rú lên làm cho cả chim chóc cũng hoảng sợ. Bác sĩ nới gọng kìm ra bằng cách đập bàn tay vào cán.
— Hãy ngồi yên như một thằng đàn ông. Ta biết là ta làm chú mày đau, nhưng ta đã nói rồi, đấy là lỗi của ai? Đừng có làm vẻ gớm ghiếc. Ngồi yên để chứng tỏ cho mọi người biết, chú mày không bị thọt hai hòn dái lên tới cổ.
— Nhưng bác sĩ đã nhổ cả linh hồn nhà em, cho em xin ngụm nước.
Bác sĩ đã nhổ xong răng của bệnh nhân cuối cùng. Ông trút một tiếng thở dài, gói những hàm răng giả không bán được trong cái thảm tím như mầu khăn của giáo chủ. Trong lúc tẩy trùng các dụng cụ, ông nhìn thấy một con thuyền độc mộc của một người Shuars đi qua.
Người thổ dân đứng chống sào ở phía cuối con thuyền mỏng mảnh. Đến ngang tầm tầu Sucre, anh ta chống nó cập vào thân con tầu. Khuôn mặt nhăn nhó cáu kỉnh của thuyền trưởng hiện ra từ trên mạn tàu. Người Shuars vừa hoa chân múa tay giải thích một điều gì đó vừa không ngớt khạc nhổ.
Bác sĩ lau khô các dụng cụ nha khoa, xếp chúng vào một cái cặp da đen, rồi ông cầm chiếc khay đựng những cái răng đã nhổ hất nó xuống dòng nước. Thuyền trưởng và người thổ dân đi ngang qua ông, rảo bước về phía toà thị chính.
Cái tin mới này không làm cho ông thích thú. Sucre là một con tầu chật chội, đặc biệt trong những chuyến quay về, khi người ta chất đầy tầu chuối xanh và những bao tải cà-phê thô cuối mùa đã thối gần một nửa. Mùa mưa có thể đuổi kịp con tầu, một chuyện có khả năng xẩy ra, do nó đã bị chậm một tuần bởi những hỏng hóc kỹ thuật. Nếu như vậy hàng hoá, hành khách, và cả ê-kíp phải chung nhau một cái mái bạt, không có đủ chỗ để treo võng. Vì thế sự hiện diện của một xác chết càng làm cho chuyến đi mệt mỏi hơn.
Bác sĩ giúp mọi người khuân cái ghế lên tầu, rồi quay xuống bờ sông. Antonio José Bolivar Proano đã đứng chờ sẵn ở đó. Đó là một ông già nhưng thân thể vẫn còn gân guốc, một người hình như chẳng để ý gì về việc mình mang một cái tên nổi tiếng như thế.[2]
— Lão vẫn chưa chết à, Antonio José Bolivar?
Ông già làm bộ ngửi hai bên nách của mình trước khi trả lời:
— Người ta có thể nói là chưa. Lão chưa bốc mùi, còn bác sĩ, hôm nay kiếm có khá không?
— Răng của lão thế nào?
— Lão luôn có trong người. Ông già trả lời, thò tay vào túi lôi ra một cái khăn mùi-xoa bạc mầu. Ông giở nó ra và chỉ cho bác sĩ thấy bộ răng giả.
— Tại sao lão không dùng, lão già say khướt kia?
— Lão lắp ngay bây giờ. Lão không ăn, cũng không nói, vậy lắp vào mồm làm gì cho phí của.
Ông già lắp hàm răng vào mồm, nhai khan vài cái, khạc nhổ vung vãi xung quanh rồi chìa cho bác sĩ một chai rượu mạnh Frontera.
— Cám ơn. Hôm nay tôi cũng kiếm được.
— Rõ rồi. Bác sĩ nhổ 26 cái răng cộng với một đống chân răng sâu, nhưng vẫn không phá được kỷ lục của mình.
— Lão ngồi đếm à?
— Đếm vì tình bạn, để còn mừng cho những thành công của bạn bè. Nhưng trước đây vẫn khá hơn đấy, bác sĩ có thấy vậy không? Lúc đó còn có nhiều người khai hoang trẻ. Bác sĩ còn nhớ gã đến từ Manta. Hắn đòi nhổ cả hàm răng để đánh cược?
Bác sĩ Rubincondo Loachamín nghiêng đầu, sắp xếp lại những kỷ niệm, và cuối cùng tìm thấy hình ảnh một gã thanh niên, ăn mặc theo kiểu dân vùng Manta. Gã mặc một bộ cánh trắng, đi chân đất, nhưng lại đeo một cái cựa giầy nhỏ bằng bạc.
Gã đi đến phòng khám cùng một đám thanh niên khoảng chừng 20 người. Tất cả đều có vẻ đang say. Đấy là những người lang thang đi tìm vàng, không có chỗ ở cố định. Người ta gọi họ là những người hành hương vì họ chẳng quan tâm đến việc kiếm vàng bằng cách nào, đãi vàng trên bờ sông, hay trong túi đồng loại.
Gã để rơi mình vào ghế, nhìn bác sĩ với một vẻ ngây ngô.
— Anh muốn gì?
— Ông nhổ cho tôi tất cả hàm răng, từng cái một, rồi để nó lên đây, trên mặt bàn.
— Há mồm ra.
Gã ngoan ngoãn nghe lời. Bác sĩ thấy dù có nhiều răng bị hỏng, nhưng một bên hàm vẫn còn tốt. Một số cái bị sâu, những cái khác còn nguyên vẹn.
— Anh vẫn còn nhiều răng tốt. Nhưng có đủ tiền để trả không?
Gã mất đi vẻ ngây ngô.
— Chuyện như thế này, bác sĩ. Bọn đi cùng này không tin thằng này dũng cảm. Vì thế thằng này cược với chúng sẽ nhổ hết hàm răng của mình, lần lượt từng cái một, và cam đoan không kêu một tiếng. Bọn tôi đã cược với nhau. Bác sĩ giúp thằng này một tay. Thắng cuộc, bác sĩ và thằng này, mỗi người sẽ được một nửa.
— Đến cái răng thứ hai, mày sẽ đái ra quần và sẽ khóc tu tu gọi mẹ. — Có tiếng một ai đó kêu lên trong đám đông, và cả bọn cười rộ lên.
— Tốt nhất là tiếp tục uống rượu và suy nghĩ đi. Đừng có đùa một cách ngu xuẩn như thế. — Bác sĩ nói.
— Đấy, việc nó là như thế. Nếu bác sĩ không giúp thằng này thắng cược, thì anh bạn nhỏ này của hắn sẽ xin bác sĩ cái đầu.
Mắt gã sáng lấp lánh trong khi tay gã vuốt ve chuôi con dao quắm đeo bên người.
Thế thì bắt buộc phải làm thôi. Gã há mồm, để bác sĩ đếm lại số răng. Ông tuyên bố có tất cả 15 cái. Gã đặt lên trên cái khăn bầy răng giả một dẫy 15 cục vàng, mỗi cục cho một răng. Những kẻ tham gia đặt cược thắng hoặc thua bỏ thêm vàng vào đó. Từ cái răng thứ 5 số lượng vàng tăng đáng kể. Gã để cho nhổ 7 cái răng đầu tiên mà không nhúc nhích một bắp thịt. Yên lặng tới mức người ta có thể nghe thấy được tiếng ruồi bay. Đến cái răng thứ 8, máu ra nhiều ngập cả mồm. Gã không nói được, nhưng giơ tay ra hiệu đòi nghỉ.
Gã khạc nhổ nhiều lần, làm máu đọng thành cục trên bục đất. Gã hớp một ngụm rượu lớn, quằn quại trên ghế vì đau đớn, nhưng không hé một lời. Sau lần khạc nhổ cuối cùng, gã giơ tay ra hiệu cho bác sĩ tiếp tục.
Kết thúc cuộc tàn sát, mồm hoàn toàn không còn cái răng nào, mặt sưng vù tới mang tai, gã người Manta thể hiện một thái độ toại nguyện trong lúc chia phần thắng với bác sĩ.
— Đúng thế, — bác sĩ Loachamín hớp một ngụm rượu — đấy là thời kỳ huy hoàng.
Những giọt rượu cất từ mía làm cháy cổ họng làm bác sĩ nhăn mặt trả lại chai rượu.
— Đừng có nhăn nhó như thế. Cái đồ quỷ này giúp người ta tẩy giun trong ruột. — Antonio José Bolivar nói. Rồi lão dừng lại giữa chừng, không thể tiếp lời.
Hai cái thuyền độc mộc tiến lại gần. Trong một chiếc thuyền, nhô ra một cái đầu tóc vàng bất động.
_________________________
[2]Bolivar là tên người anh hùng Simón Bolívar (1783-1830) của nước Venezuela. Người có công giải phóng Venezuela và nhiều nước ở Nam Mỹ (như Colombia, Peru, Ecuador, Bolivia, Panama) khỏi ách thực dân Tây-ban-nha
II
Ông xã trưởng là nhân viên hành chính duy nhất ở đây. Ông là người đại diện cho quyền lực tối cao của nhà nước đối với cái xó heo hút này, nhưng nó quá xa xôi để có thể làm người ta khiếp sợ. Đó là một nhân vật to béo, người luôn ướt sũng mồ hôi.
Dân chúng đồn rằng ông ta bắt đầu ra mồ hôi từ giây phút đầu tiên đặt chân lên bờ sông, khi ông ta theo tầu Sucre tới. Từ đó ông ta không ngừng lau rồi vắt cái khăn mùi-xoa ướt đẫm mồ hôi của mình. Dân chúng đặt cho ông ta tên lóng là ốc sên trần.
Họ cũng thì thào với nhau, trước khi mắc cạn ở làng El Idilio, ông ta có giữ một chức vụ nào đó trong một thành phố lớn trên cao nguyên nhưng do dính vào một vụ hối lộ, nên bị kỷ luật phải thuyên chuyển đến cái nơi heo hút này.
Ngoài việc lau mồ hôi, nỗi bận bịu lớn của ông ta là quản lý số bia dự trữ của mình. Ngồi trong phòng làm việc, ông ta uống dần từng chai, dè dặt từng ngụm nhỏ. Ông biết rất rõ, khi số bia dự trữ hết, thì thực tế cuộc sống còn trở nên vô vọng hơn nữa.
Đôi khi ông ta được sự may mắn ban cho một nụ cười, đó là lúc nỗi kham khổ tiết kiệm của ông được đền bù bởi một chai whisky mà một người Mỹ nào đó ghé qua để lại. Ông xã trưởng không bao giờ dùng rượu mạnh nội địa như mọi người, với lý do Frontera gây cho ông những cơn ác mộng, bởi ông ta luôn sống trong nỗi lo sợ bị phát điên.
Từ hồi nào không rõ, chả ai còn nhớ chính xác, ông ta sống chung với một người đàn bà da đỏ. Người mà ông ta luôn đánh đập dã man và buộc tội bà ta đã làm mê hoặc mình. Dân chúng đều chờ đến ngày mà bà ta sẽ giết ông. Nhiều người còn đánh cuộc về điều đó.
Kể từ ngày tới nhậm chức cách đây bẩy năm, ông ta đã làm nhiều điều khiến tất cả mọi người thù ghét.
Ông ta áp dụng những cách thu thuế mới với nhiều lý do không thể hiểu nổi. Ông ta có tham vọng bán giấy phép săn bắn trên một địa bàn không thể quản lý. Ông ta muốn bắt dân chúng phải trả tiền thuế sử dụng khi nhặt củi ẩm trong những khu rừng nguyên sinh. Hăng hái quá mức, ông ta đã cho xây một căn nhà gỗ để giam những người say rượu không chịu trả tiền phạt vì tội làm mất trật tự công cộng.
Ngược lại người tiền nhiệm của ông lại được dân chúng yêu quý. Sống và để cho người khác sống được coi là nguyên tắc. Nhờ ông ấy mà ở đây có tầu chở hàng ghé qua, cũng như có dịch vụ bưu điện và chữa răng. Nhưng ông ấy không giữ chức vụ được bao lâu.
Một buổi tối, một trận cãi nhau nổ ra giữa ông ta và những người đi tìm vàng. Hai ngày sau, người ta tìm thấy xác ông ta bị chém vỡ đầu bởi một nhát dao rừng.
Trước khi chính quyền trung ương gửi con người bị đầy ải xuống, hai năm liền tiếp theo làng El Idilio không có đại diện nhà nước để bảo vệ chủ quyền của Ecuador trên vùng rừng nhiệt đới mênh mông này, nơi mà biên giới chỉ là một khái niệm của tư duy.
Cứ thứ hai hàng tuần ông xã trưởng — như bị ám ảnh bởi ngày thứ hai — cho kéo cờ trên bờ sông, cho đến ngày một cơn lốc đã cuốn lá cờ rách tả tơi ấy vào rừng sâu, mang đi mất phương tiện thông báo thời gian duy nhất của dân chúng. Điều mà mọi người, không một ai quan tâm.
Xã trưởng ra đến bờ sông.Vừa thấm mồ hôi trên mặt, trên cổ, để rồi ngay sau đó vắt cái khăn sũng mồ hôi, ông ra lệnh kéo cái xác lên bờ. Đó là xác một người đàn ông trẻ, tuổi không quá 40, tóc vàng, thân thể lực lưỡng.
— Chúng mày tìm thấy nó ở đâu?
Những người thổ dân Shuars nhìn nhau, không hiểu họ có phải trả lời không.
— Những thằng mọi này không hiểu tiếng Tây-ban-nha à? — Ông xã trưởng cao giọng.
Một người thổ dân quyết định trả lời.
— Trên đầu sông, cách đây hai ngày đường.
— Chỉ cho tao vết thương.
Người thổ dân thứ hai nghiêng cái đầu xác chết lên. Côn trùng đã ăn nát mắt phải, nhưng mắt trái vẫn còn ánh lên mầu xanh của đồng tử. Một vết thương chạy dài từ cằm tới vai trái, ở phía trong lòi ra những đường gân và mạch máu cùng những con dòi trắng nhởn lổm nhổm.
— Chính chúng mày đã giết nó.
Những người Shuars lùi lại.
— Không đúng, Shuars không giết.
— Đừng nói dối. Chính chúng mày đã giết nó bằng một nhát dao rừng. Rõ ràng như vậy.
Lão béo ròng ròng mồ hôi rút khẩu súng lục chĩa vào đám thổ dân đang ngớ ra vì kinh ngạc.
— Không đúng, Shuars không giết.
Người thổ dân cả gan nhắc lại lần nữa, nhưng một cái báng súng giáng xuống đã làm anh ta ngừng lời. Một dòng máu mỏng manh như sợi chỉ từ từ chẩy xuống trán anh ta.
— Đừng coi tao là đồ ngốc. Chính chúng mày đã giết nó. Đi theo tao, chúng mày sẽ có thời gian để giải thích ở nhà thị chính. Nhanh lên, lũ mọi rợ. Còn ông, thuyền trưởng, hãy chuẩn bị đón một, hai thằng tù lên tầu.
Thuyền trưởng tầu Sucre nhún vai, không trả lời.
Bất ngờ người ta nghe thấy tiếng của Antonio José Bolivar.
— Xin lỗi ông, đúng là ông tự bịt mắt mình để cố tình không nhìn thấy. Đây không phải là vết thương do dao chém.
Xã trưởng giận dữ vắt chặt chiếc khăn mùi-xoa của mình.
— Làm sao mày biết, lão kia?
— Tôi biết những gì tôi nhìn thấy.
Ông già lại gần cái xác, cúi người xuống, kéo cái đầu lên, rồi vạch tay vào vết thương.
— Ông có nhìn thấy những vết cắt song song với nhau không? Chúng rất sâu ở dưới cằm, càng xuống phía dưới vai càng nông. Ông hãy nhìn kỹ đi, không phải chỉ có một mà có bốn vết.
— Thì sao? Lão muốn nói gì?
— Tôi muốn nói, không thể có một con dao rừng bốn lưỡi. Đây là những vết cào. Những cái vuốt báo. Hắn đã bị một con báo ở tuổi trưởng thành giết. Ông hãy ngửi đi. Nó thối...
Xã trưởng lau mồ hôi trên cổ.
— Chắc chắn là nó thối. Xác đã rữa ra rồi.
— Ông cúi xuống và ngửi đi. Đừng có sợ người chết hay dòi bọ. Hãy ngửi mùi quần áo, tóc tai,... tất cả...
Cố nén lại cảm giác ghê tởm, lão béo nghiêng người xuống xác chết, khịt mũi đánh hơi như một con chó nhút nhát, nhưng tránh không đụng vào.
— Nó có mùi gì? — Ông già hỏi.
Những kẻ hiếu kỳ cũng tò mò xúm lại ngửi mùi cái thi thể bất động.
— Tôi không biết, làm sao tôi có thể biết? Mùi máu, mùi dòi bọ... — Xã trưởng trả lời.
— Mùi nước đái mèo. — Một người trong đám đông nói.
— Của mèo cái, đúng thế! Đó là một con mèo cái khổng lồ. — Ông già sửa lại cho chính xác hơn.
— Điều đó không chứng tỏ những thằng da đỏ kia không giết hắn.
Xã trưởng tìm cách lấy lại uy quyền, nhưng dân chúng chỉ chú ý vào Antonio José Bolivar.
— Hắn ta bị một con báo cái giết chết. Con đực có thể bị thương đang đứng rình gần đó. Con báo cái đã giết hắn ta. Sau đó nó đánh dấu con mồi bằng nước đái mình, để không cho các con thú khác ăn mất, trong khi nó đi tìm con báo đực.
— Đúng là chuyện cổ tích dành cho đàn bà. Chính những thằng mọi rợ kia đã giết, rồi chúng nó tưới nước đái mèo lên xác, hay là một thứ nước quái quỷ nào đó.
Những người thổ dân muốn phản đối, nhưng họng súng của xã trưởng vẫn chĩa vào họ, khiến họ lặng im.
Bác sĩ can thiệp.
— Nhưng họ giết để làm gì?
— Để làm gì? Câu hỏi của bác sĩ thực đáng ngạc nhiên. Để cướp, còn có động cơ nào khác? Những thằng mọi này, có điều gì cản được chúng?
Ông già buồn rầu lắc đầu nhìn bác sĩ. Bác sĩ hiểu Antonio José Bolivar vẫn chưa chịu. Ông giúp ông già bày những vật tuỳ thân của người chết lên bờ sông.
Một cái đồng hồ, một cái địa bàn, một cái ví căng phồng tiền, một cái bật lửa ga, một con dao săn, một dây chuyền bằng bạc có mề đay hình đầu ngựa. Ông già quay sang nói với một người thổ dân bằng thứ tiếng của họ. Anh chàng này nhảy xuống thuyền với tay đưa cho ông một cái xắc vải gai mầu xanh.
Trong xắc, người ta tìm thấy mấy băng đạn, và năm bộ da báo bé tí xíu. Những bộ da mèo vàng điểm chấm đen. Chúng dính phân và bốc mùi thối chẳng kém gì xác chết.
— Thưa ông rõ cả rồi, tôi nghĩ rằng vấn đề đã được giải quyết xong. — Bác sĩ nói.
Xã trưởng mồ hôi vẫn chẩy ròng ròng hết nhìn những thổ dân Shuars, ông già, bác sĩ, rồi những kẻ hiếu kỳ xúm quanh, không biết phải nói thế nào.
Khi nhìn thấy mấy bộ da báo, những người thổ dân nói với nhau với một vẻ lo lắng, rồi họ nhẩy xuống thuyền.
— Đứng lại. Chúng mày phải chờ tao quyết định.
— Hãy để cho họ đi. Họ có những lý do chính đáng để lo lắng. Ông xã trưởng vẫn chưa hiểu à?
Ông già lắc đầu nhìn xã trưởng, rồi đột nhiên cầm lấy một bộ da báo ném về phía ông ta. Xã trưởng đỡ lấy với một vẻ mặt ghê tởm.
— Suy nghĩ đi, thưa ông. Ông làm xã trưởng ở đây bao nhiêu năm mà không học được điều gì. Cái thằng Mỹ mất dạy đã giết chết những con báo con, và chắc chắn bắn bị thương con báo đực. Hãy nhìn bầu trời, ông có thấy mùa mưa đang đến gần không? Bây giờ ông hãy tưởng tượng lại sự việc. Con báo cái phải đi kiếm mồi ăn cho no bụng, để có sữa cho con bú đầy đủ trong những tuần đầu tiên của mùa mưa. Những con báo con vẫn chưa cai sữa, nên con đực phải ở lại canh. Các loài thú, chúng sống như thế. Chính lúc đó thằng Mỹ bắn chúng.
Điên dại vì đau đớn, con báo cái lần theo rình mò. Nó sẽ săn người. Chắc chắn con báo cái chẳng gặp khó khăn gì để lần theo dấu thằng Mỹ. Nó chỉ cần đánh hơi mùi sữa báo dính vào thằng ngốc dại dột.
Con báo đã giết một người, đã cảm nhận và quen máu người. Với bộ óc bé nhỏ của nó, tất cả loài người là những kẻ sát sinh. Đối với nó chúng ta có cùng một mùi. Ông hãy để cho những người Shuars đi. Họ cần báo động cho gia đình và hàng xóm họ. Mỗi ngày trôi qua càng làm con báo thêm tuyệt vọng và nguy hiểm hơn. Nó sẽ lần xuống gần các làng, để đi tìm mùi máu.
Thằng Mỹ ngu xuẩn! Ông hãy nhìn những tấm da. Tất cả đều còn non, không thể sử dụng được. Chẳng ai đi săn bằng súng ngay trước mùa mưa. Ông có thấy những vết đạn trên da? Ông nhận thấy thế không? Ông buộc tội những người da đỏ, nhưng chúng ta biết, kẻ có lỗi là thằng Mỹ. Hắn đi săn ngoài mùa, lại săn những loài động vật bị cấm.
Ông nghĩ vũ khí của thằng Mỹ hiện ở đâu? Lão đảm bảo với ông, những người da đỏ không tìm thấy, vì họ phát hiện ra cái xác rất xa địa điểm hắn bị chết. Ông không tin lão phải không? Ông hãy nhìn đôi ủng. Gót nó bị xé nát, điều đó có nghĩa là con thú đã tha cái xác một quãng dài sau khi giết. Hãy nhìn những vết rách trên áo sơ mi, trên ngực. Đó là chỗ nó ngoạm vào để kéo. Thằng Mỹ tội nghiệp. Cái chết của hắn chắc phải thật khủng khiếp. Ông hãy nhìn vết thương. Một cái vuốt đã kéo đứt động mạch. Hắn đã hấp hối cả nửa giờ đồng hồ, trong lúc con báo liếm dòng máu sủi bọt tuôn ra. Sau đó, con thú thông minh đã kéo lê con mồi của mình đến tận bờ sông, ngăn cho xác không bị kiến rừng ăn mất. Rồi nó đái lên đánh dấu. Lúc những người Shuars tìm thấy xác chết, cũng là lúc con báo cái bỏ đi tìm con đực. Hãy thả những người thổ dân đi, và yêu cầu họ báo tin cho cả những người đãi vàng đang đóng trại bên bờ sông. Một con báo điên dại vì đau đớn còn nguy hiểm hơn hai chục tên giết người họp lại.
Xã trưởng không trả lời. Ông ta bỏ đi viết báo cáo gửi đồn cảnh sát ở El Dorado.
Gió mỗi lúc một nóng và nhớp nháp, dính vào người, mang theo sự im lặng của rừng sâu, báo hiệu cơn dông sắp tới. Bất cứ một lúc nào, những cửa đập nước trên trời cũng sẵn sàng mở van. Từ phía toà thị chính, tiếng gõ máy chữ vang lên chậm rãi, trong lúc một vài người đàn ông đóng những chiếc đinh cuối cùng lên cái hòm được dùng để chở xác chết, nó đang bị người ta bỏ quên, nằm chờ trên mấy tấm ván bên bờ sông.
Thuyền trưởng tầu Sucre vừa chửi thề, vừa nhìn lên bầu trời đen như hắc ín. Ông không ngớt lầm bầm nguyền rủa xác chết. Ông ta tự tay rắc vào đáy thùng một lớp muối, dù hiểu rằng điều đó chẳng giải quyết được việc gì hơn.
Đáng ra phải làm giống như người ta vẫn thường làm với những người bị chết trong rừng, khi những đòi hỏi vô lý của luật pháp cấm không cho bỏ xác lại. Phải rạch thân thể từ cổ tới bụng, móc hết ruột vứt đi, rồi đổ đầy muối vào. Đấy là cách duy nhất giữ cho xác chết tạm coi được, cho đến phút cuối cùng của chuyến đi. Nhưng lần này, người chết là một thằng Mỹ trời đánh. Người ta phải đem hắn đi nguyên vẹn cùng với những con dòi đang làm ruỗng xác hắn từ bên trong. Lúc mang về đến nơi, xác hắn sẽ chỉ còn là một túi thịt hôi thối.
Ngồi trên những thùng chứa ga, bác sĩ và ông già yên lặng ngắm dòng nước trôi. Thỉnh thoảng họ truyền nhau chai rượu Frontera và hút những điếu xì gà làm bằng những lá thuốc lá già. Thứ xì gà duy nhất chịu đựng được độ ẩm ở vùng này.
— Đúng là đồ chó má. Antonio José Bolivar, lão đã bịt mõm hắn. Tôi không ngờ lão lại có tài năng thám tử đến thế. Lão đã làm cho hắn mất mặt trước mặt mọi người. Những người thổ dân kia không ăn cắp. Hi vọng có ngày những người Jivaro sẽ tặng cho hắn một mũi lao.
— Vợ hắn sẽ giết hắn. Cô ta đang tích trữ sự căm thù, nhưng chưa có đủ. Việc ấy đòi hỏi phải có thời gian.
— Nghe này, tôi hoàn toàn quên mất vì cái xác chết ngu xuẩn kia. Tôi mang cho lão hai quyển sách.
Mắt ông già sáng lên.
— Về tình yêu?
Bác sĩ làm hiệu gật đầu.
Antonio José Bolivar Proano thường đọc những tiểu thuyết tình yêu, còn bác sĩ là người thường xuyên cung cấp sách cho ông trong mỗi lần ghé qua.
— Đó là những chuyện buồn?
— Có thể khóc được. Bác sĩ khẳng định.
— Với những người yêu nhau mãi mãi?
— Như là không một ai có thể yêu hơn thế.
— Và họ rất đau khổ?
— Tôi nghĩ rằng nếu là tôi, thì tôi sẽ không chịu nổi.
Thực sự, bác sĩ Rubincondo Loachamín không bao giờ đọc tiểu thuyết. Khi ông già nhờ kiếm hộ những quyển sách mà ông ưa thích với nội dung là những câu chuyện tình đau khổ, tuyệt vọng nhưng kết thúc có hậu, bác sĩ cảm thấy nhiệm vụ đó thật không dễ dàng. Ông sợ bị chê cười khi bước vào một tiệm sách và hỏi “Hãy tìm cho tôi một cuốn tiểu thuyết thật bi kịch với những nỗi đau khổ khủng khiếp và một kết thúc có hậu...” Người ta sẽ nghĩ ông giống như một bà cô già. Thế rồi tự nhiên ông tìm được giải pháp trong một nhà chứa bên bến cảng, điều mà ông không bao giờ hi vọng tới.
Bác sĩ thích những cô gái da đen, đầu tiên bởi họ dám nói những điều làm người ta tỉnh mộng để quay về với thực tế, hơn nữa các cô gái ấy không ra mồ hôi khi làm tình.
Một buổi tối sau khi thoả cuộc mây mưa với Joselina, một cô gái quê ở tỉnh Esmeraldas, người có một nước da nhẵn và khô như mặt trống, ông nhìn thấy một chồng sách xếp gọn gàng trên nóc tủ đầu giường.
— Em cũng thích đọc sách à? — Ông hỏi.
— Vâng, nhưng em đọc chậm lắm.
— Em thích những loại sách nào?
— Những tiểu thuyết tình yêu. — Cô gái trả lời. Joselina có gu đọc sách giống như Antonio José Bolivar.
Bắt đầu từ buổi tối hôm đó, Joselina vừa làm nghĩa vụ người tình vừa đóng vai người bình luận văn học. Sáu tháng một lần, cô chọn hai quyển tiểu thuyết đầy rẫy những tình tiết đau khổ không sao tả nổi, để Antonio José Bolivar Proano cô đơn đọc chúng trong căn nhà của mình, đối diện với dòng sống Nangaritza.
Ông già cầm lấy hai quyển sách, ngắm nghía bìa và tuyên bố chúng làm ông hài lòng.
Cùng lúc, người ta mang thùng gỗ chứa xác chết lên tầu dưới sự kiểm soát của xã trưởng. Khi nhìn thấy bác sĩ, ông ta sai một người đến nói.
— Ông xã trưởng nhắc ông đừng quên trả tiền thuế.
Bác sĩ chìa mấy đồng tiền giấy đã chuẩn bị trước, rồi nói thêm vào:
— Ông ta nghĩ gì vậy. Nói với ông ấy, tôi luôn là một công dân gương mẫu.
Người ấy quay lại chỗ xã trưởng. Gã béo cầm lấy tiền nhét vào túi rồi giơ tay lên ngang trán ra hiệu chào.
— Hắn chết ngập cả lưng với đống thuế của hắn. — Ông già bình luận.
— Những vết cắn ấy ở đây chẳng nhằm nhò gì so với những nơi khác. Nhà nước sống bằng cách ăn bám trên lưng dân thường. Mà đấy là chúng ta mới chỉ bị làm phiền bởi một con chó nhỏ hay gây sự.
Hai người tiếp tục uống rượu và hút thuốc, mắt dõi theo dòng nước xanh không ngừng chảy.
— Antonio José Bolivar, tôi thấy lão có vẻ trầm ngâm. Lão có điều gì lo lắng à?
— Bác sĩ nói có lý. Chuyện này không làm lão hài lòng chút nào. Lão chắc chắn con sên trần đang mưu tính một cuộc truy tìm con báo. Và điều này không làm lão yên tâm. Bác sĩ có nhìn thấy vết thương không? Đấy mới chỉ là cái tát của nó. Con thú này rất to, những cái vuốt phải dài đến 5cm. Cứ giả sử nó mệt mỏi vì đói, một con thú như thế cũng còn nhiều sức lực. Không kể, mùa mưa tới sẽ xoá đi những dấu vết của nó, và cơn đói càng làm nó khôn ngoan hơn.
— Lão có thể từ chối không tham gia vào cuộc săn. Lão đã quá tuổi để tham dự vào những cuộc săn bắt như vậy.
— Bác sĩ đừng nghĩ thế. Nhiều khi lão còn muốn lấy vợ lần nữa. Một ngày nào đó, lão có thể gây bất ngờ khi yêu cầu bác sĩ làm nhân chứng kết hôn.
— Chỉ giữa chúng ta với nhau, lão bao nhiêu tuổi, Antonio José Bolivar?
— Dù thế nào đi nữa, lão cũng đã nhiều tuổi. Sáu mươi, theo giấy khai sinh. Nhưng phải tính đến việc lúc người ta khai giấy tờ, lão đã biết đi. Như vậy, có thể nói, lão nhiều phần cỡ độ bẩy mươi.
Tầu Sucre báo hiệu rời bến, khiến hai người chia tay nhau vội vàng.
Ông lão còn đứng lại trên bờ sông nhìn theo cho đến lúc bóng con tầu biến mất, khi nó bị che khuất ở một khúc quanh của dòng sông. Quyết định mình sẽ không nói chuyện với bất cứ ai nữa, ông lão tháo hàm răng giả, gói nó vào khăn mùi-xoa, ôm chặt hai quyển sách vào ngực, đi về túp lều của mình.
III
Antonio José Bolivar biết đọc nhưng không biết viết. Giỏi lắm ông chỉ có thể nguệch ngoạc ký tên vào giấy tờ, ví dụ như khi đi bầu cử. Nhưng một sự kiện như vậy rất ít khi xẩy ra, nên ông lão có thời gian để quên nó.
Ông đọc chậm chạp, giọng thì thầm, lẩm nhẩm từng chữ cái một giống như mồm đang nếm thử một món ăn. Khi đã nhẩm xong một chữ, ông đánh vần lại một hơi. Sau đó ông tiếp tục làm như vậy với một câu. Cứ như thế, ông chiếm lĩnh dần dần những tình cảm, ý nghĩa của từng trang sách.
Khi có đoạn làm ông cực kỳ thích thú, ông lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến lúc cảm thấy đủ để nhận ra rằng làm sao ngôn ngữ loài người có thể đẹp tuyệt vời như vậy.
Ông thường dùng một cái kính lúp để đọc. Đồ vật này được xếp vào hàng thứ hai trong những đồ dùng quý báu nhất của ông. Nó chỉ đứng sau hàm răng giả.
Ông sống trong một căn nhà tranh rộng chừng 10m2, đồ đạc hết sức sơ sài. Một cái võng vải gai, một thùng bia dùng làm giá cho cái bếp dầu, và một cái bàn có chân rất cao. Một hôm, khi cảm thấy đau lưng, ông hiểu rằng tuổi tác đã bắt đầu ngả xuống đời mình. Ông quyết định sẽ ngồi ít nhất. Chính vì thế ông mới đóng cái bàn cao lênh khênh này để có thể đứng ăn, và để đứng đọc sách.
Đó là một căn nhà mái lợp bằng rơm, cửa sổ hướng về phía dòng sông. Cái bàn được đặt trước cửa sổ này.
Gần cửa ra vào, có treo một cái khăn rửa mặt đã sờn rách, bên cạnh là bánh xà phòng. Ông dùng hết hai bánh một năm. Đó là một loại xà phòng tốt, có nhiều bọt, giặt rửa rất sạch quần áo, bát đĩa, đồ nấu bếp, thân thể và cả đầu tóc.
Trên tường trước cái võng, treo một tấm ảnh đã được sửa lại, tác phẩm của một thợ ảnh trên cao nguyên chụp một đôi vợ chồng trẻ.
Chàng trai, Antonio José Bolivar, mặc áo vét xanh, áo sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc. Cái cà vạt chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của người thợ ảnh truyền thần.
Cô gái, Dolores, khoác trên người những đồ trang sức có thật. Những thứ vẫn còn tồn tại ở một chốn bướng bỉnh trong trí nhớ, nơi vùi sâu gốc rễ của một cuộc đời cô đơn.
Chiếc khăn nhung xanh viền đăng ten phủ đầu làm tăng thêm vẻ trang trọng của khuôn mặt, nhưng nó vẫn để lộ mái tóc đen nhánh được rẽ làm đôi, thả xoã xuống lưng. Một đôi hoa tai mạ vàng lủng lẳng ở dái tai, còn cổ cô thì đeo một sợi dây chuyền cũng mạ vàng quấn thành nhiều vòng.
Tấm ảnh cũng cho người ta thấy cái áo thêu theo mốt vùng Otavalo mà cô khoác trên ngực. Ở phía trên, đôi môi nhỏ xíu bôi son đỏ của cô gái nở một nụ cười.
Hai người quen nhau từ thuở nhỏ ở San Luis, một làng trên cao nguyên, gần ngọn núi lửa Imbabura. Họ đính hôn vào tuổi 13. Hai năm sau hai người tự nhiên trở thành vợ chồng, sau một lễ cưới mà họ không thật sự tham gia, như bị tê liệt bởi một cuộc phiêu lưu quá lớn so với chính họ.
Ba năm đầu cái gia đình trẻ con ấy sống trong nhà bố vợ. Đó là một ông già goá, người đồng ý để lại toàn bộ gia sản cho cặp vợ chồng, đổi lại những lời cầu nguyện và hứa hẹn chăm sóc cho ông lúc tuổi già.
Ông già qua đời lúc họ xấp xỉ tuổi 19. Hai người thừa hưởng mấy mét đất không đủ để nuôi sống gia đình, và bầy gia súc thì không còn sống sót lấy một con sau những chi phí tang lễ.
Thời gian trôi đi, người đàn ông vừa làm ruộng trên mảnh đất của gia đình, vừa đi làm thuê cho những chủ trại quanh vùng. Họ tự bằng lòng với những gì tối thiểu nhất. Điều thừa thãi duy nhất họ có là những lời bình phẩm xấu bụng của mọi người. Những điều đồn đại này không ảnh hưởng đến ông, nhưng làm Dolores ăn không ngon ngủ không yên.
Cô không có bầu. Hàng tháng kinh nguyệt đến đều đặn một cách ghê gớm. Mỗi lần tới tháng càng làm tăng thêm sự cô lập của cô.
— Con bé này đẻ ra đã vô sinh. — Các bà già nói với nhau.
— Tôi đã nhìn thấy kinh của nó từ lần đầu tiên. Nó chứa đầy những con nòng nọc chết. — Một bà già khẳng định.
— Con bé này đã chết từ trong ruột. Thứ đàn bà như nó thì dùng làm được việc gì? — Mấy bà già tiếp tục.
Antonio cố gắng an ủi vợ. Hai người đi khám hết thầy lang này đến thầy lang khác, thử mọi loại lá thuốc cũng như những loại dầu kích thích sinh sản.
Tất cả mọi cố gắng đều vô ích. Tháng này qua tháng khác, người phụ nữ trốn vào góc nhà để che giấu mọi người cái chu kỳ kinh nguyệt đáng xấu hổ.
Họ quyết định rời bỏ vùng cao nguyên vào ngày mà người ta nói với ông những lời gợi ý mất danh dự.
Có thể đấy là lỗi phía đàn ông. Hãy để cho cô ấy ở một mình vào ngày hội San Luis.
Người ta yêu cầu ông mang vợ đến ngày hội tháng 6, bắt cô phải tham dự vũ hội và buổi chuốc rượu tập thể. Khi cha cố vừa quay lưng đi, dân chúng nằm ngả ngớn trên thềm nhà thờ sẽ đua nhau uống rượu mạnh nguyên chất được cất từ mía. Một thứ sản phẩm thừa lấy từ bã làm đường được ép bởi cối xay gió. Rượu làm các thân thể quấn lấy nhau trong sự đồng loã của bóng đêm.
Antonio từ chối khả năng làm bố của một đứa trẻ sinh ra trong hội giả trang. Anh nghe tin chính phủ có chương trình khuyến khích dân đi khai hoang vùng Amazon. Nhà nước hứa chia cho mỗi gia đình một diện tích đất khá rộng, giúp đỡ kỹ thuật, đổi lấy việc họ định cư ở vùng đất biên giới đang tranh chấp với nước Peru. Có thể việc thay đổi khí hậu sẽ chữa lành sự khiếm khuyết của một trong hai người.
Gần đến ngày hội San Luis, hai người tập trung tất cả những đồ đạc ít ỏi của mình lại, khoá cửa nhà và lên đường.
Phải mất hai tuần, họ mới tới được cảng sông El Dorado. Bằng xe bus, bằng xe tải, hay đơn giản là đi bộ, hai người đi qua những thành phố có tập tục kỳ lạ như Zamora và Loja, nơi người da đỏ Saragurus luôn mặc đồ đen để chịu tang Atahualpa.
Sau một tuần hành trình nữa bằng thuyền độc mộc, chân tê dại vì ngồi lâu không được vận động, họ đổ bộ lên bờ ở một khúc quanh của dòng sông, nơi có duy nhất một toà nhà lợp tôn rộng mênh mông. Nó vừa là trụ sở hành chính, vừa là cửa hàng bán công cụ và hạt giống, cũng là nơi ở tạm cho những người mới đến. Đó là làng làng El Idilio.
Ở đấy, sau khi làm xong những thủ tục hành chính ngắn ngủi, người ta trao cho họ giấy chứng nhận quy chế dân khai hoang có dán tem đường hoàng. Họ được chia hai héc-ta rừng, hai con dao, cuốc xẻng, vài hộp hạt giống đã bị mọt ăn cùng một lời hứa hỗ trợ kỹ thuật không bao giờ tới.
Hai vợ chồng bắt đầu cuộc sống mới bằng việc dựng tạm một căn nhà gỗ, sau đó lao vào công việc dọn cỏ, vỡ đất. Làm việc quần quật từ sáng sớm tinh mơ đến tối mịt, họ mới chặt được một cây gỗ, vài khóm mây, mấy bụi cây. Nhưng chỉ đến sáng hôm sau, những mầm xanh đã trỗi dậy dưới mặt trời với một sức mạnh như muốn báo thù.
Lúc mùa mưa đầu tiên bắt đầu, hai người đã kiệt hết lương thực dự trữ và chẳng biết phải xoay xở thế nào được nữa. Một số dân khai hoang có mang theo những khẩu súng săn cũ kỹ. Nhưng thú rừng rất nhanh và khôn ngoan. Ngay cá dưới sông cũng như muốn chế nhạo họ bằng cách nhẩy lên ngay trước mũi mọi người mà không làm sao bắt được.
Bị giam cầm bởi mùa mưa, bởi những cơn bão họ chưa từng biết đến, họ héo mòn trong tuyệt vọng, vì biết số phận mình như những người tù bị kết án tử hình chỉ còn chờ đợi một phép lạ thần kỳ. Họ ngồi ngắm nước lụt dâng lên mênh mông trên sông, nó đang cuốn đi những thân cây bị nhổ bật gốc cùng những xác thú vật trương phềnh.
Cái chết bắt đầu với tới những người mới đến khai hoang. Có người vì ăn phải những loại quả dại, có người bị quật ngã bởi những cơn sốt sét đánh. Một người khác nữa biến mất vào bụng một con trăn khổng lồ. Nó quấn anh ta lại, nghiền nát xương thịt để cuối cùng nuốt vào bụng với một sự chậm chạp dã man.
Họ đấu tranh vô vọng với mưa gió, mỗi khi một cơn mưa ập tới đe doạ cuốn đi căn nhà gỗ. Họ làm mồi cho muỗi rừng mà trong từng tia sáng của ánh chớp lại được dịp tấn công dữ dội. Chúng đốt vào da thịt, hút máu, rồi để lại trên da những nốt bỏng rát. Ở dưới da những con ghẻ sẽ đục khoét, gây thành những vết thương mưng mủ xanh. Họ bị bao vây bởi thú rừng đói mồi rình mò. Tiếng động của chúng ngăn không cho họ ngủ yên. Vào giây phút tuyệt vọng đó, sự giải thoát đã tới dưới hình dạng những con người cởi trần, mặt mũi bôi mầu đỏ vẽ bằng nhựa quả rucu,[1] đầu và tay họ được trang điểm bằng những vòng lông chim nhiều mầu sắc.
Đó là những người thổ dân Shuars, do thương cảm số phận họ, đã tới gần đưa bàn tay cứu giúp.
Những người da đỏ dạy họ săn bắn, câu cá, dựng nhà có thể chịu được mưa bão, phân biệt các loại quả lành và quả độc, và nhất là dạy họ cách sống với rừng.
Khi mùa mưa đã qua, những người thổ dân giúp hai người khai hoang trên sườn núi, đồng thời cũng báo cho họ biết đó là một việc làm vô vọng.
Mặc những lời cảnh báo của người da đỏ, họ vẫn gieo những hạt giống đầu tiên, và chẳng cần mất nhiều thời gian cho lắm, họ phát hiện ra đất ở đây rất cằn. Không có tán rừng che, những cơn mưa sẽ bào đất không ngừng nghỉ, khiến cho cây mọc lên không có đủ chất mầu để phát triển. Chúng sẽ chết non trước khi ra hoa, hay bị cắn nát bởi côn trùng.
Đến mùa mưa tiếp theo, trên mảnh đất họ mất bao nhiêu công sức khai hoang, đất bị xói mòn trôi theo triền dốc ngay từ cơn mưa đầu tiên.
Dolores không chịu đựng nổi đến mùa mưa thứ hai. Cô đã ra đi, bị cuốn đi bởi một cơn sốt dữ dội, người cô héo tới tận xương vì sốt rét.
Antonio hiểu là không thể quay trở về làng cũ trên cao nguyên. Những người nghèo có thể tha thứ cho nhau tất cả, trừ sự thất bại.
Ông bị kết án phải ở lại nơi này, cùng với những kỷ niệm là người bạn đồng hành duy nhất. Ông muốn trả thù vùng đất đáng nguyền rủa, cái địa ngục mầu xanh đã lấy mất tình yêu và mơ ước của ông. Ông mơ tới một cơn hoả hoạn lớn sẽ biến cả vùng rừng Amazon thành biển lửa.
Trong sự bất lực của mình, ông phát hiện ra mình chưa thật hiểu biết đầy đủ về rừng để có thể thật sự căm ghét nó.
Ông học tiếng Shuars bằng cách tham gia đi săn với họ. Họ săn heo vòi, khỉ, rắn, lợn rừng khoang... Ông học họ cách sử dụng ống phi tiêu. Nó không gây tiếng động và rất hiệu quả để săn thú rừng, rồi học họ cách sử dụng lao để xiên những con cá bơi nhanh nhẹn dưới suối.
Từ khi chơi với họ, ông bỏ dần sự ngượng ngùng của một người nông dân theo đạo Cơ-đốc. Ông ở trần và tránh quan hệ với những dân khai hoang mới tới. Những người này nhìn ông như một kẻ điên dại.
Antonio chẳng bao giờ nghĩ đến chữ tự do, nhưng ông được hưởng một sự tự do vô tận trong rừng. Ông cố gắng nghĩ tới kế hoạch trả thù, nhưng ông không thể tự cấm mình yêu cái thế giới này, đến mức quên đi tất cả những điều đó. Ông bị say mê bởi cái không gian mênh mông không ai có quyền sở hữu này.
Ông ăn khi đói. Ông chọn những hoa quả có vị thơm nhất trong rừng, không thèm ăn những con cá mà ông thấy chúng bơi chậm chạp. Ông lần theo dấu thú rừng, và việc săn chúng bằng phi tiêu làm cho ông tăng gấp đôi sự ngon miệng.
Buổi tối, nếu muốn ở một mình, ông trú trong bụng thuyền độc mộc. Ngược lại nếu cần có bạn, ông sẽ đi tìm những người Shuars. Họ đón tiếp ông rất hào phóng. Họ chia sẻ đồ ăn, thuốc lá với ông rồi hai bên cùng nhau tán chuyện hàng giờ liền, vừa nói vừa khạc nhổ xung quanh bếp lửa bập bùng chiếu sáng.
— Anh thấy chúng tôi thế nào? — Họ hỏi.
— Dễ thương như một bầy khỉ ouistisis, lắm mồm như những con vẹt say và to mồm gào rú như quỷ sứ.
Những người thổ dân đón nhận những so sánh ấy bằng những tiếng cười rộn vang, và thể hiện sự đồng tình của họ bằng những tiếng hú chói tai.
— Còn ở trên kia, nơi quê hương của anh, thì sao?
— Rất lạnh. Buổi sáng và buổi tối lạnh như băng. Người ta phải quấn poncho [2] làm bằng len và đội mũ.
—Vì thế mà người nào cũng bốc mùi hôi thối. Bởi khi đi ị người ta để dính phân vào nó.
—Không phải, tất nhiên có trường hợp như thế, nhưng vấn đề là trời lạnh, nên người ta không thể đi tắm bất cứ lúc nào như mọi người ở đây.
— Khỉ ở trên đó, chúng cũng mặc poncho?
— Trên cao nguyên không có khỉ, cũng không có lợn rừng khoang. Dân trên núi không biết đi săn.
— Thế họ ăn gì?
— Ăn những gì họ có. Khoai tây, ngô tẻ, thỉnh thoảng có thịt lợn hoặc gà vào ngày lễ, hay thịt chuột lang vào những hôm chợ phiên.
— Vậy họ làm gì nếu không đi săn?
— Họ làm ruộng từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn.
— Những thằng ngốc, đúng là những thằng ngốc. — Những người thổ dân Shuars kết luận.
Ông ở đây được 5 năm trước khi ông hiểu rằng mình sẽ chẳng bao giờ rời khỏi xứ này. Hai vết răng cắn đã báo cho ông cái tin bí mật ấy.
Ông học cách người Shuars đi rừng, bằng cách áp sát hai bàn chân lên mặt đất. Mắt và tai chăm chú lắng nghe những tiếng thì thầm của rừng, con dao quắm luôn sẵn sàng trong tay. Một hôm, trong một phút lơ đãng, ông cắm con dao xuống đất để rảnh tay hái một chùm quả. Đúng lúc cúi xuống cầm lại dao, ông cảm thấy hai cái nanh nhọn rát bỏng của một con rắn đuôi chuông cắm vào cổ tay phải.
Ông nhận ra con rắn, nó dài khoảng một mét, đang trườn ra xa, để lại trên mặt đất những hình chữ X, vì thế người ta gọi nó là rắn ích xì. Ông phản ứng thật nhanh giơ dao nhẩy theo nó. Ông còn kịp băm nó thành mảnh nhỏ, trước khi nọc độc phủ một bức mành làm ông mờ mắt.
Lấy tay dò dẫm, ông tìm được đầu con rắn. Cảm thấy sự sống đang rời bỏ mình, ông đi tìm một gia đình người Shuars. Những người thổ dân nhìn thấy ông lảo đảo đi tới, không còn khả năng để nói, bởi lưỡi, chân tay, và cả thân thể đã sưng phồng lên quá cỡ. Ông cảm thấy mình như sắp nổ tung ra. Ông chỉ kịp giơ cái đầu rắn lên trước khi ngã xuống bất tỉnh nhân sự.
Hai ngày sau, ông tỉnh dậy, thân thể còn sưng tấy, người run lẩy bẩy từ đầu tới chân giữa hai cơn sốt. Cách chạy chữa truyền thống của một thầy mo giúp ông hồi phục sức khoẻ một cách chậm chạp.
Thuốc bằng lá rừng làm tiêu nọc độc. Những lần tắm khô, vùi mình trong tro lạnh, làm giảm những cơn sốt cùng những cơn ác mộng. Một chế độ ăn uống với óc, gan, và cật khỉ giúp ông có thể đứng lên đi lại sau 3 tuần.
Trong suốt thời gian dưỡng bệnh, người ta cấm ông không được đi xa khỏi nhà. Những người đàn bà tỏ ra rất cương quyết trong việc thi hành chế độ điều trị nhằm làm sạch nọc độc trong cơ thể ông.
— Mày đang còn chất độc trong người. Phải bắt nó tiêu đi hết, chỉ để lại một chút để nó giúp mày chống lại những vết cắn mới.
Họ nhồi ông ăn nhiều thứ quả mọng nước, uống nước đun với các loại lá rừng và nhiều thứ nước uống khác để lợi tiểu.
Khi thấy ông đã hoàn toàn bình phục, những người thổ dân vây quanh ông, phủ đầy lên người ông quà tặng: một ống phi tiêu mới, một ống tên mới, một vòng trang sức bằng đá suối, một dây chão tết bằng lông phượng hoàng đất. Họ vỗ lên vai ra hiệu cho ông hiểu rằng ông vừa trải qua một thử thách để được chấp nhận. Một thử thách hoàn toàn phụ thuộc vào những vị thần tinh nghịch, những vị thần bé nhỏ hay trốn mình trong đám bọ dừa hay trong những tổ sâu mỡ màng, khi họ muốn đùa giỡn với số phận con người. Cũng có khi họ biến thành những vì sao để chỉ lạc đường trong rừng.
Những người thổ dân vẽ lên người ông những mầu sặc sỡ như da trăn và mời ông cùng nhảy với họ.
Ông là một trong số rất ít người thoát chết khi bị rắn đuôi chuông cắn, vì thế phải cúng lễ một cách trân trọng để tạ ơn vào ngày hội rắn.
Lúc tàn đám, lần đầu tiên ông được uống natema, một thứ rượu gây ảo giác như thuốc phiện, được làm bằng cách nấu những rễ cây yahuasca. Sau đó trong cơn mơ, ông cảm thấy mình như một bộ phận không thể tách rời của cái không gian luôn biến hoá này, giống như một sợi lông mọc thêm trên một thân thể khổng lồ có mầu xanh bất tận. Ông thấy mình suy nghĩ và cảm nhận như một người Shuars, rồi với thân thể được tô vẽ như một thợ săn Shuars giầu kinh nghiệm, ông đang lần theo dấu vết một con thú mà ông không thể mô tả nổi nó. Nó không có hình dáng, không có da thịt, không có mùi vị, không gây tiếng động, nhưng lại có đôi mắt mầu vàng rực. Đấy là một dấu hiệu không thể giải thích được. Điềm ấy ra lệnh cho ông ở lại và ông sẽ ở lại.
Sau đó rất lâu, ông tìm được một người bạn. Nushino, một thổ dân Shuars, lưu lạc đến đây từ một nơi rất xa. Xa đến mức những lời miêu tả vùng đất ấy bị lẫn tới những ngã sông Maranon, ở tận trung lưu dòng sông Amazon. Nushino tới đây vào một ngày đẹp trời. Anh bị thương bởi một viên đạn bắn vào lưng, kỷ niệm để lại của một cuộc thám hiểm văn minh, do quân đội Peru tiến hành. Những người thổ dân tìm thấy anh bất tỉnh, gần như kiệt máu, sau nhiều ngày trôi dạt trên một chiếc thuyền độc mộc.
Antonio và Nushino đi cùng nhau khắp rừng. Nushino khoẻ mạnh, eo lưng hẹp với đôi vai rộng. Anh dám bơi thi cùng cá heo trên sông và tính tình lúc nào cũng vui vẻ.
Người ta nhìn thấy họ lần theo dấu những con thú lớn, phân tích mầu phân của nó, đến khi họ chắc chắn có thể bắt được nó, Antonio sẽ nấp trong bụi cây, còn Nashino xua con thú khỏi bụi rậm, bắt nó chạy về phía bạn mình, nơi nó sẽ đón nhận những ngọn lao tẩm thuốc độc.
Cũng có lúc hai người săn một con lợn rừng để bán cho dân khai hoang. Tiền kiếm được giúp họ mua dao rừng mới hay một túi muối.
Khi Antonio không đi săn cùng người bạn của mình, ông đi bắt rắn độc. Ông biết cách tới gần chúng, huýt sáo với những âm thanh chói tai khiến chúng mất phương hướng. Thế rồi với một cánh tay của mình, ông lặp lại những cử động của con rắn, khiến chúng bị thôi miên, bắt chước các cử động của ông. Đấy là lúc với với cánh tay kia, ông bất ngờ chộp lấy chúng từ đằng sau cổ, bắt chúng phải nhả nọc độc vào một cái bát làm bằng nửa quả bầu rỗng.
Khi chúng đã chịu nhả đến giọt nọc cuối cùng, lúc con rắn duỗi đờ người ra vì mệt mỏi, không cuộn tròn được nữa, cũng chẳng còn sức để phản xạ, hoặc chúng hiểu rằng mọi sự chống trả đều vô ích, lúc này Antonio vứt chúng vào đám lá, với một thái độ khinh miệt.
Nọc rắn bán được giá. Một năm hai lần, một nhân viên cửa hãng dược phẩm, nơi người ta pha chế, sản xuất các thuốc giải độc, ghé qua đây thu mua những bình nọc rắn nguy hiểm đó.
Cũng có lần, con rắn nhanh hơn ông, nhưng điều đó chẳng ảnh hưởng gì. Ông hiểu rằng ông sẽ sưng phồng lên như một con cóc, mê sảng trong cơn sốt cao một vài ngày, nhưng không còn gì là nguy hiểm nữa. Ông đã có kháng thể, và có thể kiêu hãnh trước những người dân khai hoang, bằng cách chìa cho họ xem hai bắp tay phủ đầy những vết sẹo.
Cuộc sống trong rừng đã tôi luyện từng xăng-ti-mét trên người ông. Ông đã có được những bắp thịt giống như loài thú ăn thịt, càng ngày càng săn chắc theo năm tháng. Ông hiểu rừng không kém gì người Shuars. Ông cũng bơi tốt như người Shuars, Ông biết cách tìm vết thú rừng như một người Shuars. Ông giống như một người thổ dân, nhưng không phải là thổ dân.
Chính vì thế, ông bắt buộc phải vắng mặt thường xuyên. Những người thổ dân giải thích cho ông, đó là một điều tốt khi ông không phải là một người của họ. Họ thích gặp ông. Họ thích nói chuyện cùng ông, nhưng họ cũng muốn có cảm giác vắng mặt ông, cảm giác buồn không thể nói chuyện được với ông, cảm giác vui sướng khi hai bên gặp lại nhau mỗi khi ông quay trở về.
Mưa rồi nắng, các mùa thay phiên nối tiếp nhau. Cùng với thời gian, ông dần biết được những tục lệ và bí mật của bộ tộc này. Ông tham gia vào những lễ cúng hàng ngày dành cho những cái sọ người được phơi khô, làm bé quắt lại. Những cái sọ của kẻ thù hay của những chiến binh trong quá khứ. Ông cùng hát với họ những lời cầu nguyện để tạ ơn chúng đã truyền lại cho người ta lòng dũng cảm, hoặc cầu mong cho bộ tộc có một cuộc sống yên ổn lâu dài.
Ông tham dự những bữa cỗ hào phóng được các già làng ban cho. Những người quyết định giờ ra đi của họ đã điểm, khi họ đã ngủ thiếp đi dưới tác dụng của chicha [3] và natema trong một giấc mơ sung sướng đê mê. Những giấc mơ mở cửa cho họ đến một cuộc đời mới. Ông giúp mọi người mang họ vào trong một túp lều gỗ nằm sâu ở trong rừng rồi tẩm mật cọ lên người họ.
Hôm sau, vừa hát những lời cầu nguyện để đưa tiễn những già làng vào một kiếp mới, của loài cá, của loài bướm, hay các loài thú thông thái khác, ông giúp mọi người nhặt những mẩu xương trắng đã được một bàn tay vô hình cọ rửa sạch sẽ. Đây là những thứ vô ích mà người già để lại khi họ ra đi, những thứ mà những cái càng dịu dàng của kiến rừng không mang đi được.
Chừng nào ông còn sống với những thổ dân Shuars, ông không có nhu cầu đọc tiểu thuyết để biết đến tình yêu.
Ông không phải là một người của bọn họ, vì thế ông không thể lấy vợ. Nhưng ông cũng giống như họ, và vì điều ấy mà người đàn ông Shuars cho ông ở cùng trong mùa mưa đã yêu cầu ông nhận lấy một trong những người vợ của mình, vì danh dự của gia đình và dòng họ.
Người phụ nữ dẫn ông ra bờ sông. Cô ta vừa tắm, vừa trang điểm, rồi xức nước thơm cho ông, vừa cất giọng hát những bài anents. Rồi họ quay về túp lều, cùng nhau làm tình trên một manh chiếu. Được sưởi ấm bởi bếp lửa, họ không ngừng ngân nga những bài anents. Đó là những bài trường ca dài, được kể bằng giọng mũi, mô tả vẻ đẹp của thân thể cùng những sự sung sướng khoái lạc mà sự bí hiểm của ngôn ngữ làm tăng nó lên đến vô tận.
Đó là một tình yêu thật cao thượng, không có mục đích nào khác ngoài tình yêu dành cho tình yêu. Không có sự sở hữu và ghen tuông.
— Không một ai có thể giữ được tia chớp ở trên trời, không có ai có thể chiếm đoạt hạnh phúc của người khác vào thời điểm ngất ngây.
Đấy là điều mà người bạn của ông, Nushimo giải thích.
Khi nhìn dòng sông Nangaritza mãi mãi chẩy xuôi, người ta có thể nghĩ rằng thời gian đã quên đi vùng rừng Amazon xa xôi này. Nhưng chỉ những loài chim mới biết. Từ phía tây, những cái lưỡi hung dữ, cường bạo, đang tiến dần vào, sục sạo trên thân thể của rừng già.
Những cái máy khổng lồ mở ra những con đường, và người Shuars bắt buộc phải du cư nhiều hơn. Họ không thể định cư ở một nơi quá ba năm trước khi du cư đến nơi khác, để rừng tự hồi sinh, như ngày xưa. Bây giờ mỗi khi đổi mùa, họ dỡ những túp lều của mình, gói hài cốt của tổ tiên lại, mang chúng đi xa, lẩn tránh những người xa lạ đến định cư trên bờ sông Nangaritza.
Những người khai hoang, bị hấp dẫn bởi những lời hứa hẹn về tiềm năng chăn nuôi và khai thác rừng, đến càng ngày càng nhiều hơn. Họ mang theo rượu mạnh, thứ nước uống không cần làm lễ tế, và cứ thế làm tha hoá những kẻ yếu đuối. Nguy hiểm hơn nữa là những kẻ tìm vàng. Chúng lan truyền như một bệnh dịch tả. Một loại người thô bạo, ích kỷ, bất chấp luật lệ. Chúng đến từ khắp mọi nơi không ngoài mục đích làm giầu nhanh chóng.
Những người Shuars di cư dần về phía đông. Họ tìm đến những nơi kín đáo nhất không lối vào của rừng già.
Một buổi sáng, Antonio José Bolivar đã bắn trượt phi tiêu, ông hiểu ông cũng đã già. Với ông cũng vậy, giờ phút ra đi cũng tới gần.
Ông đã quyết định định cư ở làng El Idilio, và sinh sống bằng săn bắn. Ông không thể tự quyết định cho mình giờ phút của cái chết, để cho kiến rừng ăn xác mình. Ngay cả khi chuyện đó có xẩy ra, nó sẽ là một ngày lễ buồn.
Ông giống như những người thổ dân, nhưng không phải là họ. Sẽ không có lễ hội dành cho ông, không có ăn uống, không có thứ nước diệu kỳ để người ta ra đi trong đê mê.
Một hôm, khi ông đang bận đẽo một con thuyền mới mà ông muốn đóng nó chắc chắn nhất để có thể vượt được mọi trở ngại trên sông, chợt ông nghe thấy một tiếng nổ vọng tới từ phía một nhánh sông. Đấy là điềm báo hiệu sự ra đi của ông.
Ông chạy tới địa điểm phát ra tiếng nổ, và nhìn thấy một đám người thổ dân đang khóc lóc. Họ chỉ cho ông một đám cá chết nổi lềnh bềnh trên sông, cùng một nhóm người lạ đang chĩa súng về phía họ.
Đó là một nhóm năm người phiêu lưu đi tìm vàng. Họ đã dùng thuốc nổ phá cái đập giữ cá để mở lối đi trên sông.
Tất cả đã xẩy ra rất nhanh, vì hoảng sợ khi thấy những người Shuars xuất hiện, những người da trắng đã nổ súng bắn hai người thổ dân, rồi bỏ chạy bằng thuyền của mình.
Ông biết rằng những người da trắng sẽ không có đường thoát. Những người thổ dân đã đuổi theo họ bằng một lối tắt, rình ở một nơi mà dòng sông rất hẹp, để những ngọn giáo tẩm thuốc độc có thể với tới dễ dàng những con mồi của họ. Mặc dù vậy, một người da trắng đã kịp nhảy xuống nước, bơi sang bờ đối diện rồi biến mất vào trong rừng.
Đầu tiên phải chăm sóc những người bị thương. Một người đã chết, đầu bị bắn nát bét bởi một họng súng chĩa thẳng vào mặt. Một người khác đang hấp hối, lồng ngực vỡ toang, đó là bạn của ông, Nushimo.
— Thật là một cách ra đi tồi tệ. — Nushimo thở hổn hển, mặt nhăn lại vì đau đớn, cánh tay run rẩy chỉ vào bát thuốc độc. — Người anh em. Tôi sẽ không yên nghỉ được, chừng nào cái đầu của kẻ đó không được treo lên cây cột nhà, tôi sẽ ra đi buồn bã như một con vẹt mù đập đầu và cành cây, hãy giúp tôi, người anh em.
Những người Shuars vây quanh ông. Ông là người duy nhất thông thạo phong tục của người da trắng. Những lời yếu ớt của Nushimo nói với ông rằng giờ đã đến lúc ông phải trả nợ, món nợ ông đã vay khi họ cứu ông khỏi nanh vuốt của rắn độc.
Điều đó có vẻ như công bằng, ông mang theo một ống phi tiêu làm vũ khí, bắt đầu một cuộc săn người đầu tiên của mình.
Ông chẳng khó khăn gì tìm ra hắn. Trong cơn tuyệt vọng, kẻ đi tìm vàng đã để lại những dấu vết rõ ràng đến nỗi chẳng cần tìm kiếm.
— Tại sao mày lại làm thế? Tại sao mày lại bắn nó?
Người kia chĩa họng súng về phía ông.
— Bọn mọi rợ, bọn mọi rợ, chúng ở đâu?
— Ở bên bờ bên kia, họ không đuổi theo mày đâu.
Thở phào nhẹ nhõm, hắn hạ súng xuống, Antonio nhân dịp đó bắn cho hắn một mũi tên bằng ống phi tiêu của mình.
Hắn ta bị thương, lảo đảo nhưng không ngã. Không còn cách nào khác là đánh nhau tay không. Hắn rất khoẻ, nhưng ông cũng giật được khẩu súng ra khỏi tay hắn. Ông chưa bao giờ dùng súng, nhưng khi nhìn thấy hắn sờ soạng để tìm con dao, ông không ngần ngại bóp cò, tiếng nổ làm xôn sao những bầy chim rừng hoảng sợ.
Ngạc nhiên về hiệu quả của phát súng, ông xáp tới gần kẻ xấu số. Hắn nhận đủ hai viên đạn vào giữa bụng, quằn quại trong đau đớn. Không quan tâm tới những tiếng rên la, ông nắm cổ chân hắn kéo ra phía bờ sông. Ngay từ quãng đường đầu tiên, ông nhận thấy kẻ bất hạnh đã tắt thở.
Những người thổ dân chờ ông bên bờ bên kia. Họ giúp ông kéo cái xác khỏi mặt nước, nhưng khi nhìn thấy cái xác chết, họ bắt đầu những lời than khóc mà ông không thể giải thích nổi.
Họ không khóc vì kẻ lạ mặt mà họ khóc vì Nushino.
Antonio José Bolivar không phải là một người như bọn họ, nhưng cũng là một người như bọn họ. Chính vì thế, ông phải giết kẻ thù bằng một mũi lao tẩm thuốc độc sau khi đã cho phép đối thủ của mình được chống trả một cách dũng cảm. Bị tê liệt dần dần bởi chất độc, tất cả thần khí của hắn ta sẽ được ghi lại trong nét mặt, để rồi sau đó được giữ lại mãi mãi trong cái đầu bị cắt ra phơi khô và làm nhỏ lại. Mồm, mí mắt, lỗ mũi, sẽ bị khâu lại, để cho thần khí dũng cảm của kẻ thù không thoát đi được.
Nhưng làm thế nào để phơi khô cái đầu hắn bây giờ, khi tất cả tinh thần của hắn đã thoát đi trong những nét mặt nhăn nhó vì sợ hãi và đau đớn.
Vì lỗi đó mà Nushino không thể siêu thoát. Nushino sẽ lẩn quẩn ở lại trong rừng già, như một con vẹt mù vỗ cánh bay đập mình vào cành cây. Anh sẽ gây nên sự thù hận của mọi người dù họ không biết anh là ai, khi hồn anh đập vào người họ. Anh sẽ làm rối loạn giấc mơ của những con trăn đang ngủ, xua đuổi thú rừng đi mất bởi hồn anh bay lởn vởn không mục đích.
Ông đã tự làm mình mất hết danh dự, bởi chính ông phải chịu trách nhiệm về nỗi bất hạnh vĩnh cửu của người bạn mình.
Không ngừng khóc, những người thổ dân ôm hôn ông, họ giành cho ông cái thuyền độc mộc tốt nhất, chất đầy lương thực lên thuyền cho ông và họ nói từ giờ phút này, ông không còn được chấp nhận. Ông có thể đi qua nhà họ, nhưng không được dừng lại.
Những người da đỏ đẩy cái thuyền ra sông, rồi xoá đi những dấu vết còn lại trên cát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét