Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

(12) Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam

Bài viết cũ của tôi. Căn cứ của các dự báo này là các Nghị quyết của Đảng và tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng trong giai đoạn thực hiện nghiên cứu này: Đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế lên trên 10%/năm; phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại sớm 2 năm so với kế hoạch (năm 2018 thay vì 2020) trong đó các thành phố, tỉnh trọng điểm còn đạt kế hoạch sớm hơn so với cả nước, ví dụ Hà Nội và Sài Gòn có thể thành các thành phố công nghiệp phát triển hiện đại vào năm 2015... Trên cơ sở các căn cứ này, sẽ xây dựng các dự báo.
Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
MỤC 2: DỰ BÁO TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2015 
1) Định hướng tổng quát cho các dự báo
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nước ta đến năm 2020 đã được Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra và được các Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X tái khẳng định là “phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Mặt khác, căn cứ vào dự báo môi trường trong nước và quốc tế trong tương lai xa tương đối thuận lợi, các dự báo sơ bộ đều cho thấy kinh tế Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XXI sẽ tăng trưởng nhanh, trong đó 10 năm 2011-2020 là giai đoạn tốc độ tăng trưởng bình quân có thể tăng lên rất cao.
Nhiều dự báo bước đầu cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ cao và liên tục trong ít nhất 1- 2 thập kỷ tới như kinh nghiệm của Trung Quốc hay nhiều nước trong khu vực Đông Á. Đó là vì mặc dù tiềm ẩn những nhân tố bất ổn lớn, có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, song với thành tựu của 25 năm đổi mới (1986-2010), Việt Nam có khả năng vượt qua những thách thức, phát huy được nhiều nhân tố tích cực trong và ngoài nước vào thực hiện mục tiêu phát triển đất nước.
Do vậy, cần đứng trên tầm nhìn chiến lược để nắm chắc lấy thời cơ và vận hội lớn này nhằm triển khai nhiều việc lớn, tạo ra bước chuyển biến mang tính lịch sử, làm cho đất nước có bước tiến nhảy vọt với lực lượng sản xuất nhanh chóng được hiện đại hóa. Đồng thời, nên coi giai đoạn 2011-2045 là giai đoạn phát triển mới, khác hẳn về chất so với những giai đoạn trước (1945-1975, 1976-1986, 1986-2010); trong đó giai đoạn 2011-2020 là giai đoạn đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chuyển mạnh đất nước từ vị trí khởi đầu ở ngưỡng nước có thu nhập trung bình sang vị trí cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống nhân dân bắt đầu khá giả, nâng cao được sức cạnh tranh và vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Xuất phát từ nhận thức trên, có thể dự báo đầu tư, tiết kiệm trên cơ sở ý tưởng về mục tiêu phát triển tổng quát của Việt Nam đến năm 2020 như sau:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Phấn đấu đưa nước ta từ vị trí khởi đầu ở ngưỡng nước có thu nhập trung bình sang cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đời sống nhân dân bắt đầu khá giả. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng xây dựng một nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, quy mô lớn; chất lượng và sức cạnh tranh quốc tế được nâng cao rõ rệt, dựa trên khai thác tốt các tiềm năng của đất nước, nhất là tiềm năng về con người. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khai thác có hiệu quả cao các quan hệ đối ngoại. Hệ thống giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến đột phá về số lượng và chất lượng. Ứng dụng khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái và nhân tố con người, và khoa học và công nghệ trở thành động lực phát triển. Xoá bỏ hiện tượng nghèo khổ tuyệt đối; mọi người đều được chăm sóc y tế. Văn hoá, xã hội phát triển vừa hiện đại, vừa mang bản sắc dân tộc và vừa đồng bộ với phát triển kinh tế. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia... Phấn đấu đến năm 2020, đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tức là cơ bản hoàn thành bước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển trong những năm tiếp theo[1].
Về tăng trưởng kinh tế, mục tiêu cụ thể của Chiến lược 10 năm 2011-2020 là phấn đấu đưa GDP năm 2020 lên ít nhất 2,6-3 lần năm 2010 (tính theo giá cố định); tốc độ tăng trưởng GDP trung bình đạt 10-12%/năm.
Mục tiêu tăng trưởng 10-12% được xây dựng dựa trên các căn cứ sau:
- Các định hướng phát triển lớn đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và những chủ trương, định hướng phát triển mang tính dài hạn đề ra tại các Hội nghị Trung ương khoá IX, X;
- Các dự báo về khả năng phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020;
- Những dư địa lớn còn rất lớn có thể khai thác;
- Khả năng mở rộng rất nhanh các loại thị trường trong nước là hết sức to lớn do dân số đông và trong những năm qua các loại thị trường này chưa được chú trọng khai thác.
- Tốc độ hội nhập quốc tế ngày càng nhanh và sâu sắc; thị trường ngoài nước được mở ra nhanh…, tạo thêm nhiều thuận lợi mới để thực hiện các cân đối vĩ mô theo hướng tăng hiệu quả kinh tế xã hội toàn diện, thúc đẩy quá trình tham gia tích cực, chủ động của nước ta vào phân công lao động quốc tế.
Việc đề ra mục tiêu tăng trưởng GDP cao tới 10-12%/năm có thể cho phép đạt được mục tiêu do các Đại hội Đảng đề ra. Theo các tính toán sơ bộ, với tốc độ tăng trưởng 8-8,5% cho giai đoạn 2006-2010 và 10-12% cho giai đoạn 2011-2020, đến năm 2020, GDP theo giá cố định 1994 đạt khoảng 1500-1750 nghìn tỷ đồng, gấp 11,4-13,5 lần so với GDP năm 1990, vượt mạnh so với mục tiêu Đại hội lần thứ VIII đề ra; GDP theo giá hiện hành dự kiến đạt khoảng 8900-10500 nghìn tỷ đồng, quy đổi ra USD khoảng 420-500 tỷ USD (chỉ số giá GDP tăng 7%/năm; tỷ giá được điều chỉnh hàng năm tăng 2% so với năm trước); GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt khoảng 4400-5200 USD.
Nếu chỉ căn cứ vào tiêu chí GDP bình quân đầu người thì đến năm 2020, nước ta vẫn ở mức thấp so với các nước khác khi trở thành nước công nghiệp và tham gia tổ chức các nước hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Các nước này khi tham gia vào tổ chức OECD thường có GDP đầu người trên 8000-9000 USD. Nếu tính theo tỷ giá PPP thì GDP năm 2020 của nước ta có thể đạt cao hơn, khoảng 14.000-16.000 USD/người, song vẫn thấp so với các nước khi trở thành nước công nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, việc so sánh, đánh giá trình độ phát triển của một nước, đặc biệt là ngưỡng để chuyển từ một nước đang phát triển sang một nước công nghiệp phát triển, không thể chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất là GDP bình quân đầu người mà còn phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác. Nếu như trước năm 1960, người ta thường chỉ nhìn vào chỉ tiêu GDP bình quân đầu người thì trong 4 thập kỷ cuối của thế kỷ XX, người ta đã chuyển sang đánh giá theo chỉ số phát triển con người (HDI). Đặc biệt, trong những năm đầu thế kỷ XXI, chỉ số HDI đã được xem là lạc hậu vì được xây dựng chỉ dựa trên 3 tiêu chí (GDP bình quân đầu người, trình độ học vấn và tuổi thọ). Hiện nay, thế giới đang nghiên cứu xây dựng chỉ số mới, xu hướng chung là dựa trên tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển thiên nhiên kỷ (MDG). Nếu căn cứ theo phương pháp đánh giá này thì trình độ phát triển của nước ta cao hơn nhiều so với chỉ căn cứ vào một tiêu chí duy nhất là GDP bình quân đầu người.
Mặt khác, công nghiệp hoá là chặng đường phát triển tất yếu của các nền kinh tế đi từ kinh tế tự nhiên, qua kinh tế nông nghiệp, sang kinh tế công nghiệp, đến kinh tế hậu công nghiệp (kinh tế tri thức). Nhưng mỗi nước, nhóm nước lại có những đặc điểm riêng khác nhau, mỗi thời đại có những điều kiện khác nhau, nên con đường công nghiệp hoá mà mỗi nước lựa chọn và thực hiện cũng không giống nhau và khi trở thành nước công nghiệp thì ngưỡng đánh giá cũng không giống nhau... Vì vậy, trong nghiên cứu này, có thể định hướng tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta giai đoạn 2011-2020 khoảng 10-12%/năm. Tuy nhiên, điểm mấu chốt vẫn là khả năng đạt được mục tiêu trên thông qua dự báo tốc độ tăng trưởng tiềm năm dưới đây.
2) Dự báo tỷ lệ đầu tư (s)
Trong nghiên cứu này sẽ dự báo tỷ lệ đầu tư trên GDP theo cách tính thông thường hiện nay, tức là tính với đầu tư và GDP đều theo giá hiện hành. Theo nhiều phân tích (không được trình bày lại ở đây), tỷ lệ đầu tư trên GDP theo giá hiện hành của ta hiện nay đã cao hơn nhiều so với trung bình của các nước đang phát triển châu Á trong khi tỷ lệ đầu tư của khu vực châu Á đã và đang dẫn đầu thế giới nên tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế nước ta cũng đang vào loại rất cao so với trình độ thế giới; do đó chúng ta khó có thể cứ liên tục nâng tỷ lệ đầu tư lên cao mãi (xem bảng 16  và hình minh hoạ rút từ báo cáo kinh tế 2008 của Ngân hàng phát triển châu á - ADB – dưới đây).
Bảng 16: Tỷ lệ đầu tư trên GDP của một số nước (%)(*)
Nước và lãnh thổ
1979-1990
1991-1997
Hồng Kông
28,4
31,1
Singapo
41,8
35,3
Hàn Quốc
31,2
36,7
Trung Quốc
35,5
39,0
Malaixia
30,4
39,7
Thái Lan
30,3
39,4
Inđônêxia
28,7
32,3
Philippin
23,1
23,0
ấn độ
23,1
23,2
Pakistan
18,6
19,1
Bangladesh
11,5
14,4
Mianma
18,5
17,2
Mỹ
18,7
16,6
Anh
17,8
15,6
Pháp
21,3
18,8
Nhật Bản
30,0
29,8

          Hình 1: Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam và một số nước 2005-2007 – VN đứng thứ ba trong bảng xếp hạng, chỉ sau Bhutan và Trung Quốc (trích từ báo cáo Các chỉ tiêu kinh tế vùng Châu á - Thái Bình Dương 2008 của ADB)

Mặt khác, các lý thuyết kinh tế đều cho rằng trong mỗi giai đoạn phát triển, bao giờ cũng tồn tại một quan hệ tỷ lệ tối ưu giữa đầu tư và tiêu dùng (mà Các Mác đã dùng thuật ngữ cấu tạo hữu cơ của tư bản - C/V - để diễn đạt). Khi xảy ra mất cân bằng trong quan hệ tỷ lệ trên, ví dụ đầu tư quá nhiều so với trả công cho người lao động thì hiệu quả vốn đầu tư nói riêng và hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống kinh tế nói chung sẽ phải giảm xuống.
Chính vì vậy, nhiều nước như Trung Quốc, Singapo, Ấn Độ... đã và đang phải điều chỉnh giảm tỷ lệ đầu tư của mình để kìm hãm sự phát triển quá nóng (quá so với tiềm năng dài hạn) của nền kinh tế và tình trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm sút. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước, nhiều nước Đông Á đã không giữ tỷ lệ đầu tư - tiêu dùng ở mức tối ưu mà đưa tỷ lệ đầu tư lên những mức rất cao, dẫn tới mất cân đối giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư, buộc phải vay mượn vốn nước ngoài quá nhiều, từ đó phát sinh khủng hoảng kinh tế (Thái Lan, Hàn Quốc, Inđônêxia, Philippin và Hồng Kông). Phân tích các số liệu cũng cho thấy các nước công nghiệp duy trì được tỷ lệ đầu tư trên GDP rất ổn định trong suốt 3 thập kỷ 70, 80 và 90 của thế kỷ XX và trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI; đây có thể được coi là tỷ lệ đầu tư tối ưu đối với các nước này.
Với những phân tích kể trên, có thể tin rằng tỷ lệ đầu tư của ta sẽ tiếp tục tăng lên song khó có thể tăng mạnh theo xu thế cũ được nữa mặc dù chúng ta đang và sẽ tiếp tục trong giai đoạn tăng tốc, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế, Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra tỷ lệ đầu tư tương đối ôn hoà cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, khoảng 31-32% GDP; với tỷ lệ đầu tư này, Đại hội Đảng dự kiến vẫn đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm và có công trình gối đầu cho kế hoạch 5 năm tiếp theo. Tỷ lệ đầu tư trên tương ứng với yêu cầu tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế khoảng 28-30% GDP. Đối với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, do nhu cầu phát triển nhanh hơn trong bối cảnh có nhiều thuận lợi hơn, Đại hội Đảng lần thứ X đã đặt ra tỷ lệ đầu tư cao hơn so với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, lên khoảng 40% GDP. Với tỷ lệ đầu tư này, dự kiến tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ đạt khoảng 8,5%/năm và có công trình gối đầu cho kế hoạch 5 năm tiếp theo.
Điều này cũng phù hợp với chủ trương phát triển dài hạn của Đảng vì Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX cũng đặt ra yêu cầu tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế khoảng trên 30% GDP trong thời kỳ Chiến lược 10 năm 2001-2010. Điều này cũng có nghĩa là tỷ lệ đầu tư trên GDP trung bình trong thời kỳ Chiến lược 10 năm 2001-2010 sẽ khoảng trên 33% và được dồn vào kỳ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010.
Như vậy, có thể dự đoán về mặt chính sách, nếu như thực hiện đúng Nghị quyết của Đại hội Đảng và tôn trọng các quy luật khách quan của nền kinh tế, chúng ta sẽ cố gắng đưa tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng lên khoảng 40% trong nửa cuối của thập kỷ đầu tiên của thế kỳ XX, và tăng nhẹ trong giai đoạn sau năm 2010. Dự kiến tỷ lệ đầu tư trên GDP trung bình thời kỳ 2008-2015 khoảng 40% hoặc cao hơn một chút. Chính sách này đặt ra nhằm tạo ra quan hệ cân đối hơn giữa tích luỹ và tiêu dùng, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
3) Về hệ số ICOR:
Khó khăn rất lớn của nước ta hiện này là làm sao giảm được hệ số ICOR đang rất cao để phù hợp với giai đoạn đầu phát triển, tức là đưa ICOR tính theo giá hiện hành về mức khoảng 4-4,2 trong giai đoạn từ nay đến năm 2015. Tính theo giá cố định, hệ số này sẽ giảm dần và ổn định ở khoảng 3,6-4 để trở về mức hiệu quả tiềm năng (tức là giảm tình trạng lãng phí và kém hiệu quả quá mức hiện nay), sau đó tăng dần trong giai đoạn sau khi nền kinh tế đi vào giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá mạnh mẽ với nhu cầu vốn rất cao để nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của nền kinh tế.
Theo kết quả tính toán từ các mô hình đơn giản, mặc dù tỷ lệ đầu tư trong những năm tới tăng không đáng kể nhưng nếu đưa được hệ số ICOR về đúng tiềm năng của nó, tức là sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hơn một chút, tương đương với cận trên của các nước đang phát triển mặc dù vẫn cao hơn nhiều so với trong nửa đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, thì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nước ta sẽ tăng lên nhanh chóng, tương ứng với tiềm năng của nền kinh tế.
Bên cạnh kịch bản lạc quan trên, có thể đưa ra một số kịch bản khác, đặc biệt là kịch bản tiếp tục xu thế đầu tư kém hiệu quả như hiện nay; khi đó, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nước ta sẽ tiếp tục tăng nhẹ trong những năm sắp tới nhờ tỷ lệ đầu tư tiếp tục tăng lên. Tuy nhiên, khi tỷ lệ đầu tư bắt đầu tăng đến mức giới hạn (do tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không tăng mạnh để tăng thêm nguồn tích luỹ cho đầu tư; đồng thời viện trợ nước ngoài bắt đầu chậm lại...) thì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sẽ đi xuống do hiệu quả vốn đầu tư tiếp tục giảm sút. Đây là tình trạng nguy hiểm cần cảnh báo sớm.
Một trong những nguyên nhân quan trọng quan trọng nhất làm cho vốn đầu tư kém hiệu quả là chúng ta đã và đang quá tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp điều chỉnh cơ cấu kiên quyết để chuyển sang phát triển các ngành sử dụng ít vốn, nhiều lao động vì nguồn lao động dồi dào là một lợi thế rất lớn và không thể chối cãi của ta trong giai đoạn hiện nay.
Kinh nghiệm các nước Đông á cũng cho thấy, quá trình công nghiệp hoá tốt nhất là bắt đầu bằng việc phát triển các ngành có hệ số vốn thấp nhưng sử dụng nhiều lao động. Các nước Đông á theo đuổi chiến lược này trong suốt ba thập kỷ qua nên có được những tỷ lệ tăng trưởng kinh tế rất cao, nhưng lại giữ được hệ số ICOR rất thấp, đồng thời cũng thu hút được một lượng lao động rất lớn. Như vậy vốn đầu tư ở đây không bị sử dụng lãng phí mà được tập trung vào đúng vào các ngành nghề phù hợp với giai đoạn đầu của công nghiệp hoá: các ngành nghề sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là các ngành nghề sử dụng lao động làm hàng xuất khẩu thông qua khai thác tối đa các đầu vào tại chỗ kết hợp với nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu và sản phẩm trung gian có hàm lượng vốn cao.
Nước ta có thể đi theo con đường này bằng cách phát triển các ngành hướng về xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động, đồng thời khai thác tốt các lợi thế so sánh khác của ta như điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, kỹ năng và đức tính cần cù của người lao động... Danh mục các ngành này tương đối phong phú, trước hết là các chủng loại nông sản nhiệt đới đa dạng nhưng có chọn lọc kỹ càng, ngư nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nhẹ khác sản xuất trên địa bàn nông thôn, dệt may, giày dép, dụng cụ sinh hoạt gia đình, đồ chơi, văn phòng phẩm, thiết bị điện và hàng điện tử dân dụng, hàng thủ công mỹ nghệ... Chỉ sau khi đã có thu nhập cao, tích luỹ được nhiều vốn thì mới từng bước chuyển sang giai đoạn phát triển cao hơn, sản xuất các sản phẩm tinh vi hơn, cần nhiều vốn hơn và chứa hàm lượng lao động ít hơn. Quá trình này cứ tiếp tục theo các lập luận của lý thuyết đàn nhạn bay.
Tập trung vào các ngành sử dụng nhiều lao động là một giải pháp tối ưu, nhưng trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, các ngành đó cũng phải nhanh chóng sử dụng các công nghệ tiên tiến và nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá đối với từng sản phẩm. Theo kinh nghiệm của các nước Đông á, lúc đầu cần phải nhập khẩu công nghệ của nước ngoài, nhưng sau đó phải nghiên cứu phát triển lên thành kỹ thuật của riêng chúng ta thì mới có đủ sức cạnh tranh dài hạn.
Một số ý kiến cho rằng nếu cứ phát triển dựa vào nguồn lao động rẻ tiền, và các ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp thì đất nước sẽ không thể tiến nhanh được. Điều này hoàn toàn đúng, nhưng không có nghĩa là chiến lược này không cho phép đạt được những tốc độ tăng trưởng đến 10%/năm và dài hạn vì lực lượng lao động của nước ta còn rất đông đảo, chịu khó và tay nghề khá. Kinh nghiệm cho thấy các nước Đông Á đã đạt được những tốc độ tăng trưởng như vậy trong 3-4 thập niên qua, tạo ra cái gọi là điều thần kỳ châu Á. Trung Quốc cũng chỉ là một ví dụ giống như các nước Đông Á khác, nhưng vì là một nước lớn, lại mới nổi lên trong 2 thập kỷ gần đây nên đã và đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của thế giới.
Mặt khác, cần phải thấy rằng một nền kinh tế quy mô khá lớn, nhưng nghèo và đông dân như nước ta sẽ không thể phát triển theo kiểu nhảy cóc, bỏ qua các giai đoạn phát triển bình thường được. Lý thuyết đàn nhạn bay trong kinh tế học phát triển đã khảng định điều đó. Việc đốt cháy các giai đoạn có nguy cơ khủng hoảng kinh tế rất cao và rất tốn kém. Vì vậy, chiến lược phát triển lựa chọn của chúng ta cơ bản vẫn phải tuân theo quy luật phát triển chung, nhưng có những ngành, nghề có thể phát triển nhanh hơn, đi tắt đón đầu, nếu chúng ta biết tận dụng được những thành tựu của nhân loại, đồng thời khai thác được thế mạnh sẵn có của chúng ta; tuy nhiên, điều chắc chắn rằng số ngành nghề như vậy sẽ không thể và không nên nhiều.
Ngoài ra, cần phải nghiên cứu kỹ và tiến hành thận trọng quá trình chuyển dịch cơ cấu. Ví dụ trong nông nghiệp, cần nghiên cứu kỹ hơn ảnh hưởng của việc Trung Quốc gia nhập WTO để có giải pháp lựa chọn cơ cấu hợp lý. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhanh có thể dẫn tới mất cân đối cung cầu trên thị trường nội địa (ví dụ mất an ninh lương thực) hoặc mất cân bằng hệ sinh thái (thủy sản hay trồng rừng). Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển mạnh các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nông thôn không phải là dễ dàng nếu như không có những thay đổi lớn về nhận thức và hành động vì chúng ta không sẵn có các cơ sở công nghiệp mạnh ở nông thôn để tạo ra một mạng lưới công nghiệp rộng rãi; các doanh nghiệp công nghiệp địa phương hiện nay phần lớn đều thuộc sở hữu nhà nước và hoạt động rất yếu kém; điều này có nghĩa là khu vực doanh nghiệp tư nhân sẽ phải đóng vai trò chủ yếu trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn. Tuy nhiên khu vực này đã và đang phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trong đó nổi cộm nhất là các chính quyền địa phương không có thái độ thân thiện với các doanh nghiệp tư nhân.
Với nhận thức như vậy, có thể dự báo việc huy động các nguồn vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cho những năm tới (2008-2015) sẽ cơ bản diễn ra thuận lợi. Tuy nhiên nhân tố quyết định để đảm bảo đủ nguồn vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cho những năm tới chính là nâng cao chất lượng đầu tư. Hệ số ICOR hiện nay khoảng là 5 nhưng với những đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, về cải cách các thủ tục hành chính..., chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao chất lượng sử dụng vốn đầu tư thêm 15-20% để giảm hệ số ICOR trong giai đoạn từ nay đến năm 2015.
Khi đó, với tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng lên và chất lượng đầu tư được cải thiện, tốc độ tăng trưởng GDP trong suốt thập kỷ tới hoàn toàn có thể cao hơn hiện nay như kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước khác đã trải qua.
4) Dự báo tốc độ tăng trưởng GDP từ này đến năm 2015
Theo nguyên tắc dự báo dài hạn nêu trên, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta từ này đến năm 2015 có thể xảy ra theo một trong ba kịch bản dưới đây:
(1) Tăng trưởng theo xu thế (tăng trưởng chưa khai thác được tiềm năng):
Phương án tăng trưởng theo xu thế được xây dựng trên cơ sở giả định tỷ lệ đầu tư trên GDP giữ vững ở mức 40% trong những năm còn lại của nửa cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỳ XX, và tăng nhẹ lên 41% trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; đồng thời chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế (thể hiện qua hệ số ICOR) giữ như hiện nay trong giai đoạn 2008-2010 và tăng nhẹ trong những năm tiếp sau (ICOR = 4,6).
Khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trung bình giai đoạn 2008-2010 là 8,3%; giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 là 8,9-9%. Tốc độ tăng trưởng 9% chưa thể đảm bảo đạt được định hướng mục tiêu tăng trưởng như Đại hội Đảng đề ra.
Lưu ý việc dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế dài hạn thường tính chung cho một số năm (tính trung bình); theo đó, tốc độ tăng trưởng hàng năm có thể khác nhau, thậm chí rất khác nhau, nhưng sau mỗi bước suy thoái thường lại có giai đoạn bùng nổ để bù vào; do đó tốc độ tăng trưởng trung bình dài hạn vẫn được đảm bảo. Chính sách quản lý kinh tế vĩ mô có mục tiêu ổn định tốc độ tăng trưởng, chống các chu kỳ suy thoái, bùng nổ… vì hiện tượng này có xu hướng làm giảm tốc độ tăng trưởng tiềm năng.
(1)  Tăng trưởng lạc quan (tăng trưởng khai thác được tiềm năng):
Phương án tăng trưởng lạc quan được xây dựng trên cơ sở giả định tỷ lệ đầu tư trên GDP sẽ tăng lên mức 41% trong những năm còn lại của nửa cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỳ XX, và tăng mạnh lên 44% trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; đồng thời chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế (thể hiện qua hệ số ICOR) giữ như hiện nay trong giai đoạn 2008-2010 và tăng mạnh trong những năm tiếp sau (ICOR = 4,2).
Khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trung bình giai đoạn 2008-2010 là 8,5%; giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 là 10,5%. Tốc độ tăng trưởng 10,5% như trên có thể đảm bảo đạt được định hướng mục tiêu tăng trưởng như Đại hội Đảng đề ra.
(3) Tăng trưởng bi quan (tăng trưởng chưa khai thác được tiềm năng, đồng thời xuất hiện thêm nhiều nhân tố ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng)
Theo phương án này, tỷ lệ đầu tư trên GDP giữ vững ở mức 40% trong những năm còn lại của nửa cuối thập kỷ đầu tiên của thế kỳ XX và tiếp tục duy trì ở mức này trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015; đồng thời chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế (thể hiện qua hệ số ICOR) giữ như hiện nay trong giai đoạn 2008-2015 (ICOR = 4,8).
Khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta trung bình giai đoạn 2008-2010 là 8,3% và trong giai đoạn 2011-2015 cũng vẫn là 8,3%. Tốc độ tăng trưởng này kém xa so với định hướng mục tiêu tăng trưởng như Đại hội Đảng đề ra mặc dù so với các giai đoạn trước, đây là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm cao nhất.


[1] Việc xác định rõ các bước đi trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta chưa được các Đại hội Đảng làm rõ. Tuy nhiên, về thời kỳ quá độ, Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã xác định phải qua hai chặng đường: Chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội và xây dựng những tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa. Chặng đường thứ hai là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa. Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 xác định mục tiêu của Chặng đường đầu tiên là đạt tới trạng thái ổn định, vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng đường tiếp sau. Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đã xác định từ năm 1975 đến 1996, cả nước đã đi qua chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH, đồng thời đã tạo được những tiền đề cần thiết để đẩy nhanh tốc độ công nghịêp hóa đất nước. Đại hội cũng xác định chúng ta đã chuyển sang chặng đường tiếp sau, được gọi là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; "nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", “GDP năm 2020 tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990”. Đặc biệt, tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng ta đã khẳng định “làm được những việc nói trên sẽ là một bước tiến lớn trên con đường quá độ lên CNXH ở nước ta”.
Các đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001 và X năm 2006 đã bổ sung, hoàn thiện nhiều quan điểm về CNH, HĐH, hoàn chỉnh đường lối CNH, HĐH và định hướng chiến lược CNH, HĐH trong giai đoạn đến năm 2010, đồng thời tái khẳng định phấn đấu “để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Như vậy, có thể xem thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước kéo dài 25 năm (1996-2020) với những thành tựu to lớn vượt dự kiến của các Đại hội Đảng VIII-X là giai đoạn hoàn thành thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta; đồng thời giai đoạn 25 năm tiếp theo (2021-2045) là giai đoạn đất nước chuyển sang xây dựng CNXH, để đến năm 2045 cơ bản trở thành một nước XHCN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét