Bài giảng về Lạm phát của tôi
(bản để giảng tại Lào và Campuchia):
1) Vấn đề lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát ở Việt Nam đã xảy ra trong nhiều năm trước khi bùng nổ thành lạm phát cực cao (nhưng chưa tới mức siêu lạm phát) trong các năm 1986-1988 với tỷ lệ tăng giá hàng tháng lên tới vài chục phần trăm. Tuy nhiên, chỉ khi lạm phát đã trở lên cực cao kèm theo những hậu quả cực kỳ tai hại của nó thì Đảng và Nhà nước Việt Nam mới chính thức thừa nhận sự tồn tại của nó và tìm giải pháp xử lý. Từ những bài học của thời kỳ này, kiểm soát lạm phát đã trở thành một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong mọi quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Tiến triển của lạm phát ở Việt Nam từ khi thống nhất đất nước năm 1975 có thể được chia ra làm 5 giai đoạn sau:
- Giai đoạn lạm phát ôn hoà 1975-1980;
- Giai đoạn lạm phát tăng nhanh 1981-1985;
- Giai đoạn bùng nổ lạm phát cao 1986-1988;
- Giai đoạn giảm phát nhanh 1989-1998;
- Giai đoạn lạm phát thấp, chính xác hơn là không có lạm phát, từ năm 1999 đến nay (2004).
(bản để giảng tại Lào và Campuchia):
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ LẠM PHÁT VÀ CHỐNG LẠM PHÁT TẠI NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
PHẦN THỨ HAI
LẠM PHÁT VÀ KINH NGHIỆM CHỐNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
Việc phân tích làm rõ nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam cần xuất phát từ những đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam vì chúng có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình lạm phát. Đặc biệt, so với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Việt Nam là một ví dụ rất điển hình về lạm phát và chống lạm phát vì Việt Nam trong quá trình tự doa hoá kinh tế đã trải qua thời kỳ lạm phát từ thấp đến rất cao và kéo dài trong hàng thập kỷ, nhưng cuối cùng đã giải quyết vấn đề này rất hiệu quả mà không làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, ngược lại còn làm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng lên.1) Vấn đề lạm phát ở Việt Nam
Lạm phát ở Việt Nam đã xảy ra trong nhiều năm trước khi bùng nổ thành lạm phát cực cao (nhưng chưa tới mức siêu lạm phát) trong các năm 1986-1988 với tỷ lệ tăng giá hàng tháng lên tới vài chục phần trăm. Tuy nhiên, chỉ khi lạm phát đã trở lên cực cao kèm theo những hậu quả cực kỳ tai hại của nó thì Đảng và Nhà nước Việt Nam mới chính thức thừa nhận sự tồn tại của nó và tìm giải pháp xử lý. Từ những bài học của thời kỳ này, kiểm soát lạm phát đã trở thành một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong mọi quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Tiến triển của lạm phát ở Việt Nam từ khi thống nhất đất nước năm 1975 có thể được chia ra làm 5 giai đoạn sau:
- Giai đoạn lạm phát ôn hoà 1975-1980;
- Giai đoạn lạm phát tăng nhanh 1981-1985;
- Giai đoạn bùng nổ lạm phát cao 1986-1988;
- Giai đoạn giảm phát nhanh 1989-1998;
- Giai đoạn lạm phát thấp, chính xác hơn là không có lạm phát, từ năm 1999 đến nay (2004).
1.1) Lạm phát trước năm 1980:
Sau khi thống nhất năm 1975, Việt Nam bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước theo quan điểm kế hoạch hoá tập trung, trong đó nhà nước quản lý theo phương thức hành chính hầu hết mọi hoạt động kinh tế xã hội thông qua hệ thống kế hoạch hoá pháp lệnh rộng khắp và chi tiết. Trong lĩnh vực giá cả, nhà nước định giá hầu hết các loại hàng hoá và dịch vụ với phương châm ổn định và hạ giá thành để hạ giá hàng hoá và dịch vụ, tăng thu nhập và đời sống người lao động. Đặc biệt, có khoảng 20 loại hàng hoá được Nhà nước định giá và bán theo phương thức hành chính (bán theo tem phiếu hoặc theo lệnh cung cấp của cơ quan có thẩm quyền); những mặt hàng này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng hàng hoá cung cấp cho thị trường.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã tỏ ra rất kém hiệu quả vì không tạo được những kích thích cần thiết nhằm khuyến khích người lao động phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của mình trong hoạt động kinh tế xã hội. Kết quả là tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân sản xuất lúc đó rất thấp (0,5% năm 1976, 2,9% năm 1977, 2,2% năm 1978, -2,0% năm 1979 và -1,4% năm 1980), trong khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP rất cao (lần lượt là 21,5%, 15%, 13,1%, 17,5% và 15,3%); những mất cân đối kinh tế vĩ mô ngày càng nghiêm trọng và nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trầm trọng vào nguồn viện trợ của nước ngoài, chủ yếu đến từ các nước XHCN Đông Âu (khoảng 40-50% thu ngân sách hình thành từ nguồn viện trợ nước ngoài; hoàn toàn không có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế).
Trong giai đoạn này, do đặc trưng của một đất nước mới thống nhất với Miền Bắc đã phát triển mạnh cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong khi Miền Nam đã phát triển kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam thực chất đã bị chia cắt làm hai nền kinh tế: nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp với hệ thống kế hoạch hoá và thị trường nhà nước, và nền kinh tế thị trường nhỏ hơn với thị trường tự do. Giá cả trên hai thị trường rất khác nhau. Trong khi giá trên thị trường tự do thường xuyên biến động theo quan hệ cung cầu và chênh lệch rất lớn với giá trên thị trường nhà nước thì giá trên thị trường nhà nước không hề thay đổi, thậm chí có năm còn giảm xuống một cách giả tạo.
Tính chung cả hai thị trường, tỷ lệ lạm phát qua 5 năm 1976-1980 lần lượt là 21,9%, 18,6%, 20,9%, 19,4% và 25,2%. Đây mới chỉ là lạm phát ôn hoà theo quan điểm của thuyết trọng tiền.
1.2) Lạm phát trong giai đoạn 1981-1985:
Trước những khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ tháng năm 1979, tại Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IV, Đảng Cộng sản Việt nam đã điều chỉnh đường lối phát triển kinh tế theo hướng giảm dần cơ chế quản lý kinh tế theo phương thức kế hoạch hoá tập trung, mở rộng từng bước vai trò của cơ chế kinh tế thị trường. Ngày 13/1/1981, Ban Bí thư TW Đảng đã ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, theo đó các hợp tác xã chỉ tập trung lo đầu vào và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; các hộ gia đình được chia đất đai và thực hiện hợp đồng sản xuất với các hợp tác xã theo nguyên tắc khoán sản phẩm. Một số biện pháp mạnh khác nhằm mở rộng kinh tế hộ gia đình, phát triển chợ ở các đô thị và tự do hoá thương mại giữa các tỉnh đã được áp dụng ngay trong năm 1981. Trong công nghiệp, đã tiến hành điều chỉnh lại giá tư liệu sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nước để giảm khoảng cách giữa giá quy định của Nhà nước với giá cả hình thành trên thị trường tự do. Trong các năm 1980-1982, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết 25, 26 CP và nhiều Nghị quyết khác về áp dụng cơ chế kế hoạch 3 phần trong công nghiệp: Phần kế hoạch hoá pháp lệnh, phần kế hoạch hoá với một bộ phận đầu vào mua trên thị trường và phần kế hoạch hoá với toàn bộ đầu vào mua từ thị trường tự do. Những biện pháp trên đã có tác dụng làm tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp Nhà nước, kích thích sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Những đổi mới bước đầu theo hướng tăng cường những nhân tố của kinh tế thị trường trong những năm 1980-1984 đã mang lại kết quả to lớn: Tỷ lệ tăng trưởng thu nhập quốc dân sản xuất từ -1,4% năm 1980 đã trở thành 2,3% năm 1981 và tiếp tục tăng vọt lên 8,3% năm 1982, 7,2% năm 1983 và 8,3% năm 1984. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP giảm mạnh (năm 1981 là 12,2%, năm 1982 là 11,8%, năm 1983 là 8% và năm 1984 là 5,1%), đời sống nhân dân và xã hội có những thay đổi rõ rệt (sản lượng lương thực đầu người từ 238,5 kg năm 1978 đã tăng lên 268,2 kg năm 1980, 273,2 kg năm 1981 và trên 300 kg từ năm 1982).
Tuy nhiên, do nhiều vấn đề lý luận của phát triển chưa được nghiên cứu xử lý, dẫn tới những cải cách còn mang tính nửa với và chưa đảm bảo tính hệ thống, nhiều mất cân đối vĩ mô tiếp tục tồn tại và phát triển. Đặc biệt, tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn 1981-1984 cũng tăng vọt so với giai đoạn trước: tỷ lệ tăng giá tiêu dùng năm 1981 là 69,6%, năm 1982 là 95,4%, năm 1983 là 49,5% và năm 1984 là 64,9%. Đánh giá nguyên nhân của những hiện tượng này, Chính phủ Việt Nam cho rằng đó là do tác động tiêu cực của những nhân tố kinh tế thị trường trong lĩnh vực phân phối lưu thông; vì vậy, tháng 9/1985, cuộc cải cách giá, lương, tiền đã được thực hiện ở Việt Nam.
Nội dung chính của cải cách giá lương tiền năm 1985 gồm 4 điểm: (i) Điều chỉnh giá hàng hoá trên thị trường Nhà nước cho phù hợp với chi phí sản xuất, tỷ giá mới và tiếp cận với giá cả trên thị trường tự do; tuy nhiên, Nhà nước vẫn tiếp tục kiểm soát hành chính đối với giá cả trên thị trường có tổ chức (thị trường Nhà nước); (ii) Bãi bỏ hệ thống giá bao cấp và chế độ phân phối hàng hoá định lượng theo tem phiếu; (iii) Tiền lương tối thiểu được điều chỉnh từ 27,3 đồng / tháng (cố định từ năm 1960) lên 220 đồng / tháng cho phù hợp với hệ thống giá mới; (iv) Phát hành tiền Việt nam mới với quy định 1 đồng tiền mới giá trị bằng 10 đồng tiền cũ.
Tuy nhiên, sau cải cách giá lương tiền, lạm phát đã tăng lên rất mạnh, tính chung cả năm 1985, chỉ số giá tiêu dùng tăng tới 91,6%, chủ yếu vào các tháng sau khi thực hiện cải cách giá lương tiền. Do vậy, Chính phủ Việt Nam đã phải khôi phục lại chế độ cung cấp định lượng đối với một số mặt hàng.
Qua diễn biến của lạm phát trong 5 năm 1981-1985, có thể rút ra hai nhận xét sau:
Một là, nếu như lạm phát trước năm 1980 diễn ra hoàn toàn trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung cao và hệ thống giá trong thị trường nhà nước ổn định thì lạm phát trong giai đoạn 1981-1985 diễn ra trong bối cảnh toàn nền kinh tế đang bắt đầu chuyển đổi từ từ sang vận hành theo cơ chế thị trường với nhiều đợt tăng giá chủ động của nhà nước.
Hai là, trong nền kinh tế vẫn tồn tại hai nền sản xuất, hai thị trường với hai cơ chế hình thành giá khác nhau; tuy nhiên đã có sự quan hệ trao đổi và tác động qua lại giữa hai nền kinh tế và hai thị trường. Đặc biệt, trong thị trường nhà nước, đã xuất hiện cơ chế hai giá với giá kế hoạch được áp dụng cho các loại hàng còn bán theo chế độ cung cấp và giá kinh doanh được áp dụng cho các mặt hàng được tự do trao đổi trên thị trường. Loại giá thứ hai đã cơ bản phản ánh được quan hệ cung - cầu, tiền - hàng đồng thời tỷ trọng của nó có xu hướng tăng lên nhanh.
1.3) Lạm phát trong giai đoạn 1986-1988:
Cải cách giá, lương tiền và một loạt chính sách theo hướng tự do hoá giá cả tiếp theo[1] trong bối cảnh chưa định hình được những chính sách tài chính, tiền tệ thích hợp đã mở ra một giai đoạn lạm phát cao chưa từng có trong lịch sử kinh tế Việt nam kể từ khi đất nước thống nhất năm 1975. Tỷ lệ lạm phát tăng vọt từ 91,6% năm 1985 lên 774,7% năm 1986, 223,1% năm 1987 và 393,8% năm 1988. Nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trên nhiều mặt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) giảm dần, từ 8,3% năm 1984 xuống còn 2,8% năm 1986 và 3,6% năm 1987 rồi tăng trở lại 6,0% năm 1988[2] trong khi tỷ lệ tăng trưởng dân số vẫn ở mức cao 2,2%/ năm. Tỷ lệ phá giá tỷ giá chính thức hàng năm của nội tệ so với đô la Mỹ đã tăng từ 55,6% năm 1985 lên 185,7% năm 1986, 360% năm 1987 và 715,2% năm 1988. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP thời kỳ này đã giảm đi, từ 15,7% năm 1985 xuống 5,8% năm 1986, 4,5% năm 1987 và 6,8% năm 1988. Tuy nhiên, bản chất của vấn đề thâm hụt không đổi vì tuy không tăng thâm hụt ngân sách để bao cấp, nhưng chính phủ đã dùng công cụ phát hành tiền để chi tiêu trực tiếp không thông qua ngân sách. Tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán trong thời kỳ này rất cao: 148,6% năm 1985, 503,3% năm 1986, 324,3% năm 1987 và 445,4% năm 1988[3].
So với những giai đoạn trước, lạm phát giai đoạn 1986-1988 có một số nét đặc trưng nổi bật sau:
Một là, tỷ lệ lạm phát rất cao và kéo dài trong hơn 3 năm; đến năm cuối cùng (1988) vẫn còn gần 400%. Theo phân loại của S. Fischer, đây là đặc trưng của lạm phát cao, nhưng chưa phải là siêu lạm phát (phải trên 1000%/năm mới được coi là siêu lạm phát).
Hai là, lạm phát cao xảy ra khi thực hiện đồng thời cải cách giá, tiền lương và đổi tiền. Đây là lần cải cách tiền lương đầu tiên ở Việt Nam kể từ khi bắt đầu thực hiện hệ thống tiền lương chính thức năm 1960. Vì cải cách giá, lương, tiền là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ lạm phát cao nên bài học rút ra ở đây là việc cải cách nhanh, đồng loạt cần được chuẩn bị rất cẩn thận.
Ba là, lạm phát cao xảy ra ngay khi Việt Nam chính thức bắt đầu cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quý III năm 1985, Hội nghị Trung ương VIII khoá V đã ra Nghị quyết về xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Cuối năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI họp thông qua đường lối đổi mới toàn diện.
Bốn là, lạm phát xảy ra trong cả khu vực kinh tế nhà nước lẫn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chỉ số lạm phát trong 2 khu vực chênh lệch nhau không đáng kể, phản ảnh giá trên thị trường nhà nước và giá trên thị trường tự do vận động tương đối giống nhau và phản ảnh được quan hệ cung - cầu, tiền -hàng trên thị trường. Lạm phát cao đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh tế, xã hội của mọi người dân. Do tính công khai của lạm phát đã bộc lộ hết sức rõ ràng trong giai đoạn này nên lần đầu tiên kể từ khi thống nhất đất nước, tại Hội nghị Trung ương VIII khoá VI tháng 6 năm 1988, Đảng CSVN chính thức công nhận sự tồn tại của lạm phát ở Việt Nam và bắt đầu đề ra các giải pháp cấp bách để ngăn chặn và kiểm soát lạm phát.
1.4) Lạm phát trong giai đoạn 1989-1998:
Đây là giai đoạn giảm phát nhanh và vững chắc; quá trình giảm phát này đi liền với quá trình đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế, chuyển đổi toàn diện sang cơ chế kinh tế thị trường. Thực tế năm 1989 không chỉ là năm đánh dấu bước ngoặt trong việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát mà còn là năm bản lề của chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam vì trong năm 1989, không những Việt Nam thu được những thành tựu quan trọng về chống lạm phát mà còn đạt được những kết quả rất ấn tượng về tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu.
Diễn biến của lạm phát trong giai đoạn này như sau: năm 1989 là 34,7%, năm 1990 là 67,1%, năm 1991 là 67,5%, năm 1992 là 17,5%, năm 1993 là 5,2%, năm 1994 là 14,4%, năm 1995 là 12,7%, năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,6% và năm 1998 là 9,2%.
Lạm phát trong giai đoạn 1989-1998 có một số đặc trưng nổi bật là:
Thứ nhất, quá trình giảm phát giảm nhanh, từ gần 400% năm 1988 xuống còn 34,7% năm 1989, 17,5% năm 1992 và khoảng 4% trong các năm 1996-1997. Đặc biệt, quá trình giảm phát diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước chuyển đổi tuần tự sang kinh tế thị trường với nhiều cuộc điều chỉnh giá hàng hoá và dịch vụ trong khu vực kinh tế nhà nước để thực hiện xoá bao cấp qua giá. Tuy nhiên, xu thế giảm phát vẫn ổn định và vững chắc.
Thứ hai, giảm phát bắt đầu khi nền kinh tế Việt Nam đang rất khó khăn; đặc biệt, giảm phát bắt đầu khi Việt Nam bị cắt hầu như toàn bộ viện trợ từ Liên xô và khối các nước XHCN Đông Âu đồng thời hầu như toàn bộ thị trường xuất khẩu của Việt Nam cũng bị cắt đứt. Trong bối cảnh như vậy, người ta nghĩ rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ bị chao đảo hơn và lạm phát sẽ tăng lên; nhưng thực tế không diễn ra như vậy.
Giảm phát kết thúc năm 1997-98 khi Việt Nam đang bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm đột ngột (năm 1998 giảm xuống còn 5,8% và năm 1999 chỉ còn 4,8%) trong khi tỷ giá được điều chỉnh tăng 25,2% trong 2 năm này. Hậu quả là tỷ lệ lạm phát năm 1998 tăng lên tới 9,2%; tức là tăng thêm khoảng 5% so với 2 năm trước.
Thứ ba, giảm phát diễn ra khi nền kinh tế Việt Nam cơ bản trở thành một thể thống nhất hoạt động theo cơ chế thị trường trong khung khổ pháp luật đang từng bước được hình thành; không còn sự khác biệt giữa thị trường nhà nước và thị trường tự do, giữa tỷ giá nhà nước và tỷ giá tự do... Có thể nói từ chỗ hầu như không có luật vào năm 1988, đến cuối năm 1993, Việt Nam đã có tương đối đủ những văn bản luật cơ bản của các nền kinh tế thị trường làm khung khổ cho sự vận hành của toàn nền kinh tế.
Thứ tư, cùng với xu thế giảm phát, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Việt Nam có xu hướng liên tục tăng lên. Như vậy, giảm phát và tăng trưởng có xu hướng hỗ trợ tích cực cho nhau.
1.5) Lạm phát trong giai đoạn từ năm 1999 đến nay:
Lạm phát từ năm 1999 đến nay có đặc trưng khác hẳn với những gì đã diễn ra từ khi thống nhất đất nước năm 1975. Nếu như trước đây, tỷ lệ lạm phát thấp nhất cũng khoảng 4% và cao nhất lên tới gần 800% thì từ năm 1999 đến nay, tỷ lệ lạm phát chưa bao giờ vượt quá 4%/năm. Đặc biệt, trong ba năm 1999-2001, tỷ lệ lạm phát đều xấp xỉ bằng 0, chỉ tăng trở lại 4% năm 2002 và 3% năm 2003.
Lạm phát trong giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng dần nhưng vẫn thấp so với giai đoạn tăng trưởng cao những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Tỷ lệ tăng trưởng năm cao nhất (2003) cũng chỉ đạt tới 7,2%, thấp đáng kể so với tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng. Mặt khác, lạm phát trong giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh tốc độ hội nhập kinh tế quốc tế tăng lên rất nhanh và ảnh hưởng của môi trường quốc tế tới kinh tế nói chung và lạm phát nói riêng ngày càng mạnh.
Một số đặc điểm của lạm phát trong thời gian này là:
Tóm lại, lạm phát là một hiện tượng nổi bật trong gần 30 năm qua (1975-2003) ở Việt Nam, trong đó khoảng 15 năm đầu là giai đoạn tỷ lệ tăng trưởng lạm phát liên tục tăng lên, lạm phát từ ôn hoà chuyển dần thành lạm phát cao và rất cao; khoảng 15 năm sau là giai đoạn tỷ lệ lạm phát liên tục giảm xuống và cuối cùng đi vào thời kỳ thiểu phát. Quá trình tiến triển của lạm phát có thể được minh họa bằng đồ thị sau:
Đồ thị: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam qua các năm giai đoạn 1976-2003
2) Nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam
2.1) Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam
Việc phân tích làm rõ nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam cần xuất phát từ những đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam vì chúng có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình lạm phát. Đặc biệt, so với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Việt Nam là một ví dụ rất điển hình về lạm phát và chống lạm phát vì Việt Nam trong quá trình tự doa hoá kinh tế đã trải qua thời kỳ lạm phát từ thấp đến rất cao và kéo dài trong hàng thập kỷ, nhưng cuối cùng đã giải quyết vấn đề này rất hiệu quả mà không làm giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, ngược lại còn làm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng lên. Hai đặc trưng nổi bật của Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua là:
Thứ nhất, Việt Nam thuộc nhóm một nước kém phát triển nhất thế giới. Đến năm 1993, khi lạm phát về cơ bản đã được kiểm soát, thu nhập đầu người của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 170 USD. Trong bảng phân loại năm 1995 của Ngân hàng Thế giới, chỉ có 4 nước có thu nhập đầu người thấp hơn Việt Nam là Mô dăm bích (90 USD), Tanzania (90 USD), Ethi ô pi (100 USD) và Sierra Leone (150 USD).
Trong mục trên đã phân tích, nguyên nhân của lạm phát tại các nước đang phát triển, nhất là các nước thuộc loại nghèo nhất, khác cơ bản với nguyên nhân lạm phát tại các nước công nghiệp, mặc dù bản chất của hiện tượng lạm phát không khác nhau. Sự khác nhau không chỉ ở nguồn gốc, nguyên nhân của lạm phát mà cả trong phương thức lan toả và mức độ tác động của lạm phát. Thực tế, quá trình lạm phát trong hai nhóm nước phát triển và đang phát triển diễn ra trong bối cảnh thể chế, luật pháp, cơ cấu kinh tế và xã hội rất khác nhau; do đó các yếu tố không thể thiếu trong nguyên cứu lạm phát tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước đang phát triển khác là sự tồn tại của một khu vực nông nghiệp rộng lớn và quan trọng, sản xuất tự cung tự cấp và kém được tiền tệ hoá, thiếu vắng các thị trường tài chính, khan hiếm các nguồn ngoại tệ để nhập khẩu trang thiết bị và nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuáat, thâm hụt ngoại thương triền miên, thâm hụt ngân sách trầm trọng và kéo dài... vì chính trong bối cảnh này, các áp lực lạm phát tồn tại và phát triển.
Thứ hai, Việt Nam là một nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường với hàng loạt các cải cách sâu sắc, nổi bật là thiết lập các cân đối vĩ mô kiểu mới, tự do hoá giá cả, ngoại thương và tỷ giá, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và xây dựng các thành phần kinh tế khác, và đặc biệt là xây dựng một thể chế và hệ thống pháp luật phù hợp với đòi hỏi của kinh tế thị trường. Như vậy, quá trình chuyển đổi trải rộng trên toàn hệ thống kinh tế xã hội, rộng hơn nhiều so với các chương trình điều chỉnh cơ cấu hay ổn định kinh tế tại các nước đang phát triển khác; và nó đòi hỏi phải có những cải cách căn bản trong hệ thống kinh tế vĩ mô và vi mô cho phù hợp với thể chế kinh tế thị trường đang từng bước được xây dựng. Dĩ nhiên, quá trình này phải kèm theo những cuộc tăng giá, cải cách giá, thay đổi cơ cấu giá... và dẫn tới lạm phát.
Do những đặc trưng trên, nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua phải được phân tích theo quan điểm toàn diện, trong đó có nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân cơ bản, có nguyên nhân ngắn hạn và nguyên nhân dài hạn.
2.2) Nguyên nhân trực tiếp và ngắn hạn của lạm phát:
Có thể giải thích nguồn gốc của lạm phát ở Việt Nam theo thuyết trọng tiền; đó là tỷ lệ thâm hụt ngân sách quá cao diễn ra trong một số năm. Đồ thị dưới đây cho thấy tỷ lệ lạm phát phản ứng trễ một năm so với những thay đổi lớn của thâm hụt ngân sách trên GDP.
Đồ thị: So sánh tiến triển của lạm phát và thâm hụt ngân sách (%)
Đặc biệt, chúng ta chú ý tới những điểm khởi đầu các vòng xoáy lạm phát mạnh hơn. Đó là các năm 1976, 1979, 1985 và 1989. Năm 1976 là năm đánh dấu sự thống nhất đất nước, nhưng chi ngân sách không giảm mà lại tiếp tục tăng nhanh để giải quyết những hậu quả tích tụ từ hàng chục năm chiến tranh và để triển khai chương trình công nghiệp hóa cấp tốc với những tham vọng lớn lao của ban lãnh đạo Việt Nam, hậu quả là tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong tăng lên rất cao, làm cho lạm phát bùng nổ và trở thành công khai trong khi từ năm 1969 đến 1975, giá cả trên cả hai thị trường nhà nước và tự do hầu như ổn định. Mặc dù trong 2 năm tiếp theo, tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP đã giảm đi nhưng mức độ giảm chưa lớn lên tỷ lệ lạm phát tiếp tục được duy trì ở mức cao.
Tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng mạnh trở lại trong năm 1979 do hậu quả của chiến tranh với Trung Quốc. Một lần nữa, nó lại trở thành nguyên nhân của sự gia tăng tỷ lệ lạm phát, kéo dài đến năm 1982. Trong hai năm 1983-1984, tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm mạnh sau khi cuộc chiến với Trung Quốc chấm dứt và căng thẳng biên giới với Campuchia giảm mạnh. Tuy nhiên, một lần nữa, cải cách giá lương tiền kèm theo tăng vọt tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm 1985 đã mở ra vmột vòng xoáy lạm phát mới trong nền kinh tế Việt Nam; vòng xoáy này kéo dài đến giữa năm 1988 sau đó chậm dần khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong những năm 1986-1988 giảm mạnh, mặc dù vẫn khá cao. Đáng tiếc là trong năm 1989, bên cạnh những chính sách cải cách kinh tế lớn rất thành công, tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng mạnh trở lại để giải quyết vấn đề xã hội phát sinh trong cải cách và để hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước đang rơi vào khủng hoảng do bị cắt giảm các đầu vào nhập khẩu từ khối Liên Xô cũ. Hậu quả là tỷ lệ làm phát lại gia tăng trở lại, và kéo dài đến năm 1992 mới cơ bản chấm dứt.
Lý thuyết giải thích lạm phát của Bruno và Easterly (1995) có lẽ rất phù hợp để giải thích nguyên nhân của các khủng hoảng lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn từ nửa cuối thập kỷ 70 đến đầu thập kỷ 90. Theo thuyết này, một cú sốc tạm thời (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng vọt), có thể là nguyên nhân của lạm phát (tức là làm cho mặt bằng giá tăng lên trong thời gian dài hơn), và sau đó lạm phát chỉ giảm đi và kết thúc với một khoảng thời gian trễ khi nguyên nhân gây ra lạm phát chấm dứt (ví dụ như tỷ lệ thâm hụt ngân sách quay lại mức ban đầu).
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên các quan sát về lạm phát ở các nước Nam Mỹ và Mỹ La tinh, một số nước châu Phi, Israen, Indonexia và một vài nước châu Á khác trong 3 thập kỷ 60, 70 và 80 của thế kỷ trước. Lý thuyết này định nghĩa khủng hoảng lạm phát là một giai đoạn nhiều năm trong đó tỷ lệ lạm phát hàng năm vượt quá 40%, sau đó lại có giai đoạn lạm phát chậm lại; tuy nhiên kiểu lạm phát này khác với kiểu lạm phát kinh niên trong đó thời gian lạm phát dài hơn, mạnh hơn và đều đặn hơn.
Các nhà lý thuyết của trường phái này cho rằng các cuộc khủng hoảng lạm phát luôn kèm theo giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, nhưng đến khi trở lại ổn định thì sẽ kèm theo sự tăng nhanh của tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và thường vượt cả tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Lý thuyết này được hình thành từ giả thuyết về trung và dài hạn có một quan hệ âm giữa lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, trong đó tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là hậu quả và phản ứng trễ, ngược chiều so với lạm phát. Trong số nhiều kênh mà lạm phát có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế, có một kênh quan trọng như sau: Người đầu tư tiềm năng không còn tin vào khả năng kiểm soát môi trường kinh tế vĩ mô của chính phủ, trước hết là do đã để bùng nổ khủng hoảng lạm phát, tiếp đến là có thể áp đặt một hệ thống các chính sách kinh tế xã hội khắc khổ quá nhanh, làm cho cầu giảm đột ngột, kéo theo giảm các hoạt động kinh tế xã hội và giảm tỷ suất lợi nhuận đầu tư. Với lập luận lô gíc đó, họ sẽ nhanh chóng cắt giảm đầu tư và làm cho sản xuất tăng trưởng chậm lại.
Các lý thuyết hiện đại trong những năm gần đây về đầu tư cũng tập trung nhấn mạnh tới ảnh hưởng tiêu cực của tính không chắc chắn tới đầu tư của khu vực tư nhân. Thông thường, nhà đầu tư phải chờ đợi đến khi có những thông tin lạc quan về tương lai của nền kinh tế, trước hết là khả năng môi trường kinh tế vĩ mô quay trở lại ổn định và có thể dự báo được, thì mới khởi động những chiến dịch đầu tư mới. Lý thuyết này cũng giả định tốc độ lưu thông tiền tệ sẽ tăng khi các tác nhân kinh tế dự báo tỷ lệ lạm phát sẽ tiếp tục tăng hơn nữa. Theo quan điểm của lý thuyết này, tỷ lệ lạm phát phản ứng khá nhanh với các thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô, trong khi ảnh hưởng của nó tới tỷ lệ tăng trưởng kinh tế diễn ra chậm hơn.
Áp dụng vào trường hợp Việt Nam, theo đúng lập luận của lý thuyết này thì một sự tăng lên tạm thời của tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong các năm 1976, 1979, 1985, 1989 và sau này là 2001-2002 đã làm tỷ lệ lạm phát bất ngờ tăng nhanh, đi đôi với nó là tốc độ quay vòng của tiền tệ cũng nhanh hơn, tạo thành vòng xoáy lạm phát kéo dài khoảng 2 năm mới giảm bớt. Lạm phát tăng vọt đã kéo theo giảm tạm thời tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, và việc giảm này đến lượt mình lại làm chậm tốc độ quay trở lại trạng thái bình thường của tỷ lệ lạm phát (tức là quay lại tỷ lệ lạm phát tiềm năng hay tỷ lệ lạm phát tối ưu). Điều này diễn ra ngay cả khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã quay trở lại trạng thái ban đầu. Như vậy, theo cơ chế này, thời gian diễn ra lạm phát dài hơn thời ra diễn ra thâm hụt ngân sách mặc dù thâm hụt ngân sách là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Tóm lại, nguyên nhân ngắn hạn, trực tiếp gây ra các cuộc khủng hoảng lạm phát ở Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua là các cú sốc về thâm hụt ngân sách. Do vậy, sự chấm dứt của lạm phát cao vào năm 1989 hay vào năm 1993 cũng như sự trở lại của lạm phát nhẹ trong các năm 2002-2003 đều không phải là những sự kiện đặc biệt; đó chỉ là quá trình trở lại trạng thái ổn định dài hạn sau những chấn động đặc biệt về ngân sách.
Tuy nhiên, cần phải khảng định rằng tỷ lệ thâm hụt ngân sách chỉ là nguyên nhân ngắn hạn và trực tiếp của các cuộc bùng nổ lạm phát. Thực tế lạm phát cao ở Việt Nam đã luôn luôn tồn tại trước năm 1995 do ngoài nguyên nhân này, còn có những nguyên nhân khác, đặc biệt là các nguyên nhân theo quan điểm của thuyết trọng cơ cấu.
2.3) Nguyên nhân cơ bản và dài hạn của lạm phát:
Có thể giải thích nguồn gốc của lạm phát cao và kéo dài ở Việt Nam đồng thời theo thuyết trọng tiền và thuyết trọng cơ cấu; tức là theo mô hình hỗn hợp, phù hợp với đặc điểm của nhiều nước đang phát triển.
Thực vậy, một mặt chúng tôi đã tự hỏi liệu có phải sự tăng nhanh của tổng phương tiện thanh toán chỉ đóng vai trò bị động trước việc tăng giá kết quả từ những nhân tố gây lạm phát theo lập luận của thuyết trọng cơ cấu hay không ? vì theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển, người ta thường tìm thấy đằng sau bề nổi tiền tệ, có những nguyên nhân sâu xa về cơ cấu tạo ra những áp lực lạm phát. Những dấu hiệu này cũng được thể hiện khá rõ trong nền kinh tế Việt Nam. Nếu đúng như vậy thì nguyên nhân tiền tệ chỉ là triệu chứng bên ngoài của những phi cân bằng cơ cấu bên trong của nền kinh tế Việt Nam, và đây mới chính là những nguyên nhân cơ bản của lạm phát.
Thực tế không phải như vậy, bằng cách xây dựng một mô hình kinh tế lượng vĩ mô phản ảnh đồng thời tác động của các nhân tố trọng tiền và trọng cơ cấu tới tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam cho thời kỳ gần 30 năm qua, chúng tôi nhận thấy vai trò cực kỳ quan trọng của nhân tố tỷ lệ thâm hụt ngân sách, bên cạnh các nhân tố cơ cấu, trong phương trình giải thích nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam. Như vậy, nguyên nhân sâu xa của lạm phát ở Việt Nam chắc chắn mang yếu tố tiền tệ đúng theo lập luận của thuyết trọng tiền.
Mặt khác, khi nghiên cứu các nhân tố cơ cấu, chúng tôi cũng nhận thấy hầu hết các nhân tố gây áp lực lạm phát theo thuyết cơ cấu đều tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, sự yếu kém và trì trệ của cơ sở hạ tầng như giao thông, bưu điện đã thực sự là điểm thắt nút của nền kinh tế, ảnh hưởng rất bất lợi tới sản xuất và lưu thông hàng hoá, làm tăng chi phí sản xuất và gây ra lạm phát.
Thứ hai, khu vực kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng các phân tích chi tiết cho thấy cả ba nhân tố cơ cấu là sự trì trệ của cung, sự trì trệ của thị trường nhà nước và tình trạng khan hiếm ngoại tệ trong khu vực kinh tế này đều là nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam suốt trong gần 20 đầu phát triển kinh tế (1976-1991); chỉ từ năm 1992, khi ba nhân tố này có những cải thiện cơ bản thì tình hình lạm phát mới được cải thiện.
Sự trì trệ của cung trong khu vực kinh tế xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật nhất là cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cơ chế hình thành thu ngân sách, lợi nhuận doanh nghiệp và tiền lương áp dụng trong khu vực kinh tế này. Đây là những nhân tố tác động trực tiếp làm cho hiệu quả hoạt động kinh doanh của khu vực kinh tế này rất thấp và ngày càng giảm sút. Kết quả là sản xuất yếu kém, mất cân đối giữa cung và cầu hàng hoá tiêu dùng ngày càng trầm trọng, kéo theo tỷ lệ thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, tốc độ phát hành tiền ngày càng cao và tỷ lệ lạm phát ngày càng lớn. Quá trình lạm phát lại được đẩy nhanh khi nhà nước thực hiện các cuộc cải cách giá (thực chất là tăng giá trên thị trường nhà nước), tình trạng khan hiếm ngoại tệ kéo dài và tỷ lệ phá giá nội tệ so với ngoại tệ ngày càng mạnh.
Thứ ba, khu vực nông nghiệp đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế và xã hội Việt Nam trong những thập kỷ qua nhưng cũng chưa đựng những nhân tố gây lạm phát, đặc biệt là khả năng sản xuất yếu kém trong khi dân số tăng nhanh. Nguyên nhân của sự yếu kém của sản xuất nông nghiệp là chính sách tập thể hoá nông nghiệp của Nhà nước, chế độ sở hữu tập thể về đất đai và tư liệu sản xuất, sự trì trệ và bị trói buộc của thị trường, khan hiếm vốn đầu tư và các điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Hậu quả là sản xuất nông nghiệp tăng lên cực kỳ chậm chạp trong suốt giai đoạn trước năm 1988, trừ một vài năm đặc biệt. Trước sự tăng nhanh của cầu hàng nông sản do dân số tăng trưởng nhanh, chính sách công nghiệp hoá vội vã, chiến tranh và căng thẳng quân sự thường trực tại biên giới Tây Nam và phía Bắc..., các phi cân bằng trong thị trường hàng nông sản ngày càng trầm trọng, và hiển nhiên đã kéo theo tăng giá nông sản và gây ra hiện tượng lạm phát.
Trở lại mô hình kinh tế lượng nêu trên, chúng tôi thấy bên cạnh nhân tố tiền tệ (thể hiện bằng chỉ tiêu tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP), các nhân tố cơ cấu (thể hiện bằng tỷ lệ tăng trưởng sản xuất nông nghiệp và tỷ lệ phá giá hàng năm) đều đóng vai trò cực kỳ quan trọng tới giải thích nguyên nhân của lạm phát ở Việt Nam. Chính vì vậy mà chúng tôi cho rằng nguyên nhân cơ bản, sâu xa của lạm phát ở Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua đồng thời là nguyên nhân tiền tệ và nguyên nhân cơ cấu, không được loại bỏ bất kỳ nguyên nhân nào trong số 2 nguyên nhân trên.
Đặc biệt, vì ý nghĩa giải thích lạm phát của các nhân tố tiền tệ và cơ cấu đều rất cao nên không thể coi nguyên nhân nào là nguyên nhân cơ bản hơn, tức là cả hai loại nguyên nhân đều rất cơ bản.
Kết luận nguyên nhân của lạm phát trên đây có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và kiểm soát lạm phát của Việt Nam. Theo kết luận này, mọi chính sách kinh tế nhằm kiểm soát dài hạn tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam đều phải kết hợp đồng thời giữ tỷ lệ thâm hụt ngân sách hợp lý và khuyến khích phát triển sản xuất (tăng cung). Việc áp dụng chính sách tài chính, tiền tệ chặt có thể tạm thời ngăn chặn được lạm phát nhưng sẽ không loại bỏ được những phi cân bằng cơ cấu, do đó nguy cơ lạm phát vẫn rất cao. Ngược lại, chỉ tập trung vào chính sách cơ cấu để kích thích sản xuất mà không kiểm soát tốt tỷ lệ thâm hụt ngân sách thì sẽ xuất hiện nguy cơ lạm phát bởi cầu vượt. Như vậy, để đảm bảo một sự ổn định dài hạn của tỷ lệ lạm phát, cần phải có sự kết hợp khôn khéo, hài hoà giữa các chính sách tài chính, tiền tệ, cơ cấu và thương mại.
Kinh nghiệm Việt Nam cho thấy, chỉ khi sản xuất phát triển, chuyển từ nền kinh tế thiếu hụt, cung nhỏ hơn cầu, sang nền kinh tế dư thừa, cung lớn hơn cầu, thì việc kiểm soát lạm phát mới thực sự cơ bản vững chắc, và khi đó chính sách ngân sách, chính sách tiền tệ mới giữ vai trò chủ yếu trong quản lý lạm phát.
[1] Năm 1986, Chính phủ bãi bỏ cơ chế quy định giá bán tư liệu sản xuất nông nghiệp và giá thu mua nông sản theo giá cố định, chuyển sang cơ chế giá thoả thuận. Năm 1987, Nhà nước thả nổi phần lớn giá bán lẻ hàng công nghiệp tiêu dùng, trừ các mặt hàng bán theo chế độ định lượng được phục hồi sau thất bại của cải cách giá, lương tiền năm 1985. Năm 1988, Nhà nước bãi bỏ chế độ bán theo định lượng, thả nổi hầu hết cac loại giá bán lẻ, kể cả giá lương thực. Đến giữa năm 1988, trừ danh sách giá bị quản lý (gồm khoảng 40 mặt hàng cơ bản phục vụ đời sống nhân dân và chiếm khoảng 10% khối lượng hàng hoá đưa vào tính trong chỉ số giá tiêu dùng), các loại giá khác trên thị trường có tổ chức đã xấp xỉ ngang bằng giá trên thị trường tự do. Năm 1989, Nhà nước tự do hoá buôn bán tư liệu sản xuất và thả nổi phần lớn giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất, kể cả loại nhập khẩu; Nhà nước chỉ quy định giá một số loại vật tư chiến lược như xăng dầu, phân hoá học, thép, điện, giấy, nước, cước bưu điện, giá thuê nhà ở và cước vận tải. Từ năm 1990, giá cả những loại hàng hoá này vẫn bị Nhà nước kiểm soát, nhưng được tính toán trên cơ sở giá cả thị trường.
[2] Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tăng năm 1988 nhờ tác động của một số chủ trương chính sách, trong đó các chính sách tháo gỡ những khó khăn cho sản xuất là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về giao đất giao rừng cho các hộ nông dân, Nghị quyết 217/HĐBT về đổi mới hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, Nghị quyết của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân.
[3] Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán chỉ là 25,9%/ năm thời kỳ 1976-1980 và 89,7%/năm trong thời kỳ 1981-1984. Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Cám ơn bạn rất nhiều!! bài viết của bạn đã giúp đỡ mình rất nhiều ! ^_^
Trả lờiXóaCảm ơn bạn rất nhiều. Bài viết rất hay.
Trả lờiXóa