Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

MỘT ÔNG GIÀ ĐỌC TIỂU THUYẾT TÌNH YÊU (phần 2)

MỘT ÔNG GIÀ ĐỌC TIỂU THUYẾT TÌNH YÊU

LUIS SEPÚLVEDA

IV

Sau năm ngày lênh đênh trên sông, Antonio José Bolivar tới được làng El Idilio. Khung cảnh làng có những thay đổi. Đối diện với dòng sông có khoảng hai chục nóc nhà, nối nhau thành một dẫy. Nhà cuối cùng to nhất, được đóng một tấm biển phía trên cửa với một dòng chữ sơn mầu vàng “Toà thị chính”. Làng El Idilio cũng đã có bờ ke bằng gỗ, nơi ông tránh không cập bến. Ông xuôi theo dòng nước, cho đến khi mệt mỏi mới cập thuyền vào bờ. Đó là nơi ông dựng căn nhà để ở bây giờ.

Lúc đầu, khi nhìn thấy ông đi vào rừng với một khẩu súng Remington ca-líp 14, đồ thừa kế duy nhất của người mà ông đã giết, không những thế còn giết một cách tồi tệ, dân chúng coi ông như một người man rợ nên lảng tránh. Nhưng rất nhanh chóng sau đó, họ phát hiện ra sự may mắn do việc ông xuất hiện mang lại.
Dân khai hoang và dân đi tìm vàng đã phạm vào những sai lầm ngu xuẩn ở trong rừng. Họ tàn phá mọi thứ không đếm xỉa tới bất cứ điều gì. Chính vì thế mà một số loài thú trở nên hung dữ.
Để có được vài mét đất, họ phá rừng vô tổ chức, làm cho diều hâu không còn chỗ trú. Chúng trả thù lại bằng cách cắn chết lừa của họ. Họ săn lợn rừng khoang vào mùa sinh sản. Việc này đã biến những con lợn con thành những con quỷ dữ. Không kể sự xuất hiện của những thằng Mỹ mò tới từ những mỏ khai thác dầu.
Chúng chia thành từng nhóm đi ầm ĩ vào rừng, súng đạn đủ có thể trang bị cho một tiểu đoàn. Chúng sẵn sàng bắn vào tất cả những gì cử động được. Chúng bám riết theo những con báo, không cần biết đó là những con báo con hay báo cái đang có bầu, để sau đó chúng sẽ đứng chụp ảnh trước mấy chục bộ da được đóng đinh treo lên một tấm ván trước khi bỏ đi.
Những thằng Mỹ ra đi, còn những bộ da ở lại bốc mùi hôi thối cho đến lúc một bàn tay nhân từ nào đó gỡ chúng ra vứt xuống dòng nước. Những con báo sống sót trả thù lại bằng cách moi ruột những con bò đói giơ xương của dân khai hoang.
Antonio José Bolivar tìm cách hạn chế sự phá hoại của dân khai hoang. Họ phá hoại rừng để dựng nên tác phẩm chủ yếu của loài người văn minh: những sa mạc chết.
Rồi thú rừng càng ngày càng hiếm hơn. Những loài sống sót trở nên khôn ngoan hơn. Cũng như người Shuars, chúng trốn sâu vào rừng trong một cuộc thiên di không ai ngăn cản được về miền đông Amazon.
Đã có tất cả thời gian dành riêng cho mình, Antonio José Bolivar Proano phát hiện ra ông biết đọc đúng lúc răng của ông bắt đầu hỏng.
Chúng bắt đầu làm cho ông bận tâm khi ông cảm thấy mồm mình có mùi hôi, và có những cơn đau âm ỉ trong lợi.
Ông thường tham gia vào những buổi khám bệnh nửa năm một lần của bác sĩ Loachamín, nhưng không bao giờ ông tưởng tượng nổi chính mình sẽ ngồi trên ghế. Cho đến một ngày những cơn đau trở trở nên dữ dội không thể chịu nổi, bắt buộc ông phải leo lên ngồi trên cái ghế của bác sĩ.
— Đơn giản thôi bác sĩ. Tôi cũng chẳng còn bao nhiêu cái răng. Tôi đã tự nhổ những cái gây quá nhiều phiền toái cho mình, nhưng không nhổ được những cái nằm sâu bên trong. Nó quá khó. Vậy bác sĩ cứ tự nhiên vặt sạch chúng cho tôi, sau đó chúng ta sẽ nói chuyện với nhau về giá cả của những hàm răng giả đẹp đẽ kia.
Lần ấy, tầu Sucre mang đến hai nhân viên của chính phủ. Họ ngồi sau cái bàn trước cổng nhà thị chính. Điều đó làm cho dân chúng nghĩ họ là những nhân viên đến phụ thu thuế.
Trước sự thờ ơ của dân chúng, xã trưởng bắt buộc phải kêu gọi đến nghĩa vụ công dân còn lại ít ỏi trong ý thức họ để lôi những người lần chần đến trước cái bàn của chính phủ. Hai nhân viên được gửi đến mặt mũi sa sầm, họ có nhiệm vụ ngồi thu những lá phiếu của công dân làng El Idilio cho cuộc bầu cử tổng thống sẽ được tổ chức vào tháng tới.
Antonio cũng phải trình diện trước bàn như tất cả mọi người .
— Anh biết đọc không? — Người ta hỏi ông.
— Tôi cũng không nhớ nữa.
— Để thử xem, ông thấy chữ gì viết ở trên kia?
— n-g-à-i t-ổ-n-g t-h-ố-n-g, ứ-n-g c-ử v-i-ê-n.
— Rất tốt, ông thấy không, ông có quyền bầu cử.
— Quyền về cái gì?
— Quyền bầu cử, trong một cuộc bầu cử bỏ phiếu kín và trực tiếp, để chọn lựa một cách dân chủ một trong ba ứng cử viên xem người nào sẽ nhận chức vụ quan trọng tối cao của quốc gia. Ông hiểu không?
— Tôi chẳng hiểu gì cả? Cái quyền này tốn bao nhiêu tiền?
— Không mất xu nào. Bởi đó là một quyền lợi.
— Thế tôi phải bầu cho người nào?
— Bầu cho người sẽ là tổng thống. Cho ông tổng thống, ứng cử viên của nhân dân.
Antonio bầu cho người thắng cử và nhận được một chai rượu Frontera là phần thưởng cho việc ông đã thực hiện nghĩa vụ công dân của mình.
Ông biết đọc.
Đấy là điều phát hiện quan trọng nhất của đời ông. Ông biết đọc. Ông đã sở hữu được thứ thuốc giải độc để chống lại những nọc độc của tuổi già. Ông biết đọc, nhưng ông chẳng có gì để đọc.
Mặc dù không vừa ý, xã trưởng chấp nhận cho ông mượn mấy tờ báo cũ, mà ông ta giữ lại để phô ra trước mặt dân chúng giống như một bằng chứng về mối quan hệ đặc biệt của ông với chính quyền trung ương. Nhưng Antonio thấy chúng chẳng hấp dẫn gì cả.
Những trích đoạn của bài diễn văn được đọc trước quốc hội, trong đó ngài dân biểu đáng kính Bucaram nói về một vị dân biểu khác cũng đáng kính như thế, rằng ông này không có cái gì trong đũng quần. Một bài báo khác kể chi tiết việc Artemio Mateluna đã giết người bạn tốt nhất của mình, bằng hai mươi nhát dao găm như thế nào. Một tin tố cáo sự kiêu ngạo cuồng loạn của những cổ động viên bóng đá đội Manta. Họ đã đánh chẩy máu trọng tài trên sân. Những điều đó không đủ sức khuyến khích ông tiếp tục đọc. Chúng xẩy ra trong một thế giới xa lạ, ông không có kiến thức giúp mình hiểu được ý nghĩa của những sự việc đó, chúng cũng chẳng có gì làm cho ông khao khát tưởng tượng.
Một này đẹp trời, tầu Sucre ghé qua. Cùng với những két bia, thùng ga... là một linh mục bất hạnh được giáo hội gửi đến để rửa tội cho trẻ con và chấm dứt tệ nạn ăn ở với nhau không giá thú ở vùng này.
Sau ba ngày, ông linh mục không gặp được người nào có ý muốn dẫn ông tới nhà những người khai hoang. Thất vọng bởi sự lạnh nhạt của những con chiên tương lai, ông ta ra ngồi chờ trên bờ sông đợi chuyến tầu tới mang mình đi. Để giết thời gian nóng nực, ông rút từ túi áo chùng thâm ra một quyển sách cũ và cố gắng đọc. Nhưng cơn buồn ngủ đã quật ngã ông.
Quyển sách nằm trong tay thầy tu kích thích sự tò mò của Antonio José Bolivar. Ông già kiên nhẫn ngồi đợi ông thầy tu buồn ngủ gục xuống và làm rơi nó ra.
Đó là một quyển sách viết về tiểu sử của thánh Francois, mà ông giở vội vàng giấu giếm từng trang với cảm giác như đang phạm một tội ác nào đó.
Ông lẩm nhẩm từng chữ cái, thế rồi lòng khát khao muốn nắm bắt những gì chứa trong trang sách đã khiến ông đánh vần thầm thì những chữ mình đọc được.
Ông thầy tu tỉnh dậy, quan sát , không giấu được vẻ thích thú khi thấy Antonio José Bolivar đang chúi mũi vào quyển sách.
— Truyện có hay không? — Ông ta hỏi.
— Xin lỗi cha, bởi vì cha ngủ nên con không muốn làm phiền.
— Có hay không? — Cha cố hỏi lại.
— Người ta có thể nói, đây là chuyện về những động vật. — Ông trả lời một cách rụt rè.
— Thánh Francois yêu các loài vật, và tất cả những gì tạo hoá đã sinh ra.
— Con cũng vậy, theo cách của con. Cha quen thánh Francois ?
— Không, chúa không cho ta được biết tới niềm vui đó. Thánh Francois đã mất từ cách đây rất lâu. Ta muốn nói là ông đã từ bỏ cuộc sống trần thế này để về bên chúa hưởng cuộc sống vĩnh hằng.
— Làm sao cha biết?
— Bởi vì ta đọc sách. Đây là một trong những quyển mà ta ưa thích nhất.
Cha cố nhấn mạnh những lời nói của mình bằng cách vuốt ve lên quyển sách đã sờn gáy. Antonio José Bolivar ngưỡng mộ chăm chú nghe, và cảm thấy những nanh vuốt của thèm khát đang cắn vào mình.
— Cha chắc phải đọc nhiều sách?
— Cũng kha khá. Trước đây, khi ta còn trẻ mắt còn tinh tường, ta nghiến ngấu tất cả mọi tác phẩm rơi vào tay mình.
— Tất cả những quyển sách nói về các vị thánh?
— Không, trên thế giới có hàng triệu hàng triệu quyển sách, bằng tất cả mọi thứ tiếng nói, chứa đựng tất cả mọi chủ đề, trong đó có cả những điều mà người ta không nên biết.
Antonio José Bolivar không hiểu được vấn đề kiểm duyệt này. Ông tiếp tục chăm chú nhìn theo bàn tay cha cố. Bàn tay béo mập, trắng nõn, đặt ở trên bìa quyển sách mầu đen.
— Các quyển sách khác kể những gì?
— Ta vừa nói với con, đủ thứ chuyện: thám hiểm, khoa học, cuộc đời của những thánh nhân, kỹ thuật, tình yêu...
Cái điều cuối cùng làm ông chú ý. Tình yêu, ông chỉ biết qua những những bài hát. Đặc biệt là những pasillos được trình diễn bởi Julito Jaramillo, một giọng hát sinh ra từ những khu phố nghèo ở Guayaquil, tình cờ phát từ một cái đài chạy bằng pin khiến người ta buồn rầu xao xuyến. Những bài hát ấy kể rằng tình yêu giống như là một vết đốt của muỗi, chẳng có ai nhìn thấy nhưng tất cả đều tìm kiếm.
— Nó như thế nào, những quyển sách nói về tình yêu?
— Những quyển đó, ta sợ ta không thể nói được. Ta mới chỉ đọc một hai quyển.
— Chẳng hề gì. vậy nó thế nào?
— À, chúng kể câu chuyện của hai người gặp nhau, yêu nhau, rồi đấu tranh để thắng những cản trở không cho họ hạnh phúc.
Tiếng còi tầu Sucre thông báo nó sắp rời bến, Antonio không dám hỏi cha cố để lại cho ông quyển sách. Ngược lại, cha cố để lại cho ông lòng ham muốn đọc sách mãnh liệt hơn.
Ông sống qua một mùa mưa, gặm nhấm tình cảnh buồn rầu của một người đọc không có sách, và lần đầu tiên trong đời ông cảm thấy cuộc sống của mình bị bao vây bởi một loài thú có tên là cô đơn. Một con thú tinh quái. Nó không từ một giây phút lơ đãng nào để mượn lấy tiếng nói ông, buộc tội ông bằng những bài phát biểu dài vô tận, trước một khoảng trống vắng không người nghe.
Có cái gì thôi thúc ông đọc sách. Điều đó khiến ông phải đi khỏi làng El Idilio. Có thể không phải đi xa lắm, có thể ông chỉ cần tìm gặp một người nào đó ở El Dorado, một người sở hữu những quyển sách. Và ông nghĩ nát óc tìm cách thực hiện điều đó.
Khi mùa mưa ngớt dần, khi các loài thú bắt đầu xuất hiện trong rừng, ông rời căn nhà của mình, cầm theo khẩu súng săn, mấy mét dây thừng và con dao đã được mài sắc. Ông đi rừng.
Ông ở trong rừng khoảng hai tuần, trong khu vực có những loài thú mà người da trắng ưa thích. Trong vùng sinh sống của loài khỉ oustitis, nơi có những tàn cây cao rậm rạp, ông khoét rỗng ruột vài chục quả dừa để làm bẫy. Ông học được cách bẫy khỉ của người Shuars. Điều đó không khó. Chỉ cần người ta khoét vào quả dừa một cái lỗ rộng chừng hơn một ngón tay cái. Ở phía đối diện, đục một lỗ nhỏ, để luồn một sợi dây qua đó. Sợi dây được thắt nút chặt ở một đầu này, để không cho quả dừa có thể tụt ra. Phía đầu kia, ông buộc nó vào một thân cây, rồi bỏ mấy hòn sỏi nhỏ vào trong quả dừa đã rỗng. Ông vừa rời xa, thì những con khỉ, ngồi theo dõi ông từ trước trên cây cao, đã tụt xuống để tò mò xem có cái gì trong đó. Chúng cầm lấy, lắc lắc thử. Sau một hồi lúc lắc khi nghe thấy tiếng sỏi đập trong quả dừa, chúng sẽ thò tay vào để tìm cách lấy ra. Lúc cầm được một hòn sỏi trong tay, chúng không muốn bỏ ra và sẽ giẫy giụa một cách vô ích nhưng không thể nào rút tay ra được.
Khi đã đặt xong bẫy khỉ, ông đi tìm một cây đu đủ cao. Loại cây mà người ta vẫn gọi một cách chính xác là đu đủ khỉ, bởi chỉ có bầy khỉ ouistitis mới có thể với tới những chùm quả chín nẫu dưới ánh mặt trời ngọt lừ, lúc lỉu như những vương miện treo trên ngọn cây.
Ông rung gốc cây cho đến khi làm rụng được hai quả chín vàng thơm phức rồi nhét nó vào cái gùi đựng thú săn của mình.
Sau đó ông đi đến chỗ sinh sống của các loài vẹt, của phượng hoàng đất. Ông tìm những bụi cây an toàn để tránh gặp thú dữ.
Một dẫy những thung lũng nối tiếp nhau dẫn ông tới một bãi cây bụi rậm rạp. Nơi định cư của ong rừng với những tổ ong bị phân chim làm bẩn. Khi ông xuất hiện, khu rừng đột nhiên im bặt cho đến tận mấy giờ sau, thời gian để cho những bầy chim làm quen với sự xuất hiện của ông.
Ông làm hai cái lồng bằng mây rừng và những cành cây hoa giấy rồi đi tìm những thân cây Yahuasca. Ông giã nát quả đu đủ để trộn ruột đu đủ chín vàng lẫn với nhựa rễ cây được ông ép ra bằng chuôi dao rừng, rồi ông vừa hút thuốc vừa ngồi chờ cho chúng lên men. Ông nếm thử. Mồi trộn ngọt đậm. Vừa ý, ông cắm lều ở đầu suối và bắt cá để làm cơm tối.
Ngày hôm sau, ông dậy sớm đi gỡ bẫy.
Ở chỗ đặt bẫy khỉ, ông tìm thấy mấy chục con khỉ mệt mỏi vì cố sức giẫy giụa để rút bàn tay bị cầm tù trong ruột những quả dừa. Ông chọn ba cặp khỉ còn non, nhốt chúng vào lồng rồi thả những con còn lại.
Ở nơi ông rải ruột đu đủ lên men, loài vẹt đuôi dài và đủ các loại chim bị say nằm la liệt trong mọi tư thế. Một số con cố gắng lảo đảo đi lại, một số khác cố gắng vỗ cánh một cách vụng về để bay.
Ông bỏ vào lồng, một cặp guacayamos, đó là những con vẹt có lông xanh và vàng; một cặp Aras Shapul, loài vẹt rất được ưa chuộng bởi khả năng bắt chước tiếng người, còn ông bỏ lại tất cả những con khác với ước mong chúng sẽ tỉnh dậy vô sự sau một giấc ngủ dài. Ông biết cơn say của chúng sẽ kéo dài vài ba ngày.
Với món đồ săn được, ông trở về làng El Idilio và chờ đến lúc ê-kíp của tầu Sucre đã khuân hết hàng lên boong để lại gặp thuyền trưởng.
— Tôi cần đi El Dorado, nhưng tôi không có tiền. Tôi là chỗ quen biết, ông hãy nhận tôi lên tầu, tôi sẽ trả tiền ông sau, khi tôi bán được thú rừng.
Thuyền trưởng liếc mắt vào cái lồng rồi im lặng thọc tay vào bộ râu đã mấy ngày không cạo trước khi trả lời.
— Ông để lại cho tôi một con vẹt non thay vào tiền vé. Đã từ lâu tôi đã hứa với con tôi.
— Nếu ông đồng ý, tôi sẽ để lại cho ông một đôi để trả cả tiền vé về. Loài vẹt này chúng sẽ chết vì buồn bã nếu bị chia ly.
Trên tầu, ông tán chuyện với bác sĩ Rubincondo Loachamín và nói với bác sĩ lý do về chuyến đi của mình. Bác sĩ lắng nghe với vẻ thích thú.
— Nhưng nếu lão muốn có sách, tại sao lão không nhờ tôi? Tôi chắc chắn là có thể tìm được chúng ở Guayaquil.
— Cám ơn bác sĩ. Vấn đề là ở chỗ lão chưa biết loại sách nào mình muốn đọc. Khi nào lão biết, lão sẽ nhớ tới lời hứa của bác sĩ.
El Dorado chắc chắn không phải là một thành phố lớn. Ngưòi ta tìm thấy ở đó khoảng chừng trăm nóc nhà nối tiếp nhau trên bờ sông. Nó có tầm quan trọng bởi ở đây có một trạm cảnh sát, vài trụ sở hành chính, một nhà thờ, và một trường học phổ thông thưa thớt học sinh.
Nhưng với Antonio José Bolivar, người mà cả 40 năm nay không rời khỏi rừng, nó có ý nghĩa là sự trở về với thế giới rộng lớn mà ông đã từng biết trước đó.
Bác sĩ giới thiệu ông đến một người duy nhất có khả năng giúp đỡ ông. Đó là một thầy giáo, và ông cũng xin phép cho ông già được ngủ lại trong trường. Đó là một ngôi nhà lớn làm bằng tre, không có bếp. Đổi lại, ông già sẽ giúp việc làm bếp và sẽ đan giúp một cái gùi đựng cỏ.
Khi ông già đã bán xong cặp khỉ và mấy con vẹt, người thầy giáo chỉ cho ông thư viện của trường.
Ông cảm động khi được nhìn thấy một số lượng sách lớn như thế. Thầy giáo có khoảng năm chục đầu sách được xếp ngay ngắn trên một cái giá. Ông cảm thấy vui sướng không thể tả nổi, khi tự mình được ngắm nghía từng quyển sách một với cái kính lúp ông vừa mua được.
Năm tháng liền ở đây đã giúp ông hình thành và hoàn thiện gu đọc sách của mình. Thời gian mà những sự lưỡng lự và những câu trả lời nối tiếp lẫn nhau.
Khi lướt qua những quyển sách hình học, ông tự hỏi mình rằng điều đó có giá trị thực sự khiến người ta cần biết đọc không. Ông chỉ còn nhớ được một câu rất dài, mà ông hay mang nó ra nói lúc bực mình: “Trong một tam giác vuông, cạnh huyền là cạnh đối diện với góc vuông.
Về sau câu nói đó gây ra một ấn tượng mạnh tới mức, dân chúng ở làng El Idilio cảm nhận nó như một câu đố chữ vô nghĩa hay một lời chửi rủa tục tĩu.
Những quyển sách về lịch sử gây cho ông cảm giác chúng là một chuỗi những điều giả dối. Có thể như thế được không? Những nhân vật đàn ông da nhợt nhạt, đeo găng trắng đến tận cùi tay, mặc quần bó sát vào đùi giống như những diễn viên xiếc lại là những người chiến thắng trên chiến trường? Chỉ cần nhìn những bộ tóc giả của họ được chải chuốt gọn gàng bay theo gió cũng đủ hiểu, những con người ấy không đủ sức để giết chết một con ruồi. Thế là những trang lịch sử được loại bỏ khỏi gu đọc sách của Antonio.
Edmondo de Amicis và cuốn tiểu thuyết Trái tim đã chiếm hết một nửa thời gian của ông ở El Dorado. Đây mới thật sự là một câu chuyện. Quyển sách làm ông dán mắt vào nó, không thể rời tay. Nó làm ông quên đi sự mệt mỏi để kiên nhẫn đọc. Ông đọc nữa, đọc cho đến lúc ông tự nói với mình rằng không thể tồn tại trên đời một người có thể chịu đựng ngần ấy đau khổ mà vẫn bất hạnh. Đúng là phải sống như một thằng đểu cáng mới có thể tìm thấy sự vui sướng trong nỗi bất hạnh của một cậu bé khốn khổ như Lombard. Như vậy là, sau khi đã tìm kiếm trong tất cả đống sách của thư viện, ông đã chọn được những gì ông yêu thích thật sự.
Cuốn Vòng nguyện cầu của Florence Barclay chứa đầy tình yêu. Vẫn là tình yêu, tình yêu cho mãi mãi. Những nhân vật đau khổ mà kiếp người của họ trộn lẫn sự sung sướng với bất hạnh có một sức truyền cảm lạ thường khiến cho cái kính lúp của ông đẫm nước mắt.
Người thầy giáo không chia sẻ được với ông gu đọc sách đó, nên cho ông quyển sách ấy mang về làng El Idilio. Ông đã đọc đi đọc lại nó hàng trăm lần trước cửa sổ, cũng như bây giờ ông làm như thế với những cuốn tiểu thuyết do bác sĩ mang đến. Những cuốn sách nằm ngổn ngang trên mặt bàn, xa lạ với quá khứ hỗn độn của ông, quá khứ mà ông không muốn nhớ tới nữa. Ông muốn dành những khoảng trống khổng lồ trong trí nhớ để đón nhận những hạnh phúc và trắc trở của tình yêu vốn vĩnh cửu hơn cả thời gian.

V

Nạn hồng thuỷ tới lúc bóng tối xuất hiện. Chỉ trong vài phút, mưa dầy tới mức người ta không thể nhìn xa hơn khoảng cách một cánh tay giơ ra. Ông già nằm trên võng chờ giấc ngủ tới trong tiếng ru dữ dội của mưa gió đang bao trùm khắp nơi.
Antonio José Bolivar ngủ ít, không bao giờ quá 5 tiếng một đêm và 2 tiếng ngủ trưa. Thời gian còn lại, ông dùng để đọc sách, để mơ màng theo những bí ẩn của tình yêu và tưởng tượng đến những nơi mà câu chuyện đã xẩy ra.
Khi đọc những địa danh như Paris, London, hay Genève, ông phải cố gắng lắm để hình dung ra chúng. Thành phố lớn duy nhất, ông từng tới thăm là Ibarra. Ông chỉ còn nhớ một cách mờ nhạt những đường phố lát đá, những khu nhà lúp xúp giống nhau, quét vôi mầu trắng. Quảng trường Plaza de Armas, nơi người đi dạo đông như kiến trước sân nhà thờ lớn.
Những nhận thức về thế giới của ông dừng lại ở đó. Khi theo dõi những tình tiết xẩy ra ở những thành phố với những cái tên xa lạ như Praha, hay Barcelona, ông có cảm giác thành phố nơi ông biết, Ibarra, không phải là thành phố dành cho những tình yêu bất tận.
Khi di cư về vùng Amazon cùng với Dolores, ông có đi qua hai thành phố, Loja và Zamora. Nhưng vì chỉ đi qua, nên ông không đủ khả năng đánh giá ở những nơi đó tình yêu có thể tìm được một mảnh đất mầu mỡ hay không.
Có một điều ông rất hay thích tưởng tượng, đó là tuyết rơi.
Lúc còn bé, ông đã nhìn thấy tuyết ở trên đỉnh núi lửa Imbabura, giống như một bộ da cừu được phơi khô trên ban-công. Việc những nhân vật trong tiểu thuyết có thể đi lại trên đó mà không sợ làm nó bẩn gây cho ông cảm tưởng đấy là một tội lỗi kỳ lạ, không thể tha thứ được.
Những đêm trời không mưa, ông rời võng đi ra sông tắm rồi nấu một nồi cơm để ăn cho cả ngày. Sau đó ông rán một khúc chuối xanh. Nếu có thịt khỉ, ông cho thêm vào đó dăm ba miếng ngon.
Những người khai hoang không thích thịt khỉ. Họ không hiểu rằng thứ thịt cứng và nhiều gân này có nhiều đạm hơn thịt lợn hay thịt bò, là thứ thịt của những gia súc vốn được nuôi bằng cỏ lác dại .Thứ cỏ chỉ chứa nước và không có vị. Hơn nữa thịt khỉ bắt người ta phải nhai lâu, lại càng lâu hơn nếu phải dùng răng giả, điều đó gây cảm giác ăn rất nhiều mà không nhồi nhét nhiều thứ vô ích vào cơ thể.
Trong bữa ăn, ông uống thứ cà phê được rang cháy trong một cái ấm sắt rồi nghiền thành bột bằng cối đá. Để cho ngọt ông pha thêm một ít đường kính và thêm vào đó một thìa rượu Frontera để làm nó đậm hơn.
Mùa mưa, ban đêm thường dài hơn bình thường, ông sung sướng lười biếng nằm trên võng cho đến lúc buồn đi tiểu hay cơn đói bắt ông phải rời bỏ nó.
Mùa mưa cũng có điều thuận lợi. Người ta chỉ cần bước xuống sông, lật mấy hòn đá dưới đáy nước, sục sạo trong bùn là có thể bắt được mấy con cua để ăn sáng.
Đấy là điều ông đang làm vào buổi sáng hôm đó. Ông cởi trần, thắt một đầu dây thừng vào ngang hông, còn đầu kia buộc chặt vào một cọc gỗ để đề phòng khi một cơn lũ bất ngờ ập tới, hay một thân cây trôi ngang qua cuốn ông đi. Khi lội nước đến chỗ ngập ngang ngực, ông ngụp đầu lặn xuống.
Nước dưới đáy đục ngầu, nhưng với bàn tay dầy kinh nghiệm, ông dịch chuyển những hòn đá, sờ soạng tìm kiếm dưới bùn cho đến lúc ông cảm thấy bị những cái càng cứng rắn cặp vào ngón tay
Ông nổi lên mặt nước với một mớ cua đang vùng vẫy loạn xạ trong tay, và khi ông chuẩn bị leo lên bờ thì nghe thấy tiếng kêu
— Một cái thuyền độc mộc, một cái thuyền độc mộc bị trôi.
Ông nheo mắt cố gắng tìm kiếm chiếc thuyền, nhưng mưa làm mờ cả không gian. Bầu trời như một thùng nước khổng lồ, đổ nước xuống không ngừng nghỉ. Những giọt mưa trút xuống dòng sông hàng triệu mũi kim dầy đến nỗi mặt sông không kip nổi bong bóng
Đó có thể là ai? Chỉ có một kẻ điên mới mạo hiểm chèo thuyền trên sông trong một cơn hồng thuỷ như thế này.
Những tiếng kêu vẫn tiếp tục, ông nhác thấy những bóng người đang chạy về phía bờ sông.
Sau khi nhốt những con cua bắt được vào trong một cái lọ úp xuống trước cửa nhà,ông vội vàng mặc quần áo, vớ lấy một mảnh ni-lông đội lên đầu, tất tả chạy theo.
Những người đàn ông tránh ra một phía để nhường đường cho xã trưởng. Lão mập không mặc áo sơ mi,cả người ướt lướt thướt dưới một cái ô to mầu đen.
— Có chuyện gì thế? — Xã trưởng quát hỏi khi đi tới bờ sông.
Thay cho câu trả lời, người ta chỉ cho xã trưởng chiếc thuyền độc mộc được buộc vào cây cọc. Vẻ tồi tàn của nó báo hiệu thuyền thuộc về những người đi đãi vàng. Một nửa thân thuyền đã ngập nước, sở dĩ nó còn nổi là vì làm bằng gỗ. Trên thuyền đong đưa một xác đàn ông, cổ và cánh tay bị cào rách. Bàn tay bám chặt vào mạn thuyền với những ngón tay đã bị cá rỉa. Cái xác không còn mắt. Những con gà rừng, loài chim mầu đỏ, bé nhỏ nhưng săn chắc, loài duy nhất có khả năng bay dưới trời mưa như trút nước, đã làm tròn nhiệm vụ xoá đi tất cả thần sắc của người quá cố.
Xã trưởng ra lệnh kéo cái xác lên bờ. Lúc xác được đặt nằm trên bờ sông, người ta có thể nhận ra người xấu số bởi cái mồm của hắn.
Đó là Napoléon Salinas, một người đi tìm vàng, mới hôm qua còn được bác sĩ chữa răng. Salinas là một trong số ít người không muốn nhổ răng, mà muốn bịt răng bằng vàng. Hắn có một cái mồm đầy vàng. Dưới trời mưa đang làm bết tóc hắn, hàm răng nở một nụ cười mà chẳng ai muốn chiêm ngưỡng.
Xã trưởng đưa mắt tìm ông già
— Thế nào? Lại là con mèo cái à?
Antonio José Bolivar ngồi xổm trước cái xác, không quên nhớ tới mớ cua đang bị cầm tù ở nhà. Ông vạch vết thương nơi cổ, biểu thị sự đồng tình bằng một cái gật đầu.
— Tốt lắm, bớt đi được một thằng. Xã trưởng kết luận. Sớm hay muộn ma quỷ cũng bắt chúng đi.
Lão béo có lý. Trong mùa mưa, những người tìm vàng bị cầm chân trong những căn nhà được xây vội vàng. Họ ngồi rình những khoảnh khắc ngớt mưa hiếm hoi. Nhưng trời không bao giờ tạnh được lâu, mà luôn vội vàng nhường bước cho những cơn mưa xối xả như vòi rồng.
Họ áp dụng đúng từng chữ câu châm ngôn "thời gian là vàng bạc", bởi trời mưa làm cho họ có thời gian chơi bời. Họ đánh bài bằng những bộ tú nhầy nhụa mỡ, mà những hình vẽ đã bạc cả mầu lờ mờ khó nhận ra được. Máu cờ bạc bốc lên, ai cũng muốn có con át chủ. Họ nghi ngờ lẫn nhau và trước khi cơn mưa tạnh, luôn có một kẻ nào đó bị biến mất. Người ta không thể biết kẻ đó bị dòng nước cuốn mất hay rừng già nuốt đi.
Thỉnh thoảng, từ bờ sông ở làng El Idilio, người ta nhìn thấy một cái xác trương phềnh lẫn giữa những cành cây bị nước cuốn trôi, nhưng chẳng ai bận tâm tìm cách lôi nó vào bờ.
Đầu Napoléon Salinas gục xuống lủng lẳng, chỉ có cánh tay bị cào nát chứng tỏ anh ta đã tìm cách chống trả lại.
Xã trưởng rũ túi quần hắn. Ông ta tìm thấy cái chứng minh thư bạc phếch, vài đồng xu, một ít thuốc lá, và một cái túi da nhỏ. Ông mở cái túi và đếm được 20 cục vàng nhỏ, bé như những hạt thóc.
— Thế nào, chuyên gia, ông nghĩ sao?
— Cùng giống suy nghĩ của ông, thưa ông xã trưởng. Đêm qua hắn đã đi từ đây về muộn, lại say ngất ngưởng. Bất ngờ gặp mưa giữa đường, nên hắn ghé xuồng vào bờ để ngủ qua đêm. Chính vào lúc ấy, con báo cái đã tấn công. Hắn còn kịp nhẩy lên xuồng để thoát ra sông, mặc dù đã bị thương. Nhưng rồi kiệt sức vì mất nhiều máu;
— Rất hân hạnh vì chúng ta đồng ý với nhau. — Lão béo nói.
Xã trưởng chỉ định một người đứng cạnh giương hộ cái ô, để hắn phân chia số vàng cho những người có mặt. Sau đó ông ta lấy lại cái ô, dùng chân đẩy cái xác xuống nước, để đầu đi đằng trước. Cái xác nặng nề chìm xuống sông. Cơn mưa nặng hạt ngăn không cho người ta nhìn thấy cái xác nổi lên...
Hài lòng, xã trưởng vẫy vẫy cái ô ra hiệu giải tán. Khi thấy tất cả đám đông đều nhìn ông già chờ đợi, không ai nghe lời, hắn nhổ một bãi nước bọt xuống đất với vẻ bực mình.
— Còn thế nào nữa? Mọi việc đã kết thúc. Các người còn muốn gì?
Dân chúng tiếp tục nhìn ông già chờ đợi, làm ông bắt buộc phải nói.
— Giả sử một người phải cập bến do trời tối bất ngờ, người ta sẽ cập vào bờ nào để chờ trời sáng?
— Phía bờ an toàn nhất, phía làng chúng ta. — Lão béo trả lời.
— Ông đã nói bờ phía chúng ta, thưa ông xã trưởng. Người ta luôn ghé bờ phía này vì nếu chẳng may thuyền bị trôi mất, thì vẫn còn khả năng đi bộ trở về làng, bằng cách vạt cây băng rừng mà đi. Đấy cũng là điều mà tay Salinas tội nghiệp này nghĩ.
— Thế thì đã sao? Chuyện đó còn có ý nghĩa gì bây giờ?
— Có rất nhiều ý nghĩa; Nếu ông chịu khó suy nghĩ một tí, ông sẽ thấy con báo cũng ở cùng phía bờ sông với làng chúng ta. Ông nghĩ rằng con báo có thể vượt sông trong thời tiết như thế này?
Lời nói của ông già gây nên những lời bàn tán xôn xao. Dân chúng chờ đợi câu trả lời của xã trưởng. Dù sao đi nữa, chính quyền cũng có nghĩa vụ phải làm một việc gì đó.
Lão béo cảm thấy sự chờ đợi của mọi người như một sự khiêu khích, nên giả bộ tập trung suy nghĩ, cái cổ béo núc rụt lại dưới cái ô đen. Mưa bỗng nhiên nặng hạt đột ngột, khiến những miếng ni-lông dính chặt vào mỗi người như một lớp da thứ hai.
— Con thú còn ở xa. Các người có nhìn kỹ cái xác không? Không còn mắt và đã bị ăn mất một nửa. Điều đó không thể xẩy ra trong vòng một giờ, thậm chí năm giờ. Tôi không thấy có điều gì khiến các người phải sợ đến vãi đái trong quần. — Xã trưởng vênh váo tuyên bố.
— Có thể là như thế, nhưng có điều chắc chắn là xác chết chưa bị cứng, và chưa bốc mùi.
Ông lão đập lại.
Không nói thêm và cũng không ở lại thêm, ông lão quay người đi và tự hỏi nên ăn cua rán hay cua luộc. Trong khi đi về đến nhà mình, ông còn kịp nhìn thấy cái bóng béo hú cô độc của xã trưởng đứng dưới cái ô, trông hắn giống như một cây nấm khổng lồ bất ngờ mọc lên trên bờ sông lát ván.

VI

Sau khi ăn những con cua vừa béo vừa bùi, ông già tỉ mẩn rửa sạch hàm răng giả của mình, gói nó lại trong khăn mùi-xoa. Ông dọn sạch sẽ mặt bàn, vứt tất cả rác xuống sông, rồi mở một chai rượu Frontera và chọn lấy một quyển truyện.
Mưa như trút tứ phía, càng làm tăng thêm vẻ ấm cúng của căn nhà. Câu chuyện bắt đầu hấp dẫn.
“Paul trao cho nàng một nụ hôn nồng cháy trong khi người cầm lái đồng loã với bạn mình, giả vờ nhìn đi chỗ khác. Chiếc gondola [1] mà bên trong được lót bằng những tấm gối mềm lướt êm ả trên những kênh đào ở Venise.”
Ông già cất cao giọng đọc to nhiều lần.
Đó có thể là cái gì nhỉ, chiếc gondola?
Cái vật đó có thể lướt trên kênh đào, chắc chắc nó phải là một chiếc thuyền hay cái xuồng. Thế còn Paul, hắn rõ ràng không phải là một người đáng tin cậy, bởi hắn đã trao những “cái hôn nồng cháy” cho một cô gái trước mặt một người bạn, hơn nữa đó lại là một kẻ đồng loã.
Mở đầu của câu chuyện làm ông thích thú. Ông biết ơn tác giả đã chỉ ngay từ đầu nhân vật nào là xấu. Như vậy, người ta sẽ tránh được những hiểu nhầm cùng những thiện cảm không xứng đáng dành cho nhân vật.
Còn lại “những cái hôn nồng cháy”. Người ta có thể thực hiện nó như thế nào?
Ông nhớ lại những lần hiếm hoi ông hôn Dolores. Có thể ông không để ý, nhưng một trong những cái hôn ấy là “cái hôn nồng cháy” như của Paul trong tiểu thuyết.
Dù sao đi nữa, ông không trao nhiều cái hôn lắm, bởi vì hoặc vợ ông cười phá lên, hoặc cô ấy sẽ nói với ông rằng đó chắc chắn là một tội lỗi.
Một cái hôn nồng cháy. Một cái hôn. Giờ đây ông mới phát hiện ra, ông không hôn bao nhiêu và duy nhất chỉ hôn vợ mình, bởi vì người Shuars không biết hôn.
Họ, cả đàn ông và đàn bà chỉ vuốt ve khắp thân thể nhau và không hề quan tâm tới sự có mặt của một người thứ ba. Ngay cả khi làm tình với nhau, họ cũng không hôn. Phụ nữ thích ngồi lên trên người đàn ông. Những người đàn bà nói rằng, ở vị trí ấy họ cảm nhận tình yêu rõ rệt hơn, ngay cả những anents đi cùng với hành động cũng ngân lên mãnh liệt hơn.
Không. Đối với người Shuars cái hôn không tồn tại.
Ông nhớ nhìn thấy một lần, một kẻ đi tìm vàng muốn làm tình với một phụ nữ Jivaro. Một cô gái tội nghiệp, chuyên môn lượn quanh đám dân khai hoang và những kẻ tìm vàng để xin một ngụm rượu. Nếu muốn, tất cả cánh đàn ông đều có thể mang cô ta vào một góc để chiếm đoạt. Đờ đẫn vì rượu, cô gái tội nghiệp không còn nhận thức được người ta đang làm gì cô. Nhưng lần ấy, gã phiêu lưu kia đè cô ra bãi cỏ, rồi tìm cách dán môi mình vào mồm cô ta.
Cô gái đã hành động như một con thú hoang. Cô đẩy hắn ngã lăn ra đất, ném một vốc cát vào mắt, rồi chạy đi nôn oẹ một cách ghê tởm.
Nếu một cái hôn nồng cháy là như thế, thì anh chàng Paul ở trong tiểu thuyết chỉ là một con lợn.
Cho đến giờ ngủ trưa, ông đã đọc được khoảng bốn trang và nằm ngẫm nghĩ về nội dung của nó. Ông bận tâm nghĩ về việc không thể hình dung ra Venise bằng cách gán cho nó những gì ông tưởng tượng được từ những thành phố khác. Những thành phố mà ông khám phá ra trong các cuốn tiểu thuyết.
Có vẻ như ở Venise, các đường phố bị ngập lụt và dân chúng bắt buộc phải di chuyển bằng gondola. Những chiếc “gondola”! Rốt cuộc, từ “gondola” đã hấp dẫn ông đến mức ông nghĩ rằng sẽ là một điều rất thú vị, nếu ông đặt tên cho cái xuồng của mình là gondola của sông Nangaritza.
Ông suy nghĩ đến đó, thì cơn buồn ngủ trưa ập đến. Ông nằm duỗi dài trên cái võng thiếp đi với một nụ cười sung sướng khi nghĩ tới chuyện dân chúng ở Venise có thể ngã thẳng xuống nước, lúc họ bước qua bậc thêm nhà mình.
Lúc chiều xẩm tối, sau một bữa tiệc cua nữa, ông định tiếp tục đọc sách, nhưng đầu óc bị phân tán bởi những tiếng kêu làm ông phải đội mưa thò đầu nhìn ra ngoài.
Một con lừa trong cơn hoảng sợ đang phóng như bay trên đường, vừa chạy nó vừa kêu thất thanh. Nó đá hậu lung tung khi có người định giữ nó lại. Bị kích thích bởi sự tò mò, ông choàng vội miếng ni-lông lên vai rồi đi ra ngoài xem có chuyện gì đã xẩy ra.
Sau rất nhiều cố gắng, dân chúng cũng bao vây được con vật sổ chuồng. Họ vừa siết dần vòng vây vừa tránh những cái đá của nó. Có nhiều người bị ngã bổ chửng, rồi họ lại đứng dậy, người lấm bê bết bùn. Cuối cùng, con vật cũng bị ghìm lại và đứng im.
Con lừa mang trên mình những vết rạch sâu ở bên sườn, và ra nhiều máu từ một vết thương dài chạy từ cổ xuống phía dưới bắp chân trước.
Xã trưởng, lần này không đội ô, ra lệnh cho dân chúng vật ngã nó xuống để giết. Con vật nhận một loạt đạn, đạp chân mấy cái trong không khí rồi nằm im bất động.
— Đấy là con lừa của Alkaseltzer Miranda. — Một người nào đó nói.
Những người vây quanh gật đầu. Miranda là một người khai hoang ở cách làng El Idilio bảy cây số. Hắn ta đã bỏ làm ruộng, khiến chúng bị biến thành rừng, để mở một cái quán xập xệ. Hắn bán rượu mạnh, muối, thuốc lá, và alkaseltzer,[2] từ đó mà tên thuốc trở thành tên lóng của hắn. Khách hàng là những người đi tìm vàng không muốn mất công đi vào tận làng.
Con lừa được đóng yên, đó là dấu hiệu chứng tỏ người ta phải tìm thấy người cưỡi ở đâu đấy.
Xã trưởng hạ lệnh cho mọi người chuẩn bị một cuộc tìm kiếm vào sáng ngày mai về hướng quán của Miranda, đồng thời chỉ định hai người xẻ thịt con lừa.
Những con dao rừng bắt đầu hoạt động dưới trời mưa, chúng xẻ con lừa còm cõi một cách chính xác, khéo léo. Mỗi lần những lưỡi dao đẫm máu giơ lên, chúng lập tức được rửa sạch bằng nước mưa xối xuống, trước khi con dao được giáng xuống tiếp để chiến thắng xương cốt con vật.
Thịt phay ra được mang tới trước cửa toà thị chính, để lão béo chia phần cho những người có mặt.
— Này lão, ông muốn miếng thịt nào?
Antonio José Bolivar trả lời ông chỉ muốn ít gan và hiểu rằng sự quan tâm của xã trưởng là có ý ngầm tính ông vào những người tham gia cuộc tìm kiếm ngày mai.
Cầm miếng gan còn nóng trên tay, ông quay về lều của mình. Theo sau ông là những người đang mang đầu, và những bộ phận không ăn được của con vật vứt xuống sông. Màn đêm kéo xuống. Trong tiếng mưa rơi, người ta còn nghe thấy tiếng chó sủa. Chúng đang tranh nhau bộ ruột của con lừa rơi vung vãi trong bùn.
Vừa rán miếng gan với những lá thơm dùng làm gia vị, ông vừa lầm bầm nguyền rủa tai nạn đã kéo ông ra khỏi cuộc sống yên bình của mình.Ông không thể tập trung đọc sách được, vì ông bắt buộc phải suy nghĩ tới cuộc tìm kiếm ngày mai dưới sự chỉ huy của xã trưởng.
Mọi người đều biết, xã trưởng luôn luôn để mắt tới ông, sự khó chịu của hắn chắc chắn càng tăng thêm sau cái chết của thằng Mỹ và hai người thổ dân Shuars.
Lão béo có thể gây phiền phức, ông đã có kinh nghiệm về điều đó.
Ông càu nhàu lắp hàm răng giả vào, và bắt đầu nhai miếng gan. Ông vẫn nghe nói tuổi già mang đến sự thông thái và ông chờ đợi nó với sự tin tưởng chắc chắn rằng cái giá trị đạo đức ấy sẽ mang lại cho ông điều ông mong muốn nhất: khả năng làm chủ được những dòng ký ức mà không bị rơi vào cái bẫy lãng quên của trí nhớ..
Nhưng ngay lần này nữa, ông cũng không cưỡng lại được, trong khi bên ngoài vẫn vọng vào tiếng mưa rơi đều đều.
Cách đây mấy năm, vào một buổi sáng có một chiếc tầu mà chưa một ai nhìn thấy bao giờ cập bến làng El Idilio. Một cái tầu đáy phẳng chạy bằng động cơ. Nó cho phép chở được 8 người một cách rộng rãi. Người ta có thể ngồi ngang hai người một cạnh nhau, chứ không phải ngồi theo hàng dọc, chân bó gối như trên thuyền độc mộc.
Phương tiện hiện đại ấy mang tới bốn tên Mỹ, được trang bị máy ảnh, lương thực dự trữ, cùng với những dụng cụ tinh vi khác mà dân chúng không biết dùng để làm gì. Họ bám theo xã trưởng mấy ngày liền, chuốc rượu Whisky cho hắn tới lúc hắn vênh mặt lên vì kiêu ngạo và giới thiệu ông lão như là người thông thạo nhất vùng Amazon. Rồi xã trưởng dẫn chúng đến cửa nhà ông.
Lão béo người nồng nặc mùi rượu không ngớt gọi ông già là người bạn và là người cộng sự thân thiết, trong lúc những thằng Mỹ chụp ảnh ông và tất cả những gì lọt vào ống kính của chúng.
Chúng đi vào nhà mà không xin phép. Một gã trong số đó, sau khi phá lên cười, nhất định đòi mua bằng được cái khung ảnh có hình ông và Dolores. Gã còn tự tiện gỡ nó xuống nhét vào trong xắc và đặt lên bàn một nắm đô-la.
Ông già phải khó khăn lắm mới làm chủ được mình để thốt ra lời.
— Ông hãy bảo thằng mất dạy kia đặt ngay tấm ảnh vào chỗ hắn đã lấy ra, nếu không lão sẽ dùi hai phát đạn làm cho hắn mất dái bây giờ. Hãy nói thêm với hắn, khẩu súng này luôn nạp đạn sẵn.
Nhưng kẻ không mời mà đến kia đều hiểu tiếng Tây-ban-nha, nên chẳng cần xã trưởng truyền đạt lại tỉ mỷ ý định của ông già. Lão béo phân bua với chúng về tình bạn, yêu cầu chúng thông cảm, giải thích rằng ở chốn này những kỷ niệm gia đình là thiêng liêng, van xin chúng đừng phật ý, rồi bảo đảm rằng những người Ecuador nói chung, và hắn nói riêng, rất quý những vị khách Bắc Mỹ. Hắn còn nói rằng nếu chúng muốn tìm mua những đồ lưu niệm, hắn có thể đích thân đi tìm hộ.
Khi bức ảnh được đặt vào chỗ cũ, ông già lên đạn và ra lệnh cho chúng đi ra khỏi nhà.
— Lão già ngu ngốc. Lão làm ta mất một món béo bở. Cả lão cũng vậy, lão cũng mất một dịp làm ăn. Chúng nó đã trả lão tấm ảnh, lão muốn đòi gì hơn nữa.
— Chúng hãy cút đi, lão không muốn dính đến những kẻ không biết tôn trọng nhà riêng của người khác.
Xã trưởng muốn nói thêm vài câu, nhưng khi nhìn thấy nét mặt khinh miệt của những vị khách trước khi chúng quay đi, hắn không kìm nổi cơn giận dữ.
— Kẻ phải đi là lão, lão già khốn kiếp!!!
— Lão ở trong nhà lão.
— Thế hả? Lão chưa bao giờ tự hỏi cái khu đất này là của ai, nơi lão dựng cái đống khốn khiếp như tổ chuột này lên?
Câu hỏi làm ông lão giật mình. đúng là trong quá khứ ông có cái giấy chứng nhận sở hữu hai héc-ta đất, nhưng chỗ đó cách đấy mấy cây số về phía thượng nguồn.
— Không của ai cả. Chỗ đất này không có chủ.
Xã trưởng nở một nụ cười đắc thắng.
— Lão lầm to. Tất cả đất đai trong vòng 100 mét, chạy dọc theo hai bờ sông là của nhà nước. Nhà nước ở đây là tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau sau. Tôi không dễ quên những gì lão làm với tôi đâu.
Ông già cố kìm ý định bóp tay vào cò súng. Ông tưởng tượng hai viên đạn sẽ khoan vào cái bụng phệ kia, xuyên thủng ra sau lưng, làm lòi ruột hắn ra.
Lão béo nhìn thấy đôi mắt sáng rực của ông già, tự hiểu là mình không nên chậm trễ chạy theo nhóm người Mỹ kia.
Sáng hôm sau khi con tầu rời bến, nó có thêm hai người khách nữa. Một người là dân khai hoang còn người kia là một thổ dân Jivaro. Họ được xã trưởng giới thiệu làm nhiệm vụ dẫn đường vì những hiểu biết của họ về rừng.
Antonio José Bolivar chờ đợi cuộc viếng thăm tiếp theo của lão béo với khẩu súng lên đạn sẵn.
Nhưng lão béo giữ khoảng cách, không đến gần ngôi nhà. Ngược lại ông lại có một cuộc viếng thăm của Onecen Salmundio, một ông lão tuổi đã 80 người vùng Vilcabamba. Một người vẫn coi ông là bạn bởi họ cùng là đồng hương từ trên cao nguyên xuống.
— Có chuyện gì xẩy ra thế?
— Chẳng có chuyện gì. Còn cụ, cụ đến chơi có việc gì không?.
— Tôi biết được vài chuyện. Con sên trần tới nhà yêu cầu tôi dẫn tụi Mỹ vào rừng. Tôi phải khó khăn lắm mới giải thích được, với tuổi tác của mình, tôi không thể dẫn họ đi xa. Phải xem hắn tán tỉnh khéo như thế nào, cái con sên trần ấy. Hắn không ngừng nói với tôi, tụi Mỹ sẽ rất mừng khi có tôi dẫn đường, bởi vì tôi có một cái tên Mỹ.
— Thế là thế nào?
— Nó là thế này. Tên tôi là Onecen, đấy là một cái tên của một vị thánh của chúng. Nó được viết trên tiền của người Mỹ, với một chữ “t” ở sau cùng, One cent. [3]
— Linh tính nói với tôi, cụ tới đây không phải để nói chuyện đó.
— Đúng vậy, tôi đến để khuyên ông nên cẩn thận. Con sên trần đang để ý tới ông. Hắn đã nói với mấy thằng Mỹ trước mặt tôi. Hắn muốn trên đường về chúng sẽ qua yêu cầu quận trưởng công an đồn El dorado gửi đến đây hai cảnh sát. Hắn muốn đuổi ông đi khỏi nhà.
— Tôi có đủ đạn để tiếp đãi chúng. — Ông khẳng định với vẻ không chắc chắn lắm.
Những tối tiếp theo, ông không làm sao ngủ được.
Liều thuốc an thần đến một tuần sau đó, khi con tầu quay trở về. Nó cập bến một cách vội vàng, khiến thân tầu va vào những cọc gỗ ke bờ. Chẳng ai quan tâm đến chuyện mang đồ lên bờ. Tàu chỉ chở có ba người Mỹ. Vừa đặt chân lên bờ, chúng vội vàng chạy đi tìm xã trưởng.
Một lúc sau, xã trưởng tới thăm ông để giảng hoà.
— Lão nghe đây. Giữa những người công giáo với nhau, chúng ta có thể nói chuyện và kết thúc bằng thoả thuận với nhau. Những gì tôi nói là đúng. Nhà của lão xây trên đất của nhà nước, và lão không có quyền ở lại đây. Đáng nhẽ tôi phải cho bắt lão vì việc chiếm đất bất hợp pháp. Nhưng chúng ta là bạn bè với nhau. Thân đến mức như người ta vẫn nói hai bàn tay rửa lẫn cho nhau, vì cả hai đã cùng rửa đít. Chúng ta phải có nhiệm vụ giúp đỡ lẫn nhau.
— Bây giờ ông muốn gì?
— Trước tiên lão hãy nghe tôi nói. Tôi sẽ kể cho lão chuyện gì đã xẩy ra. Vừa đến chỗ dừng chân thứ hai, tên thổ dân Jivaro đã chuồn mất với tất cả số rượu whisky mang theo. Lão biết bọn mọi rồi đấy. Chúng chỉ nghĩ tới việc ăn cắp. Tên khai hoang nói với tụi Mỹ, điều đó không có gì là quan trọng. Tụi Mỹ muốn đi sâu vào rừng để chụp ảnh người Shuars. Tôi chẳng hiểu điều gì làm chúng thích tụi thổ dân cởi truồng đến thế. Dù sao, tên khai hoang cũng dẫn chúng đến tận chân núi Yacuambi không có vấn đề gì. Nhưng chúng nói ở đó chúng bị khỉ tấn công. Tôi chẳng hiểu gì cả, vì chúng lên cơn điên hết rồi. Cả ba cùng tranh nhau nói. Chúng nói khỉ đã giết chết tên dẫn đường và một người trong bọn chúng. Tôi không thể tưởng tượng được. Từ khi nào tụi khỉ ouistitis giết người? Chỉ cần một cái tát, người ta cũng đủ đánh bay cả chục con khỉ. Tôi nghĩ, đó là tụi Jivaro. Lão nghĩ thế nào?
— Ông biết rất rõ là người Shuars luôn tránh chuyện rắc rối. Nếu đúng như chúng nói, thì người ta đã dẫn chúng tới tận chân núi Yacuambi. Ông phải biết người Shuars không còn ở đó từ lâu. Ông cũng phải biết tụi khỉ có thể tấn công. Đúng là chúng bé nhỏ, nhưng với cả đàn ngàn con, chúng đủ khả năng gặm nát một con ngựa.
— Tôi không hiểu. Tụi Mỹ không đi săn. Ngay cả súng chúng cũng không mang.
— Có quá nhiều điều ông không hiểu. Còn tôi, tôi đã sống bao nhiêu năm với rừng, tôi biết. Ông có biết người Shuars làm thế nào khi họ đi qua vùng khỉ sinh sống? Đầu tiên, họ gỡ tất cả đồ trang sức sặc sỡ trên người để không làm chúng tò mò. Sau đó họ bôi đen những mũi giáo bằng tro cọ. Ông có thấy không, với máy ảnh, đồng hồ, dây chuyền bạc, mặt thắt lưng, dao găm, bọn Mỹ đã làm tất cả mọi điều để khiêu khích của tụi khỉ. Tôi biết vùng rừng đó và biết loài khỉ sinh hoạt thế nào. Tôi có thể nói với ông, nếu ông nhỡ quên một chi tiết gì đó, khi trên người ông có một chút gì có thể thu hút sự tò mò của khỉ, khiến chúng tụt từ trên cây xuống để lấy, thì ông nên để cho chúng lấy. Nếu ông chống cự lại, chúng sẽ rú rít lên, và chỉ trong vài giây đồng hồ, cả ngàn con khỉ lông lá giận dữ sẽ lao xuống.
Lão béo vừa nghe vừa thấm mồ hôi.
— Tôi tin lão. Nhưng tất cả những chuyện đó là lỗi của lão, vì lão đã từ chối không đi dẫn đường cho chúng. Đi với lão sẽ chẳng có chuyện gì xẩy ra. Bọn chúng còn có giấy giới thiệu của thống đốc bang. Bây giờ tôi đang sống dở chết dở. Lão phải giúp tôi.
— Bọn chúng sẽ chẳng nghe lời tôi đâu. Chúng luôn nghĩ chúng biết hết mọi điều. Nhưng ông vẫn chưa nói ông muốn gì ở lão.
Xã trưởng rút từ trong túi ngực một bình whisky và mời ông già một ngụm. Ông đón lấy, chỉ để nếm cho biết mùi. Ngay lập tức ông cảm thấy xấu hổ bởi tính tò mò như tụi khỉ ouistitis của mình.
— Họ yêu cầu cần có một người để đi nhặt những gì còn lại của người chết. Tôi thề với lão chúng sẵn sàng trả nhiều tiền cho việc này, và lão là người duy nhất có thể làm điều đó.
— Đồng ý. Nhưng tôi không muốn dính dáng vào chuyện của các người. Tôi sẽ mang về những cái gì còn lại của thằng Mỹ. Còn ông, ông để cho lão yên.
— Tất nhiên rồi, ông lão. Tôi đã nói với ông, giữa những người Công giáo với nhau, chúng ta có thể bàn bạc để cuối cùng sẽ thoả thuận được với nhau.
Ông chẳng cần phải cố gắng nhiều lắm để tìm thấy chỗ tụi Mỹ nghỉ lại đêm đầu tiên. Rồi ông dùng dao rừng phạt cây mở đường đi tới Yacuambi, nơi có rừng đại ngàn, giầu hoa quả dại, chỗ ở của nhiều bầy khỉ. Ở đây ông chẳng cần tìm dấu vết. Trong cuộc bỏ chạy của mình, những người Mỹ đã bỏ lại một số lượng vật dụng đủ để ông tìm đến nơi còn sót lại những mảnh xác của kẻ xấu số.
Ông nhận ra người dẫn đường trước. Ông biết điều đó bởi cái sọ người không có răng. Thằng Mỹ nằm cách xa hơn vài mét. Kiến rừng đã làm việc một cách tuyệt vời. Chúng chỉ để lại duy nhất những mẩu xương nhẵn nhụi, sạch sẽ trơn tru như những cục phấn trắng; những con kiến đang dọn dẹp nốt bộ xương. Giống như những người thợ rừng bé tí hon da nâu sẫm, chúng đang khiêng nốt đi từng sợi tóc mầu vàng rơm để phủ lên cái chóp ra vào của tổ kiến.
Ông vừa chậm chạp châm một điếu xì-gà vừa ngắm nhìn công việc của loài côn trùng trong khi chúng hoàn toàn thơ ơ với sự có mặt của ông. Chợt ông nghe thấy một tiếng động vọng đến từ phía trên cao khiến ông không nén nổi một nụ cười. Một con khỉ ouistitis bé tí xíu đang bị lôi tuột xuống gốc cây bởi sức nặng của cái máy ảnh mà nó không muốn buông ra.
Ông hút hết điếu xì-gà. Với con dao rừng, ông giúp lũ kiến cạo sạch sẽ hộp sọ, rồi bỏ bộ hài cốt vào một cái túi.
Tên người Mỹ xấu số chỉ thành công giữ lại được một vật dụng duy nhất: cái thắt lưng, mà bầy khỉ không tháo được mặt khoá mạ bạc có hình móng ngựa.
Ông trở về làng El Idilio đưa tất cả những đồ tìm được cho xã trưởng. Hắn để cho ông yên. Còn ông cũng cố gắng làm tất cả mọi điều để giữ lấy không khí hoà bình. Bởi những khoảnh khắc hạnh phúc lúc ông đứng trước bàn, mặt hướng ra dòng sông, đọc tiểu thuyết tình yêu phụ thuộc vào điều đó.

VII

Dân chúng tập trung từ sáng sớm, lúc người ta mới chỉ đoán được những tia nắng đầu tiên lấp ló sau những đám mây dầy. Họ lục tục kéo nhau tới, đi chân đất, quần xắn tới đầu gối, vừa đi vừa nhẩy tránh những đống bùn ở trên đường.
Xã trưởng ra lệnh cho vợ mang cà phê và chuối xanh phục vụ mọi người, trong khi hắn phân phát đạn. Mỗi người được nhận ba băng đạn kép, cộng thêm vài điếu thuốc lá được buộc thành bó, diêm và một chai rượu Frontera.
— Việc này thì nhà nước trả tiền; các người phải ký giấy biên nhận khi xong việc.
Mọi người ăn uống và chuyền tay nhau những ngụm rượu đầu tiên trong ngày.
Antonio José Bolivar ngồi cách xa mọi người, và không đụng đến bữa ăn sáng để trong cái nồi sắt trắng.
Ông đã ăn từ rất sớm vì biết rằng đi săn khi quá no bụng là một điều không tốt. Người thợ săn bao giờ cũng phải hơi đói, bởi vì cơn đói khiến những giác quan tỉnh táo. Ông không ngừng nhổ nước bọt lên lưỡi dao, mài đi mài lại con dao rừng, rồi nheo mắt lại để kiểm tra độ bén của lưỡi thép.
— Chương trình sẽ như thế nào? — Một người hỏi.
— Chúng ta sẽ đi tới nhà của Miranda, rồi tính sau.
Lão béo rõ ràng không phải là người biết tính toán. Sau khi kiểm tra một cách phô trương khẩu súng Smith&Wesson đã được nạp đạn, hắn chui đầu vào một bộ quần áo bảo hộ mầu xanh bằng ni-lông chật chội. Bộ quần áo bó siết hắn lại làm lộ những ngấn mỡ.
Bốn người cùng đi không ai cả gan bình phẩm một lời. Họ chỉ cười thầm khi thấy hắn toát mồ hôi đầm đìa như một cái vòi nước gỉ bị buộc phải chảy tong tỏng mãi không thôi.
“Rồi mày sẽ thấy, con sên trần. Mày sẽ biết thế nào là nóng bức trong cái áo mưa kia. Đến con cu của mày cũng sẽ bị nấu chín trong đó.”
Ngoài xã trưởng, tất cả mọi người đều đi đất. Dân chúng bọc mũ rơm trong túi ni lông, còn xì-gà, đạn, diêm... đều được họ gói cẩn thận để vào trong gùi có nắp bằng cao-su. Họ đeo súng không nạp đạn ở trước ngực.
— Xin phép ông, tôi nghĩ đôi ủng cao-su sẽ làm ông vướng víu trong chuyến đi. — Một người nói
Lão béo làm ra vẻ không nghe thấy, giơ tay ra hiệu khởi hành.
Họ nhanh chóng bỏ lại ngôi nhà cuối cùng của El Ildilio ở lại sau lưng và đi sâu vào rừng. Trời ngớt mưa, nhưng nước mưa nặng nề trút xuống từ những tán lá. Mưa bị giữ lại trên mái cây rừng, rồi đọng lại trên lá, cho đến lúc cành cây không chịu nổi sức nặng, đổ chúng xuống với tất cả hương vị của rừng.
Họ đi chậm chạp vì bị ngăn cản bởi bùn, cành cây, và những cây bụi xông ra lấn chiếm con đường mòn với tất cả sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.
Họ chia thành toán nhỏ để di chuyển dễ dàng hơn. Hai người đi trước dùng dao rừng mở đường. Kế đó là xã trưởng vừa đi vừa thở hổn hển, ướt từ trong ra ngoài. Hai người đi chặn hậu và chặt nốt những cành cây bị bỏ sót.
Antonio José Bolivar thuộc vào số người đi cuối.
— Mọi người hãy nạp đạn vào. — Lão béo ra lệnh. — Nên chuẩn bị sẵn sàng trước.
— Để làm gì, thưa ông. Băng đạn để trong gùi sẽ được khô ráo.
— Tôi là người chỉ huy ở đây.
— Thưa ngài xã trưởng. Vâng, xin tuân lệnh, đúng đây là đạn của chính phủ. — Mọi người giả vờ nạp đạn.
Sau năm giờ đi bộ, họ mới đi được khoảng hơn 1km. Rất nhiều lần, họ phải dừng lại vì đôi ủng của lão béo.
Chân hắn liên tục tụt xuống bùn với tiếng động như thể bùn sắp sửa nuốt toàn bộ thân thể phì nộn của hắn. Hắn cứ vùng vẫy vụng về, để rồi ngập sâu xuống bùn hơn. Mọi người phải xốc nách hắn lên, nhưng chỉ vài bước tiếp theo, bùn lại ngập tới đầu gối hắn.
Bất ngờ hắn bị mất mất một chiếc ủng. Bàn chân được giải phóng rút lên trắng nhởn, nhưng để giữ thăng bằng hắn lấp tức dẫm lại xuống đúng vào cái lỗ mà chiếc ủng đã biến mất.
Ông già và những người đi cùng phải kéo hắn lên.
— Chiếc ủng của tôi. Các người phải tìm nó cho tôi. — Lão béo ra lệnh.
— Chúng tôi đã nói nó chỉ gây thêm phiền toái cho ông. Ủng đã mất rồi, hãy làm như chúng tôi. Hãy dẫm lên những cành cây mục. Đi chân đất dễ dàng hơn, chúng giúp chúng ta đi được nhanh hơn.
Tức giận, xã trưởng cúi người, cố gắng dùng tay vét bùn. Một việc không thể làm được. Hắn chỉ móc lên những nắm bùn đen nhầy nhụa mà không thể đào được một cái hố trên mặt bùn phẳng.
— Nếu tôi là ông, tôi sẽ không làm như thế. — Một người nói. — Người ta không thể đoán được có những con bọ gì đang nằm dưới đó.
— Đúng là thế. — Ông già tiếp lời. — Ví dụ như những con bọ cạp. Chúng ẩn sâu dưới bùn chờ cho đến hết mùa mưa, và rất căm ghét kẻ nào quấy rầy chúng. Những con bọ xấu xa ấy rất bẳn tính...
Xã trưởng, vẫn cúi người xuống, ngước nhìn ông một cách căm ghét.
— Các người nghĩ rằng tôi sẽ nuốt trôi những điều ngu xuẩn ấy à? Các người muốn doạ tôi với những câu chuyện dành cho đàn bà.
— Không phải, thưa ngài xã trưởng, ông hãy chờ tôi một tí.
Ông già cắt một cành cây. Chẻ đôi một đầu để làm thành một cái dĩa, rồi xọc nó xuống nhiều lần trong đám bùn lõm bõm. Cuối cùng ông rút nó lên, dùng dao cạo bùn một cách thận trọng rồi gạt xuống đất một con bọ cạp ở tuổi trưởng thành. Con bọ còn bị phủ đầy bùn, nhưng người ta có thể nhìn rõ, cái đuôi chứa đầy nọc độc của nó dựng đứng lên.
— Ông nhìn thấy chưa. Mồ hôi mồ kê nhễ nhại như ông, đúng là một lời mời ăn tối hấp dẫn với những loài bọ kia.
Xã trưởng không nói gì. Hắn trừng trừng nhìn con bọ cạp đang cố gắng chui lại vào đống bùn, rồi rút súng ra bắn liền sáu viên vào nó. Sau đó, hắn rút nốt chiếc ủng còn lại, vứt vào đám lá.
Lão béo đã vứt ủng đi, mọi người có thể đi nhanh hơn. Nhưng hắn tiếp tục làm mất thời gian khi leo dốc. Sau khi mọi người leo lên dốc một cách dễ dàng, họ phải dừng lại để nhìn xã trưởng leo lên bằng cả hai chân hai tay. Hắn tiến được hai bước, rồi tụt xuống bốn bước.
— Hãy leo lên bằng cách đi giật lùi. — Họ gọi xã trưởng. — Hãy nhìn chúng tôi đây. Nhấc cao chân lên trước khi đặt nó xuống. Ông không chịu nhấc chân cao quá đầu gối. Ông cứ làm như một bà xơ rón rén đi ngang qua cửa trại lính. Nhấc cao chân lên và đi giật lùi.
Lão béo, mắt đỏ lên vì giận dữ, tìm cách leo lên bằng cách của mình, nhưng thân thể nặng nề luôn phản bội hắn. Mọi người phải nắm tay nhau thành một dây dài để kéo hắn lên.
Lúc xuống dốc thì nhanh hơn. Xã trưởng tụt xuống trong đủ mọi tư thế: ngồi, nằm ngửa, hay nằm sấp. Hắn luôn là người xuống nhanh nhất, người lấm bê bết bùn đất và cành cây.
Đến giữa buổi chiều, những đám mây khổng lồ lại bắt đầu tụ lại trên bầu trời. Họ không nhìn thấy, nhưng đoán được vì bóng râm làm cho rừng càng âm u hơn.
— Chẳng thể nào tiếp tục đi được nữa. Không còn nhìn thấy gì cả. — Xã trưởng nói.
— Đấy mới thật là lời nói chí lý. — Ông già trả lời.
— Vậy thì hãy dừng lại ở đây. — Xã trưởng ra lệnh.
— Hãy chờ tôi. Tôi muốn tìm một chỗ an toàn hơn.Tôi sẽ không để mọi người chờ lâu lắm đâu. Mọi người hãy hút thuốc, như vậy tôi dễ định hướng lúc quay lại hơn.
Ông già trao khẩu súng cho một người trong đoàn. Ông biến đi như bị nuốt chửng trong bóng tối. Những người khác ở lại, chụm tay che mưa, để hút xì-gà.
Ông nhanh chóng tìm được một khoảng đất bằng phẳng. Ông đi vài bước chân để đo diện tích và thử thăm dò nền đất với con dao của mình. Đột nhiên, con dao gây một tiếng động như chạm vào sắt, làm ông thở phào nhẹ nhõm. Ông quay trở lại, được định hướng bằng mùi thuốc lá và thông báo với mọi người đã tìm một chỗ để dừng chân qua đêm.
— Đáng tiếc là chúng ta không đốt lửa được. — Xã trưởng than phiền. — Có lửa sẽ an toàn hơn.
— Như thế này tốt hơn. — Một người nhận xét.
— Tôi không thích thế này. Tôi không thích bóng tối. Ngay cả bọn mọi rợ cũng đốt lửa để bảo vệ. — Xã trưởng phân trần.
— Ông nghe này, thưa Ông. Chúng ta ở chỗ an toàn. Nếu giả dụ có con thú đang ở đây. Chúng ta không nhìn thấy nó, nhưng nó cũng không nhìn thấy chúng ta. Nếu chúng ta đốt lửa, điều đó giúp cho nó nhìn thấy chúng ta, nhưng chúng ta vẫn không thể nhìn thấy nó, bởi bị lửa làm chói mắt. Ông cứ yên tâm và cố ngủ đi. Tất cả mọi người đều cần một giấc ngủ cho lại sức. Hơn nữa, nên tránh nói chuyện.
Mọi người tán thành những lời nói của ông già. Họ thoả thuận nhanh chóng với nhau canh gác. Ông già gác phiên đầu tiên.
Đi rừng mệt mỏi làm mọi người thiếp đi nhanh chóng. Họ ngồi xổm như những con chó đang gác. Tay vòng qua đùi, mũ bịt xuống che mặt. Tiếng động đều đều của mưa rừng làm lấp đi những hơi thở đều đều.
Antonio José Bolivar ngồi khoanh chân tựa lưng vào gốc cây. Thỉnh thoảng ông lại vuốt ve vào lưỡi dao rừng của mình và chăm chú theo dõi từng tiếng động. Có những tiếng động lặp đi lặp lại đều đặn, tiếng của một khối khổng lồ đập vào nước làm cho ông biết rằng họ đang ở gần một nhánh sông hay một dòng suối đang trong cơn lũ. Vào mùa mưa, mưa rào làm rơi từ những cành cây xuống vô số côn trùng. Cá quẫy lên đớp mồi. Chúng nhẩy lên vì sung sướng, và thoả mãn.
Ông nhớ lại lần đầu tiên ông nhìn thấy con cá sông thật sự. Đã lâu lắm, thời mà ông còn ngỡ ngàng với rừng.
Một buổi tối đi săn, ông cảm thấy thân thể mình chua loét mồ hôi. Khi đi ngang qua một con suối, ông muốn nhẩy xuống tắm. May mắn, một người thổ dân kịp nhìn thấy và cảnh giác gọi ông.
— Đừng làm thế, rất nguy hiểm.
— Vì có cá pirana hay sao?
Không. Người thổ dân giải thích. Cá pirana sống ở chỗ nước lặng và sâu, không bao giờ chúng sống ở nơi nước chảy xiết. Đấy là một loài cá chậm chạp, chúng chỉ trở nên nhanh nhẹn khi bị đói hay ngửi thấy mùi máu.
Trong thực tế ông chưa bao giờ có chuyện với chúng. Những người thổ dân Shuars dậy ông, chỉ cần trát vào người mủ cao-su là có thể giữ chúng ở xa. Mủ cao-su làm người ta bỏng rát như bị lột da, nhưng cơn ngứa sẽ biến đi, khi người ta ngâm mình xuống nước lạnh. Cá pirana sẽ bỏ đi khi chúng đánh hơi thấy mùi mủ cao-su.
— Còn đáng sợ hơn pirana. — Người thổ dân nói và chỉ cho ông một điểm nổi lên trên mặt suối. Ông nhìn thấy một vết đen dài cỡ độ một mét đang lướt nhanh trong nước.
— Đó là cái gì vậy?
Bagre-guacayamo
Một con cá trê. Loài cá trê khổng lồ. Sau này ông đã câu được những con dài tới 2m và nặng hơn 70kg. Ông cũng được biết rằng loài cá này hiền lành, nhưng lại thân thiện đến chết người. Khi nhìn thấy có người dưới nước, chúng liền sán lại để đùa giỡn và những cú vẫy đuôi của chúng có thể đập gẫy sống lưng người ta.
Những tiếng đập nặng nề trong nước vẫn tiếp tục. Có thể đó là một con cá trê đang đánh chén no nê những con mối, bọ que, châu chấu, dế con, nhện rừng, hay kiến rừng bị nước mưa gạt xuống.
Trong bóng tối, đó là tiếng động của sự sống. Giống như những người Shuars nói: ban ngày có con người và rừng. Ban đêm rừng là một con người. Ông thích thú lắng nghe tiếng động cho đến lúc nó tắt hẳn.
Người đến phiên đổi gác ông dậy trước giờ. Anh ta vươn vai bẻ xương răng rắc và đi đến chỗ ông.
— Tôi ngủ đủ rồi. Ra chỗ tôi mà ngủ. Tôi đã sưởi sẵn cho lão.
— Tôi không mệt. Tôi thích ngủ khi trời rạng sáng hơn một chút.
— Có cái gì đang quẫy trong nước, phải không?
Ông già kể chuyện con cá cho anh ta. Nhưng ông bị ngắt quãng bởi một tiếng động mới đến từ phía một bụi cây.
— Lão có nghe thấy không?
— Suỵt! Hạ thấp giọng xuống.
— Có cái gì vậy?
— Tôi không biết, nhưng chắc chắn là quan trọng. Đánh thức mọi người dậy, nhưng đừng gây tiếng động.
Anh ta chưa kip đứng dậy, thì cả hai đã bị loá mắt bởi một luồng ánh sáng trắng. Nó càng chói hơn do bị khúc xạ bởi nước đọng trên lá rừng.
Đó là xã trưởng đang tiến lại gần tay cầm đèn măng-xông, do bị đánh thức bởi tiếng động.
— Ông tắt đèn đi. — Không cất cao giọng, ông già cứng rắn ra lệnh.
— Tại sao? Có một cái gì đó. Ta muốn xem nó là cái gì. — Lão béo trả lời, chiếu ánh đèn về tứ phía và lên đạn.
— Tôi nói với ông tắt cái đồ bẩn thỉu này đi. Bằng một cái gạt, ông lão hất văng cái đèn xuống đất.
— Lão có quyền gì...
Câu nói của lão béo chìm đi trong tiếng vỗ cánh ầm ĩ. Một thác nước thối đổ lên đầu mọi người.
— Xin chúc mừng ông. Chúng ta chỉ còn nước nhổ trại thật nhanh, trước khi kiến rừng đến tranh ăn đống phân tươi này.
Xã trưởng đứng đờ người. Hắn sờ soạng tìm cây đèn và cố gắng bám theo mọi người rời bỏ địa điểm.
Mọi người lầm bầm những câu chửi không thành tiếng, nguyền rủa sự ngu ngốc của lão béo.
Họ đi tới một bụi cây, để mặc mưa quất xối xả vào mặt.
— Có chuyện gì đã xẩy ra vậy? Đó là cái gì? — Lão béo hỏi khi mọi người dừng lại.
— Phân. Ông không ngửi thấy à?
— Tôi biết đó là phân. Chúng ta ngủ dưới một bầy khỉ à?
Một thứ ánh sáng mờ nhạt bắt đầu làm rõ nét những bóng người và hình khối của rừng già.
— Thưa ông xã trưởng, giá như điều này có thể giúp ông được chút gì. Khi người ta đóng trại trong rừng, thì phải trú dưới một cái cây bị cháy hay đã chết khô. Những con dơi đậu trên đó là những cái chuông báo động tốt nhất. Bởi khi chúng bay theo hướng ngược lại của tiếng động, những con vật đó chỉ cho người ta biết tiếng động đến từ đâu. Nhưng ông đã làm chúng sợ với tiếng quát và cái đèn của ông. Thế là chúng bay mất và ỉa lên đầu chúng ta. Giống như tất cả các loài gặm nhấm, đó là những con vật nhạy cảm. Chỉ cần một tín hiệu nguy hiểm rất nhỏ, chúng sẽ nhả tất cả những gì chứa trong bụng để làm nhẹ mình trước khi bay đi. Thôi, bây giờ ông hãy gội đầu cho kỹ, nếu ông không muốn bị muỗi ăn thịt.
Xã trưởng bắt chước mọi người lau chùi những đám phân hôi thối. Khi họ làm xong, thì trời đã đủ sáng để họ tiếp tục lên đường.
Họ đi bộ ba tiếng liền, luôn hướng về hướng đông, đi vượt qua các dòng suối đang cơn lũ, các khe hẹp, các bụi cây. Họ vừa đi,vừa ngửa mặt hứng nước mưa trên trời cho tỉnh táo, rồi họ dừng chân bên một đầm nước để ăn uống một cái gì đó.
Họ hái quả rừng và bắt cua, mà lão béo từ chối không dám ăn sống. Vẫn quấn tròn mình trong cái áo mưa mầu xanh, hắn run rẩy vì lạnh và tiếp tục than vãn vì không thể đốt lửa.
— Chúng ta đã đi gần đến nơi rồi. — Một người nói.
— Đúng, nhưng chúng ta sẽ đi vòng ra phía đằng sau. Đi thẳng dọc theo dòng suối sẽ dễ dàng hơn, nhưng con thú vốn thông minh và nó có thể dành cho chúng ta một sự bất ngờ. Ông già đề nghị.
Mọi người gật đầu đồng ý, họ nuốt một ít đồ ăn với vài ngụm Frontera.
Nhìn thấy lão béo đang đi ra xa, nấp sau một cái cây nhỏ. Họ lấy khuỷu tay hích nhau làm hiệu.
— Ông lãnh chúa không muốn chìa cái mông trước mặt chúng ta.
— Cái lão ngốc ấy có khi ngu đến mức ngồi xổm trên một tổ kiến lửa mà lại tưởng đang ngồi trên ngai vàng.
— Tôi đánh cược là hắn sẽ tự hỏi lấy đâu ra giấy toa-lét để chùi. — Một người khác chêm vào trong tiếng cười vang của mọi người.
Họ cười sau lưng con sên trần, giống như họ chẳng chừa dịp vắng mặt nào mà không nhắc đến hắn. Những tiếng cười tự nhiên ngừng bặt bởi một tiếng hét hoảng sợ tiếp đó là một chuỗi tiếng súng. Liền sáu phát, hết cả băng đạn một lúc.
Xã trưởng hiện ra, vừa kéo quần lên vừa gọi mọi người.
— Mau lên! Mau lên! Tôi đã nhìn thấy nó. Nó ở đằng sau và định vồ. Tôi đã bắn trúng nó rồi. Mau lên! lại chỗ này đi tìm.
Họ lên đạn và chạy về phía lão béo chỉ. Họ lần theo một vệt máu rộng khiến xã trưởng hân hoan và đi đến trước một con vật có một cái mũi dài đang giẫy những cái giẫy cuối cùng trước khi chết. Bộ lông vàng có đốm của nó lấm máu và bùn. Con vật nhìn mọi người, mắt to thao láo. Một tiếng rên khò khè yếu ớt phát ra từ cái mũi dài như cái kèn.
— Đây là một con gấu ăn mật. Ông không thể nhìn trước khi bắn bằng cái đồ chơi bẩn thỉu của mình à? Bắn chết một con con gấu ăn mật là điềm xấu. Không có một con vật nào trong rừng hiền lành như nó, đến những kẻ ngu ngốc nhất trên đời cũng biết thế.
Mọi người gật đầu, cảm động vì sự bất hạnh của con vật khốn khổ, trong khi xã trưởng nạp đạn tiếp và chẳng tìm được điều gì để biện bạch.
Đã quá trưa, khi họ nhìn thấy tấm biển quảng cáo phai mầu với dòng chữ Alkaseltzer báo hiệu cái quán của Miranda. Đó là một miếng kim loại bằng đồng xanh với dòng chữ đã mờ gần hết mà chủ quán đóng lên trên một thân cây cao gần túp lều của mình.
Họ tìm thấy chủ nhà ở cách cửa một vài mét. Lưng bị xẻ rách bởi hai vết vuốt chạy từ giữa lưng đến thắt lưng. Cổ bị xé nát một cách man rợ, để hở cả xương sống. Người chết nằm sấp mặt, tay vẫn còn nắm chặt con dao rừng.
Mọi người kéo hắn vào trong nhà, không thèm bận tâm đến kỳ công của bầy kiến rừng. Chỉ trong một đêm, chúng đã dựng xong một cái cầu bằng lá và cành cây để khai thác cái xác theo ý muốn. Trong nhà, một ngọn đèn dầu còn cháy leo lét. Khắp nơi bốc mùi mỡ bị cháy.
Khi đến gần cái bếp dầu, họ phát hiện ra nguồn gốc của mùi mỡ. Cái bếp vẫn còn ấm, nhưng dầu đã cạn, và bấc đã cháy hết. Một cái chảo còn đựng hai cái đuôi kỳ đà đã cháy thành than.
Xã trưởng ngắm cái xác.
— Tôi không hiểu. Miranda là một người giầu kinh nghiệm, hắn không phải là một thằng chết nhát. Nhưng người ta có thể nói hắn đã hoảng sợ đến mức không kịp nghĩ tới chuyện tắt bếp. Tại sao hắn không đóng cửa lại để chờ con báo? Súng của hắn vẫn treo trên tường. Tại sao hắn không dùng?
Những người khác cũng đặt câu hỏi tương tự. Xã trưởng cởi cái áo mưa ra. Một suối mồ hôi đổ ròng ròng xuống tận chân. Mọi người vừa tiếp tục ngắm cái xác chết vừa hút thuốc, uống rượu. Một người sửa lại cái bếp dầu, và xin phép xã trưởng cho phép mở những hộp cá hồi.
— Hắn không phải là một thằng tồi tệ.
— Từ ngày vợ hắn bỏ đi. Hắn sống đơn độc còn hơn một thân cây khô. — Một người khác tiếp lời.
— Hắn không có người thân à?
— Không. Hắn tới đây với một người em. Anh ta đã chết vì sốt rét từ lâu. Vợ hắn bỏ hắn đi với một người thợ chụp ảnh rong. Người ta đồn cô ta sống ở Zamora. Có thể thuyền trưởng biết cô ấy hiện sống ở đâu.
— Tôi nghĩ là cái quán này cũng giúp hắn kiếm được chút đỉnh. Các người có biết hắn làm gì với số tiền kiếm được.
— Tiền của hắn? Hắn chơi bài và chỉ giữ lại tiền đủ để mua hàng dự trữ. Ở đây là như thế, nói như vậy phòng trường hợp ông còn chưa biết. Đấy là lúc rừng đã ăn vào gan ruột người ta. Khi chẳng còn hi vọng gì để bám vào, người ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy.
Mọi người xung quanh tán thưởng sự tệ hại ấy với một vẻ kiêu hãnh. Đúng lúc đó, ông già đi vào.
— Còn một cái xác nữa nằm bên ngoài.
Họ vội vàng chạy ra, người ướt lướt thướt vì mưa. Họ phát hiện một cái xác thứ hai. Hắn nằm dang tay ra, quần còn tụt dưới chân. Hai vai bị cầy nát bởi những cái vuốt. Cổ họng rách toang mang đến cho họ một hình ảnh đã bắt đầu trở nên quen thuộc. Con dao rừng cắm xuống đất nói lên rằng nạn nhân không có thời gian để sử dụng nó.
— Tôi nghĩ đã hiểu được sự việc. — Ông già nói.
Mọi người đứng xung quanh cái xác, và theo dõi trong ánh mắt của xã trưởng những cố gắng để hiểu lời giải thích của ông già.
— Xác chết là của Placencio Punan, một gã chẳng mấy khi xuất hiện. Họ có vẻ định ăn cơm cùng nhau. Các ông có thấy hai cái đuôi kỳ đà bị cháy không? Chắc là Placencio mang chúng đến. Người ta không thể tìm thấy loài vật này ở xung quanh đây. Hắn đã phải săn ở đâu đó cách đây ít nhất vài ngày theo đường rừng. Các ông không biết hắn. Hắn không đi tìm vàng như những thằng điên kia. Hắn tin chắc rằng, ở trong rừng sâu, người ta có thể tìm thấy đá quý. Tôi nhớ, có lần hắn kể về Colombia và những viên đá quý mầu xanh to bằng nắm tay. Thằng khốn khổ. Chắc hắn muốn trút cho nhẹ bụng, nên đi ra ngoài. Con thú đã bất ngờ vồ hắn trong tư thế đó. Hắn ngồi xổm, tay bám vào chuôi dao cắm xuống đất. Con báo cái đã tấn công hắn từ trước mặt. Nó đã cắm những cái vuốt lên trên vai, và ngoạm răng vào cổ. Miranda phải nghe thấy tiếng kêu, và chỉ kịp chạy ra chứng kiến điều tệ nhất đã xẩy ra. Vì thế hắn chỉ nghĩ tới việc đóng yên con lừa để chạy trốn. Như người ta đã thấy, hắn không đi được xa.
Một người lật úp cái xác xuống. Trên lưng hắn còn có những vết phân.
— Vẫn còn may là hắn có thời gian để ị. — Anh ta nói. — Họ bỏ cái xác nằm sấp bên ngoài để cho nước mưa rửa sạch hết những dấu vết của hành động cuối cùng mà người chết đã làm trong thế giới này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét