Bài giảng về Lạm phát của tôi
(bản để giảng tại Lào và Campuchia):
(bản để giảng tại Lào và Campuchia):
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ LẠM PHÁT VÀ CHỐNG LẠM PHÁT TẠI NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
Xuất phát từ những nguyên nhân của lạm phát nêu trên, hệ thống các giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam bao gồm 2 loại: Loại chính sách áp dụng ngắn hạn để chống lạm phát đã trở lên quá cao và loại chính sách dài hạn để đưa lạm phát cao về lạm phát thấp và ổn định lạm phát.
Vì trước năm 1989, lạm phát chưa được công nhận tồn tại ở Việt Nam nên hầu như chưa có giải pháp chống lạm phát. Do vậy, nghiên cứu kinh nghiệm chống lạm phát ở Việt Nam trong báo cáo này chỉ căn cứ vào chính sách chống lạm phát áp dụng từ năm 1989.
3.1) Một số vấn đề tồn tại trong nền kinh tế trước khi thực hiện chính sách chống lạm phát năm 1989
Mặc dù đã có một số bước đi tích cực trong cải cách kinh tế giai đoạn 1986-1988, nhưng nhìn chung đây mới chỉ là giai đoạn thử nghiệm, tìm tòi; số giải pháp chính sách xây dựng theo nguyên tắc của kinh tế thị trường được triển khai còn rất hạn chế. Đến cuối năm 1988, đầu năm 1989, nền kinh tế nước ta còn tồn tại hàng loạt vấn đề nan xử lý để ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế, cụ thể là:
- Tính chất độc quyền Nhà nước trong sản xuất kinh doanh còn rất phổ biến. Đầu năm 1989, Nhà nước vẫn nắm độc quyền kinh doanh trên hầu hết các lĩnh vực nội thương, ngoại thương, ngân hàng, sản xuất và lưu thông các sản phẩm chủ yếu. Do vậy, dù đã có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, nhưng thành phần kinh tế này vẫn không có đất để phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Bên cạnh đó, cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp còn rất nặng nề làm cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không thể tiếp cận tới các đầu vào (nguyên nhiên vật liệu, năng lượng, vốn, đất đai...) phục vụ sản xuất.
- Tình trạng thị trường bị chia cắt còn rất lớn; mỗi địa phương vẫn gần giống như là một thị trường khép kín. Theo cơ chế kế hoạch hoá lúc đó, mỗi địa phương có trách nhiệm cung cấp cho Nhà nước trung ương một số loại sảm phẩm với số lượng và thời hạn do kế hoạch cấp trên giao, đồng thời được Nhà nước cung cấp cho một số hàng hoá, vật tư, thiết bị, tiền vốn... để tái sản xuất. Do cơ chế như vậy, nên các địa phương không có nhu cầu trao đổi hàng hoá với nhau. Trong điều kiện cung lớn hơn cầu của chế độ bao cấp, họ thường đóng cửa biên giới địa phương mình với các địa phương khác để giữ hàng hoá của mình đảm bảo nộp đủ cho cấp trên và chống hiện tượng hàng hoá do cấp trên rót cho mình chạy sang địa phương khác. Từ đây dẫn tới nền thương mại của Việt nam bị chia cắt, kinh tế hàng hoá không thể phát triển mạnh, và do đó ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế.
- Cải cách về giá lương tiền thực hiện năm 1985 tuy mang tính đột phá nhưng đã thất bại. Trong các năm 1986-1988, Nhà nước đã thực hiện nhiều đợt điều chỉnh mặt bằng giá mới trong khu vực kinh tế Nhà nước, và cứ sau một khoảng thời gian ngắn thì giá được điều chỉnh mới lại tỏ ra lạc hậu, Nhà nước lại phải nâng giá khu vực Nhà nước lên. Nguyên nhân là do Nhà nước vẫn duy trì cách quản lý giá theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, không trả lại chức năng định giá cho thị trường. Đặc biệt, việc điều hành giá bị tách hoàn toàn với điều hành tiền tệ trong khi đã phát hành những khối lượng tiền lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách, do đó không thể ngăn chặn được hiện tượng tăng giá và lạm phát.
- Cho đến đầu năm 1989, hệ thống giá ở Việt nam về cơ bản vẫn là hệ thống giá cả Nhà nước, do Uỷ ban Vật giá Nhà nước xây dựng và quy định áp dụng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khu vực kinh tế thị trường, hệ thống giá trên thị trường tự do ngày một lớn mạnh; chênh lệch giữa giá trên thị trường Nhà nước và thị trường tự do ngày một tăng cao; những kẻ đầu cơ và quan chức mất phẩm chất trong bộ máy nhà nước đã lợi dụng chênh lệch này để mua hàng trên thị trường Nhà nước với giá thấp rồi bán ra thị trường tự do với giá cao để kiếm lời, làm cho tổn thất của Nhà nước rất lớn, thâm hụt ngân sách nhà nước tăng lên.
Cho đến giữa năm 1988, ở Việt Nam, người ta vẫn chưa công nhận có hiện tượng lạm phát ở Việt Nam; nhiều ý kiến cho rằng về cơ bản, Nhà nước vẫn kiểm soát được hệ thống giá cả trong khu vực kinh tế Nhà nước và việc tăng giá trong khu vực này được thực hiện chủ động, có tính toán trước và nằm trong kế hoạch Nhà nước, do đó không thể gọi là lạm phát. Việc tăng giá tự phát chỉ xảy ra trên thị trường tự do nhưng vì quy mô của thị trường này bé nên được coi là không quan trọng. Chỉ đến Hội nghị trung ương tháng 6/1988 Đảng và Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận sự tồn tại của lạm phát dưới chế độ xã hội chủ nghĩa và nghiên cứu tìm cách chống lạm phát. Mặt khác, cũng đến thời điểm này, cuộc tranh luận giữa ưu tiên phát triển sản xuất để từ đó chống lạm phát hay ưu tiên chống lạm phát để ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó phát triển sản xuất... mới kết thúc bằng việc chọn chính sách ưu tiên chống lạm phát.
- Mặc dù đã được tách làm hệ thống ngân hàng 2 cấp, nhưng trong 3 năm 1988-1990, do chưa xác lập được nhiều văn bản pháp luật về cơ chế, quy chế cho hoạt động của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng nên Ngân hàng Nhà nước vẫn không thể thực hiện được chức năng của một Ngân hàng trung ương trong khi các ngân hàng thương mại rất khó khăn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ và giữ được sự độc lập tương đối với Ngân hàng Nhà nước. Hệ thống ngân hàng vẫn mang nhiều đặc trưng của ngân hàng thời bao cấp. Ngân hàng Nhà nước chưa tập trung vào nhiệm vụ xây dựng cơ chế và khung khổ pháp lý cần thiết cho hoạt động ngân hàng mà còn can thiệp mạnh mẽ vào hoạt động của các ngân hàng thương mại và còn trực tiếp kinh doanh tiền tệ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ do chưa thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường. Ngược lại, do cơ chế quản lý ngân hàng còn sơ khai, các ngân hàng thương mại và quỹ tín dụng nhân dân đã bung ra cả về số lượng lẫn hoạt động cho vay; hiệu quả hoạt động rất thấp kém, dẫn tới hàng loạt ngân hàng thương mại cổ phần và quỹ tín dụng bị đổ vỡ vào giữa năm 1990; hàng nghìn tỷ đồng dư nợ trở thành nợ khó đòi, và nhiều gia đình, cá nhân bị mất trắng các khoản tiền gửi ngân hàng.
Trong giai đoạn này, Việt Nam vẫn chưa có chính sách tiền tệ, hoặc nếu gọi là có thì đó là chính sách tiền tệ thụ động, không có mục tiêu riêng mà hoàn toàn phụ thuộc vào mệnh lệnh từ chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu cao, tỷ lệ thâm hụt ngân sách lớn nên chính phủ đã ra lệnh cho Ngân hàng trung ương liên tục phát hành những lượng tiền lớn vào lưu thông, từ đây gây ra hiện tượng lạm phát phi mã trong các năm 1986-1988. Lượng tiền phát hành trong năm 1989 cũng rất lớn nhưng nhờ có chính sách lãi suất cao nên đã thu hút được một lượng tiền lớn quay trở lại hệ thống ngân hàng, làm cho tỷ lệ lạm phát năm đó giảm mạnh. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra sau giai đoạn này là xây dựng chính sách tiền tệ.
- Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP giảm trong 2 năm 1987-1988 nhưng tỷ lệ thâm hụt ngân sách vẫn rất cao.
Đặc biệt nghiêm trọng là vấn đề phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách...
................
3.2) Các giải pháp ngắn hạn chống lạm phát ở Việt Nam: Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ
3.2.1) Chính sách tiền tệ:
Dựa trên những phân tích trên từ tháng 3 năm 1989, Chính phủ Việt nam đã áp dụng một chính sách tiền tệ chặt chính thống của lý thuyết trọng tiền với một mục tiêu duy nhất: ổn định giá cả, qua đó ổn định kinh tế. Chính sách này dựa trên hai trục chính: Thoạt tiên kiểm soát chặt cân bằng tiền tệ và từ 1992 kết hợp với ổn định tỷ giá. Ba biện pháp quan trọng nhất được triển khai trong thời kỳ này là kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, tăng lãi suất lên rất cao và hạn chế tín dụng. Quá trình triển khai chính sách tiền tệ chặt đã diễn ra như sau:
a) Công cụ cơ bản đầu tiên được áp dụng là chính sách lãi suất thực dương và cao. Lãi suất hàng tháng đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và 3 tháng đột ngột được nâng lên 9% và 12% trong khi tỷ lệ lạm phát tháng 2 chỉ 5,4%. Trong cả năm 1989, lãi suất thực luôn luôn dương và được duy trì ở mức rất cao. Do vậy, một khối lượng tiền tệ rất lớn đã quay trở lại hệ thống ngân hàng, làm giảm bất ngờ khối lượng tiền trong lưu thông và giảm nhanh tỷ lệ lạm phát ngoài mọi dự kiến.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất cao trong bối cảnh tự do hoá tài chính lúc đó đã nhanh chóng dẫn đến những đầu cơ tiền tệ qui mô lớn, hậu quả là bùng nổ khung hoảng tiền tệ và tín dụng năm 1990. Về lý thuyết, Mc. Kinnon đã chứng minh rất xuất sắc rằng tự do hoá lãi suất trong điều kiện thâm hụt ngân sách liên tục cao kèm lạm phát và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng hơn, đặc biệt, nó còn làm tăng nhanh khoảng cách giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, kéo theo khủng hoảng trong thị trường tiền tệ. Diễn biến kinh tế Việt nam trong giai đoạn tự do hoá lãi suất 1989-90 đã hoàn toàn giống như dự báo của Mc. Kinnon. Thất bại của chính sách lãi suất cao cũng vạch ra một trong những điểm yếu cơ bản của chính sách tiền tệ lúc đó: Lạm dụng công cụ của chính sách tiền tệ Keynes trong lạm phát tiền tệ.
Vì hiệu quả của chính sách lãi suất cao giảm rõ rệt trong khi tác hại của nó ngày càng cao, nên nó được thay thế bằng công cụ thứ hai: Kiểm soát chặt chẽ cung tiền tệ M2. Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền tệ M2 năm 1990 chỉ còn 53,1% so với 188,8% năm 1989. Cũng trong các năm 1989-90, nhiều chính sách khác nhằm giảm mạnh đầu tư và tiêu dùng khu vực nhà nước, tư nhân được thi hành, làm giảm áp lực lạm phát.
b) Từ năm 1990-91, chính sách tiền tệ Việt nam dựa hoàn toàn vào học thuyết trọng tiền. Ngân hàng trung ương chấp nhận lãi suất thực âm, chỉ tập trung vào kiểm soát cung tiền tệ. Hậu quả là tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ giảm tiếp từ 53,1% năm 1990 xuống còn 33,7% năm 1992, 27,2% năm 1993 và 34,4% năm 1995. Ngược lại, lãi suất thực tụt xuống dưới 0, âm trong hầu hết các tháng của hai năm 1990-91 và trong nhiều tháng của những năm tiếp theo. Phương thức kiểm soát cung tiền tệ lúc đó dựa vào 2 điểm chính:
+ Xác định khối lượng tiền tệ cần bổ xung hàng năm, theo nguyên tắc đồng thời thoả mãn đủ nhu cầu phương tiện thanh toán của nền kinh tế và kìm hãm lạm phát dưới một tỷ lệ mong muốn. Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ được xác định theo công thức sau:
m = p* + g - v
trong đó hai chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế g và tỷ lệ lạm phát dự kiến p* đã được quốc hội quyết định, Ngân hàng trung ương phải dự báo tốc độ thay đổi vòng quay tiền tệ v để tính toán ra m và thực hiện quá trình phát hành tiền vào lưu thông. Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền tệ xác định theo công thức trên là giới hạn trên mà Ngân hàng trung ưoưng phải tuân theo. Nếu nâng cao được chất lượng điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương có thể không sử dụng hết hạn ngạch nêu trên.
+ Khối lượng tiền tệ tăng thêm này sẽ được sử dụng vào ba mục đích: Tăng tổng tín dụng cho nền kinh tế, cho ngân sách nhà nước vay và mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương.
Phần tiền tệ dành cho mục tiêu mua ngoại tệ phụ thuộc vào biến động hàng quý của cán cân thanh toán quốc tế. Vì Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi nên về nguyên tắc, có thể dễ dàng kiểm soát phần cung tiền tệ vì mục tiêu này. Tuy nhiên, trong thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã tỏ ra hoàn toàn bị động và chạy theo xu hướng đầu cơ ngoại tệ trên thị trưoừng, nên khi tỷ giá thị trường bị giới đầu cơ đẩy lên quá cao, mặc dù không phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế và cân bằng cung cầu ngoại tệ, nhưng NHNN vẫn cung tiền rộng rãi để đáp ứng, dẫn tới đồng tiền Việt Nam vừa bị mất giá ngày càng nhanh so với ngoại tệ, vừa thừa nội tệ trong lưu thông và gây lạm phát cao trong 2 năm 1990-1991 (khoảng 67,5%/năm).
Mục đích thứ hai là để thực hiện điều 29 của Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước năm 1990 và được nêu laị trong Luật ngân sách năm 1996, theo đó Nhà nước có quyền vay Ngân hàng trung ương. Tuy nhiên nghị quyết của Ban chấp hành trung ương khoá 7, kỳ họp thứ hai, đã khuyến nghị chính phủ không nên sử dụng phát hành tiền tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách, do đó Ngân hàng trung ương ít khi sử dụng tiền tệ cho mục đích này. Cuối cùng, về mục đích tín dụng, Ngân hàng trung ương căn cứ vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát dự kiến để tính toán tổng tín dụng cần thiết cho nền kinh tế và tổng lượng tiền cần cấp cho các ngân hàng thương mại cung như qui định hạn ngạch tín dụng cho từng loại ngân hàng thương mại.
c) Bước cuối cùng là xác định phương thức sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, bao gồm hạn ngạch tín dụng, các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu, tỷ giá, và nội dung phát triển các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Từ năm 1992, chính sách tiền tệ chặt được tăng cường bằng chính sách lãi suất trần và lãi suất sàn. Nhìn toàn cảnh, có thể khảng định việc sử dụng các công cụ trên dựa chủ yếu trên học thuyết trọng tiền: Chỉ nhấn mạnh vào kiểm soát cung tiền tệ, nhất là mỗi khi có những biến động bất ngờ của giá cả, ngân hàng trung ương không tìm hiểu nguyên nhân sâu xa mà chỉ vội vàng điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt thêm cung ứng tiền.
Trong thời gian này, hệ thống ngân hàng 2 cấp được củng cố; phân biệt rõ ràng hơn chức năng quản lý và chức năng kinh doanh giữa Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Các quy chế quản lý tiền tệ và ngoại hối phòng ngừa khủng hoảng được tăng cường....
3.2.2) Chính sách ngân sách:
Điều rõ ràng là tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã giảm mạnh trong những năm đầu thập kỷ 90, phản ánh một chính sách ngân sách chặt được thực hiện ngày một cẩn trọng... do đó đã có tác dụng quan trọng tới giảm phát.
Đặc biệt, trong thời gian này, hầu như không còn việc phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách; nhờ đó, có thể kiểm soát dễ hàng hơn tổng lượng tiền đưa vào lưu thông.
Các biện pháp đổi mới chính sách tài khoá trong thời gian này nhằm vào: (i) Xoá bỏ bao cấp qua ngân sách đi đôi với tự do hoá giá cả; từ năm 1990 khi hầu hết các giá đã được hình thành theo cơ chế thị trường thì bao cấp trực tiếp đối với các DNNN về cơ bản cũng được xoá bỏ; Nhà nước cũng xoá bỏ danh sách các mặt hàng cung cấp theo định lượng. (ii) Đổi mới phương thức xử lý thâm hụt ngân sách; nhà nước cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu cho xây dựng cơ bản và chi thường xuyên để giảm thâm hụt ngân sách, đồng thời từ năm 1992 kiên quyết không phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách; (iii) Cải cách hệ thống thuế bằng việc ban hành và triển khai tốt các đạo luật về thuế nêu trên. Trong giai đoạn này, Nhà nước bắt đầu quá trình đổi mới cơ chế và chính sách quản lý tài chính trong doanh nghiệp, trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, đối với tài sản, tài nguyên thuộc sở hữu Nhà nước...
Việc triển khai chính sách tiền tệ và tài chính chặt theo tiếp cận của lý thuyết trọng tiền đã đem lại những kết quả mong đợi: Kết thúc lạm phát nguồn gốc tiền tệ, hệ thống kinh tế trở nên trong sạch và khoẻ mạnh, dự báo chính xác hơn và quyết định hợp lý hơn, và cuối cùng phục hồi được sản xuất, tăng việc làm với lạm phát ổn định khoảng 10-13% từ 1992 đến 1995. Chính trên cơ sở những thành tích này mà Ngân hàng trung ương đã quyết định tiếp tục chính sách tiền tệ chặt cho giai đoạn 1996-2000 để giữ vững ổn định kinh tế.
Tuy nhiên, ngược với Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính thấy rằng không nhất thiết phải hạ tỷ lệ lạm phát tới mức quá thấp không phù hợp với đặc trưng của một nền kinh tế đang phát triển đang chuyển đổi, và nhằm loại bỏ những nguyên nhân lạm phát do cơ cấu, cần phải áp dụng chính sách ngân sách nới lỏng hơn khi lạm phát đã ổn định để kích cầu và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Ý nghĩa của vấn đề này càng trở lên quan trọng hơn khi nền kinh tế chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khi vực châu á. Do vậy, chính sách ngân sách đã được nới lỏng kể từ năm 1997.
3.3) Các giải pháp dài hạn chống lạm phát ở Việt Nam: Chính sách tự do hoá kinh tế, phát triển thị trường tài chính và mở cửa hội nhập quốc tế để kích thích tăng trưởng kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp, và tăng cường xuất khẩu.
Hiển nhiên, các giải pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ và tài chính kể trên chỉ có tác dụng kìm hãm lạm phát, tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Nhưng nếu cứ tiếp tục duy trì cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp thì khu vực kinh tế tư nhân vẫn sẽ không thể phát triển sản xuất nhanh được vì bị kiểm soát chặt của Nhà nước, trong khi khu vực kinh tế Nhà nước tiếp tục sống nhờ bao cấp và làm ăn kém hiệu quả. Vì vậy nhóm giải pháp thứ 2 được áp dụng để vừa chống lạm phát, vừa thúc đẩy tăng trưởn kinh tế là tự do hoá rộng rãi trong sản xuất và lưu thông hàng hoá. Những biện pháp chính được áp dụng lúc đó là:
- Xoá bỏ chế độ độc quyền kinh doanh của Nhà nước, đa dạng hoá các thành phần kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Từ năm 1989, Nhà nước bắt đầu quá trình giảm độc quyền kinh doanh của mình, trước hết là từ những sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp không quan trọng, sau đó đến nhóm hàng thiết yếu như lương thực. Đến cuối năm 1994, Nhà nước chỉ còn giữ độc quyền kinh doanh bưu điện, thông tin liên lạc, một số loại năng lượng quan trọng nhất như điện, xăng dầu, và công nghiệp quốc phòng. Ngay như lĩnh vực hàng không cũng đã xuất hiện công ty cổ phần, tức là có sự tham gia của tư nhân. Nhờ xoá bỏ độc quyền Nhà nước, khu vực tư nhân có thêm địa hạt để phát triển, tạo ra sự cạnh tranh thực sự và ngày càng mạnh, từ đó phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả kinh tế.
- Tự do hoá các hoạt động thương mại, gồm nội thương và ngoại thương. Từ năm 1989, Chính phủ cho phép các doanh nghiệp và cá nhân tự do lưu thông hàng hoá của mình trên phạm vi toàn lãnh thổ, bãi bỏ các trạm kiểm soát "cấm chợ ngăn sông", giảm mạnh các hạn chế xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất nhập khẩu qua biên giới, cho phép người Việt Nam ở nước ngoài gửi không hạn chế hàng hoá và ngoại tệ về nước... Những biện pháp này đã có tác dụng rất tích cực, một mặt giải toả được thiếu hụt cung cục bộ trong nội bộ nền kinh tế; mặt khác thu hút được một lượng ngày càng lớn hàng hoá và ngoại tệ từ nước ngoài vào Việt Nam, nhờ đó giảm mất cân đối cung cầu trong thị trường nội địa, giảm áp lực lạm phát.
- Đổi mới mạnh mẽ phương thức kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, chuyển từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang kế hoạch hoá định hướng dựa trên các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Theo phương thức mới này, kế hoạch Nhà nước vừa không còn mang tính pháp lệnh đối với hầu hết các lĩnh vực, vừa tập trung chủ yếu vào xây dựng chiến lược 10 năm, quy hoạch phát triển ngành và lĩnh vực. Kế hoạch cũng chuyển dần trọng tâm từ kế hoạch hàng năm sang kế hoạch 5 năm; kế hoạch hàng năm chỉ mang tính chất kế hoạch điều hành, điều chỉnh các chính sách kinh tế nhằm đảm bảo tính cân đối chung và mục tiêu phát triển trung và dài hạn. Nhà nước không giao kế hoạch thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh cho doanh nghiệp nữa; các doanh nghiệp phải tự lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, tự chịu trách nhiệm lỗ, lãi, và nộp một số khoản thuế, phí bảo hiểm, khấu hao,... cho Nhà nước. Quy trình lập kế hoạch và phương thức điều hành kế hoạch cũng được đổi mới mạnh mẽ.
- Sắp xếp lại sản xuất trong khu vực DNNN và Cổ phần hoá các DNNN là một trong những chính sách quan trọng trong đổi mới quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế Nhà nước. Quá trình cải cách khu vực DNNN đã làm số DNNN giảm nhanh trong khi tỷ trọng của nó trong nền kinh tế và đóng góp vào ngân sách lại tăng lên.
Cùng với 2 biện pháp trên, Nhà nước đã tiến hành xây dựng các tổng công ty nhà nước thành những tập đoàn kinh tế mạnh. Đến cuối năm 2000, khối DNNN đã có 17 tổng công ty 91 (do Chính phủ quản lý) và 77 tổng công ty 90 (do các bộ, địa phương quản lý). 94 tổng công ty nói trên gồm 1400 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 24% tổng số DNNN lúc đó, 58,8% về vốn, 74% doanh thu và 88% nộp ngân sách của toàn bộ khối DNNN.
- Đổi mới chính sách đầu tư công cộng. Chính sách đầu tư công cộng đã thay đổi đáng kể từ cuối thập kỷ 80. Năm 1989, Chính phủ Việt nam đã áp dụng chính sách cắt giảm mạnh trợ cấp đầu tư cho các DNNN; đầu tư công cộng được tập trung cho mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp Nhà nước đã không đủ sức đương đầu với những điều kiện mới này nên số DNNN bị thua lỗ tăng vọt, gây ra những áp lực rất lớn, buộc chính phủ phải trở lại áp dụng chế độ trợ cấp tín dụng rẻ tiền để giúp đỡ. Chỉ từ năm 1994-1995, chính phủ mới áp dụng trở lại chính sách năm 1989.
- Tiếp tục đổi mới công tác quản lý đất đai, Luật đất đai mới được ban hành năm 1993 căn cứ theo các quy định của Hiến pháp 1992, khảng định lại quyền sở hữu đất đai của Nhà nước và quyền sử dụng đất đai của tư nhân, đồng thời cũng cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đó. Năm 1994, một số Luật và Nghị định khác được ban hành nhằm thực hiện Luật đất đai, ví dụ như Luật về thuế giao quyền sử dụng đất tháng 5/1994; Nghị định về các quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân nước ngoài thuê đất ở Việt Nam tháng 10/1994. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành một số quyết định liên quan đến quản lý Nhà nước về đất đai.
.........
Việc triển khai chính sách tự do hoá kinh tế và khuyến khích phát triển sản xuất theo tiếp cận của lý thuyết trọng cơ cấu đã đem lại những kết quả mong đợi: Tỷ lệ lạm phát giảm đi rất nhanh, từ lạm phát cao xuống lạm phát thấp và chuyển thành thiểu phát từ cuối thập kỷ 90. Hệ thống kinh tế ngày càng trong sạch và khoẻ mạnh, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiếp tục được duy trì mặc dù chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường quốc tế bất lợi.
4) Một số yếu kém của chính sách chống lạm phát ở Việt Nam:
- Yếu kém trong các chính sách cụ thể;
- Chính sách tài chính tiền tệ chặt mang tính giáo điều, dần dần không còn phù hợp với nền kinh tế, gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế.
- Tốc độ cải cách kinh tế chậm lại, ảnh hưởng bất lợi tới tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, do đó đã xẩy ra tình trạng mất cân đối cung cầu cục bộ, gây lạm phát cục bộ.
....
(sẽ viết sau trong quá trình giảng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét