Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2013

(9) Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam

Bài viết cũ của tôi:
Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG VÀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI (1986-2007)
MỤC 1: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG CỦA NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
I- Thực trạng tăng trưởng kinh tế
1) Tăng trưởng của toàn nền kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng GDP) là một trong những chỉ tiêu cơ bản để phân tích quá trình tăng trưởng của khu vực thực của nền kinh tế vĩ mô. Đồ thị 4 dưới đây cho thấy trong những năm đầu đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta đạt rất thấp, năm 1986 chỉ là 2,84%, năm 1987 chỉ là 3,63%, năm 1988: 6,01%; năm 1989: 4,68% và năm 1990: 5,09%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng GDP đã có xu hướng liên tục tăng lên dù tốc độ tăng còn chậm.
Từ năm 1991 đến năm 1995, nền kinh tế Việt Nam đã thực sự đi vào quỹ đạo phát triển theo kinh tế thị trường và đạt được những tốc độ tăng trưởng ngày càng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 8,18%/năm, cao nhất kể từ trước tới nay. Đáng tiếc là sau đỉnh cao 1995, từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng GDP đã liên tục giảm sút đến tận năm 1999. Trong giai đoạn tiếp theo từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã phục hồi đồng thời đã liên tục tăng lên mặc dù tốc độ tăng lên chưa cao; đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng vẫn chưa đạt tới đỉnh cao năm 1995.
Đồ thị 4: Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm (%)
Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê "Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội tháng 2/2001; Niên giám thống kê 2007.
Phân tích chi tiết hơn dựa trên đồ thị 1, có thể thấy tăng trưởng GDP trong giai đoạn 21 năm đổi mới được chia làm ba thời kỳ rõ rệt: Trong thời kỳ đầu từ năm 1986 đến 1995, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng liên tục tăng lên và đạt đến mức cao nhất là 9,5% năm 1995. Trong thời kỳ thứ hai, từ năm 1996 đến 1999, tốc độ tăng trưởng GDP đã liên tục giảm sút, xuống đến mức thấp nhất là 4,8% năm 1999, xấp xỉ bằng mức năm 1989. Trong thời kỳ thứ ba, từ năm 2000 đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP lại được phục hồi và liên tục tăng lên, nhưng tốc độ tăng lên tương đối chậm.
Điều đặc biệt là trong mỗi thời kỳ, xu hướng tăng, giảm tốc độ tăng trưởng GDP đều kéo dài nhiều năm và rất rõ rệt, không có độ dao động lớn so với xu thế. Ngoài ra, sự đi xuống của tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các năm 1998-1999 trùng với thời gian khủng hoảng kinh tế, tài chính Châu Á. Do quá trình phát triển trong mỗi thời kỳ đều theo một xu thế khá ổn định nên có thể đưa ra giả thuyết là quá trình tăng trưởng kinh tế nước ta trong khoảng 2 thập kỷ gần đây có tính chất cơ cấu chứ không phải là tình thế. Điều này cũng có nghĩa là những quan hệ trong giai đoạn vừa quan mang tính trung hạn và tương đối ổn định nên rất thuận lợi khi xây dựng các mô hình phân tích và dự báo trung hạn.
Mặt khác, nếu so với tốc độ tăng trưởng của các nước trong khu vực và thế giới thì thấy trong những năm đổi mới vừa qua, nhất là từ đầu thập kỷ 90 đến nay, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta khá cao, gần đây chỉ thua Trung Quốc, Ấn Độ và một số nước có quy mô kinh tế nhỏ.
2) Tăng trưởng của các khu vực kinh tế



Nguồn số liệu: Xem chú thích tại đồ thị 1.
Quá trình tăng trưởng như trên của toàn nền kinh tế nhìn chung có một số điểm khác so với tiến triển ở cấp các khu vực kinh tế vĩ mô gộp. Đồ thị 5 cho thấy trong giai đoạn 1986-2004, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực nông nghiệp có xu hướng liên tục tăng lên đến tận năm 1999 chứ không phải chỉ đến năm 1995-1996 như toàn nền kinh tế. Ngược lại, trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, trong khi tốc độ tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế liên tục tăng lên thì tốc độ tăng giá trị gia tăng khu vực nông nghiệp chậm lại, thậm chí có xu hướng giảm sút. Tuy nhiên, nếu như tốc độ tăng trưởng nông nghiệp trong giai đoạn đầu đổi mới 1986-1992 không ổn định, thì từ năm 1993 đến nay, tốc độ tăng trưởng của khu vực này khá ổn định.
Đối với ngành công nghiệp (kể cả xây dựng), đồ thị 2 cho thấy tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp trong chặng đường hơn 20 năm qua được chia làm bốn giai đoạn khá rõ rệt. Trong giai đoạn đầu (1986-1989), tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực công nghiệp giảm đi rất nhanh, từ 10,9% năm 1986 giảm xuống âm 2,6% năm 1989. Giai đoạn 2 (1990-1996) là giai đoạn bùng nổ của sản xuất công nghiệp; tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực này liên tục tăng nhanh và đạt tới 14,6% năm 1996. Trong giai đoạn 3 (1997-1999), tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp lại liên tục giảm xuống, chỉ còn 7,7% năm 1999. Từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của công nghiệp tăng lên, nhưng không có hiện tượng bùng nổ như trong giai đoạn 2 mà tăng lên chậm, song kéo dài và khá vững chắc.
Về dịch vụ, trong giai đoạn đầu đổi mới, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ đã tăng lên rất nhanh và từ năm 1988 đến 1996 đã liên tục được duy trì ở mức khá cao (trên 8%/năm), thậm chí liên tục cao hơn đáng kể so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của dịch vụ đã đạt mức đặc biệt cao ngay trong giai đoạn đầu cải cách chủ yếu là nhờ cải cách đã cho phép tự do hoá các hoạt động dịch vụ và phát triển mạnh khu vực kinh tế thị trường, tạo ra nhiều cơ hội cho dịch vụ phát triển trong khi cạnh tranh của nước ngoài đối với hoạt động của khu vực này hầu như không có trong những năm đầu cải cách.
Tuy nhiên, từ năm 1996, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của dịch vụ đến năm 1999, cùng với xu thế chung của khu vực công nghiệp, tốc độ tăng trưởng của dịch vụ giảm đi rất nhanh. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng của dịch vụ đã liên tục tăng lên, song từ năm 2006 mới vượt lên so với tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế.
Như vậy, về tốc độ tăng trưởng, nếu như trong khoảng 4 năm đầu đổi mới (1986-1989), quá trình phát triển của toàn nền kinh tế nước ta nói chung và của các ngành sản xuất gộp nói riêng còn có nhiều biến động thất thường thì trong 18 năm trở lại đây (1990-2007), các ngành kinh tế đều tăng trưởng khá ổn định và tương đối khớp nhau; điều này thể hiện một xu hướng tiến triển mang tính cơ cấu chứ không phải chỉ là tình thế, tạm thời. Đồ thị 2 cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần từ năm 2000 chủ yếu dựa trên phục hồi sản xuất công nghiệp và đặc biệt là sự đi lên khá nhanh của khu vực dịch vụ.
  Cũng như đối với toàn nền kinh tế, các so sánh quốc tế cho thấy tình hình phát triển của các khu vực trong nền kinh tế nước ta đều thuộc loại hàng đầu thế giới. Do vậy, có thể đánh giá khái quát: Trong hơn 2 thập kỷ đổi mới vừa qua, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước là khá tốt, vừa nhanh, vừa theo xu hướng ngày càng ổn định, bền vững. Đây là một trong những thành tựu chủ yếu của thời kỳ đổi mới. Để giải thích quá trình tăng trưởng đã diễn ra trong khoảng 2 thập kỷ gần đây ở nước ta, dưới đây sẽ phân tích một số nhân tố chính tác động tới quá trình đó, bao gồm các nhân tố cung (vốn, lao động) và các nhân tố cầu (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu).
II- Vai trò của các nhân tố cung đối với tăng trưởng kinh tế
1) Đầu tư
Đầu tư đã đóng vai trò rất quan trọng đến quá trình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nêu trên của nền kinh tế nước ta vì cũng như đối với các nền kinh tế khác, đầu tư là nhân tố chính tạo ra quá trình tăng trưởng trung và dài hạn. Quá trình đưa nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường và những thay đổi về chính sách và cơ chế đầu tư từ năm 1986 đến nay đã làm cho môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng lành mạnh hơn, qua đó, đã khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn ra đầu tư làm giàu và tham gia phát triển đất nước.
Như các lý thuyết kinh tế nêu trên đã chỉ rõ, khi phân tích nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế, cần đặc biệt lưu ý tới nhân tố đầu tư vì đầu tư không chỉ là nhân tố cung (đầu vào) đối với sản xuất mà còn là nhân tố cầu (giải quyết đầu ra); do đó đây là một nhân tố rất đặc biệt có thể tham gia giải thích tăng trưởng kinh tế trong cả mô hình cung lẫn mô hình cầu, trong cả dự báo ngắn hạn tới dự báo tăng trưởng dài hạn. Kinh nghiệm thế giới cho thấy khi cung hàng hoá và dịch vụ thấp so với nhu cầu thì cần tập trung huy động các nguồn vốn đầu tư để nâng cao năng lực của nền kinh tế, từ đó sản xuất ra nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn, vừa tạo ra quá trình tăng trưởng kinh tế, vừa đáp ứng tốt hơn nhu cầu. Ngược lại, trong những năm cung vượt cầu, tăng nhanh đầu tư cũng là một chính sách, biện pháp kích cầu quan trọng, đóng góp vào quá trình phục hồi tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế vì quá trình đầu tư cũng là quá trình tạo ra nhu cầu mới thông qua xây dựng thêm nhà xưởng, mua sắm thêm trang thiết bị phục vụ đầu tư, thuê thêm lao động và trả lương cho số lao động tăng thêm này để họ tăng tiêu dùng...
Đồ thị 6: Tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ đầu tư và
     tỷ lệ tiết kiệm nội địa so với GDP (%)

Chú thích: Các tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa được thể hiện theo trục bên trái; tốc độ tăng trưởng GDP được thể hiện theo trục bên phải. Nguồn số liệu: Xem chú thích tại đồ thị 4.
Những số liệu thống kê cho thấy nguồn gốc chính của những tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của nước ta trong hơn hai thập niên đổi mới vừa qua gắn liền với việc gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa trên GDP (xem đồ thị 6). Nếu như trong thời kỳ 1986-90, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa trên GDP rất thấp, trung bình chỉ lần lượt là 12,6% và 2,4%/năm làm cho tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 4,4%/năm, thì ngược lại, trong thời kỳ 1991-95, tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm nội địa tăng lên tới 22,3% và 14,7%/năm làm cho tốc độ tăng trưởng GDP cũng tăng lên mạnh, đạt trung bình tới 8,2%/năm.
Tiếp đến, trong các năm 1996-1999, mặc dù tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm tiếp tục tăng lên tới 32,8% và 24,6%/năm, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP lại liên tục giảm xuống, trung bình còn khoảng 7,0%/năm. Phân tích chi tiết hơn cho thấy trong giai đoạn này, ngoài nhân tố đầu tư, còn có những nhân tố khác đã ảnh hưởng khá mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Thực tế, tốc độ tăng trưởng GDP vẫn đạt mức cao 9,3% năm 1996 và 8,2% năm 1997 vẫn tương ứng với tốc độ tăng trưởng đầu tư, nhưng từ năm 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Châu Á và những yếu kém trong công tác quản lý kinh tế của ta, cầu trong nước cũng như cầu đối với hàng xuất khẩu của nền kinh tế nước ta đều tăng chậm lại; do đó tốc độ tăng trưởng đầu tư tiếp tục cao đã nhanh chóng tạo ra hiện tượng cung vượt cầu, hàng hoá và dịch vụ không tiêu thụ được. Kết quả cuối cùng là hiệu quả đầu tư giảm sút, dẫn tới tốc độ tăng trưởng đầu tư chậm lại; tỷ lệ đầu tư trên GDP hậu như không tăng trong giai đoạn này mặc dù tỷ lệ tiết kiệm nội địa tăng lên nhanh.
Từ năm 2000, xu hướng tăng dần về tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta mới được phục hồi. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 2000 đến nay vẫn thấp so với trong giai đoạn 1992-1997. Đồ thị cũng cho thấy trong điều kiện tỷ lệ đầu tư trên GDP của nước ta ngày càng tăng trong những năm gần đây, nếu duy trì được hiệu quả sử dụng vốn đầu tư như xu thế trong giai đoạn trước năm 1996 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm 2000-2007 phải đạt khoảng 10%/năm chứ không phải trung bình chỉ 7,6%/năm.
Như vậy, nếu như trong 10 năm đầu đổi mới, vốn đầu tư đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế thì trong khoảng 10 năm gần đây, vấn đề chất lượng đầu tư ngày càng quan trọng, hiệu quả vốn đầu tư giảm sút nhanh, nên mặc dù khối lượng vốn đầu tư tiếp tục tăng nhanh nhưng tốc độ tăng trưởng GDP đã tăng lên không tương xứng.
2) Lao động
Lý thuyết và kinh nghiệm thực tế tại các nước đang phát triển đều khẳng định vai trò to lớn của nguồn nhân lực trong quá trình đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và công nghiệp hoá. Trong giai đoạn đầu phát triển, khi nguồn vốn còn khan hiếm, nguồn nhân lực thường đóng vai trò rất quan trọng, như là một nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng chủ yếu của nền kinh tế. Trong giai đoạn công nghiệp hoá hiện nay, vai trò của vốn đầu tư tăng lên nhưng không vì thế mà vị trí của nguồn nhân lực bị xem nhẹ vì với chất lượng ngày càng cao, nguồn nhân lực đang trở thành nhân tố cơ bản tạo ra công nghệ và kỹ thuật mới làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Đặc biệt, khi khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành động lực chủ yếu của quá trình tăng trưởng thì vai trò nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu của nguồn nhân lực sẽ cực kỳ quan trọng.
Ở nước ta, tình hình cũng không phải là ngoại lệ. Các số liệu tăng trưởng kinh tế và sử dụng lao động từ khi đổi mới đến nay đã khẳng định nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Trong những năm nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, tốc độ tăng trưởng việc làm trong nền kinh tế quốc dân và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn cũng tăng nhanh trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm khá mạnh. Ngược lại, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, tốc độ tăng trưởng việc làm trong nền kinh tế quốc dân và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lại giảm xuống trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã tăng lên.
  Đồ thị 7: Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng GDP
                                              và tỷ lệ thất nghiệp thành thị(%)

Trong những năm nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh 1991-1995, tốc độ tăng trưởng việc làm trong nền kinh tế quốc dân và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn cũng tăng nhanh trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm khá mạnh. Ngược lại, từ năm 1996 đến 1999, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại, tốc độ tăng trưởng việc làm trong nền kinh tế quốc dân và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lại giảm xuống trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã tăng lên. Từ năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng tăng dần, tương ứng với nó là tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị giảm mạnh từ 7,4% năm 1999 xuống còn 4,55% năm 2007. Đồ thị trên đây minh họa quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp thành thị trong hơn gần 2 thập kỷ qua.
Như vậy, có thể nói, đã tồn tạo một quan hệ khá chặt giữa tăng trưởng kinh tế và sử dụng nguồn nhân lực trong nền kinh tế nước ta từ năm 1989 đến nay. Tình hình tương tự nếu phân tích quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sử dụng lao động trong các khu vực kinh tế. Rõ ràng trong điều kiện cung cơ bản vẫn thấp hơn cầu và tăng trưởng chủ yếu dựa trên phát triển theo chiều rộng ở nước ta trong 2 thập kỷ gần đây, khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhu cầu sử dụng lao động tăng lên và qua đó lao động đã đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng kinh tế đất nước. Vì quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sử dụng lao động, vốn đầu tư, đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở nước ta trong thời gian qua khá chặt nên có thể tin rằng quá trình phát triển của kinh tế nước ta trong 2 thập kỷ gần đây đã chủ yếu dựa trên các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng.
III- Vai trò của các nhân tố cầu đối với tăng trưởng kinh tế
1) Hoạt động xuất nhập khẩu
Cũng như đầu tư, xuất khẩu là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo ra bước phát triển kinh tế nhanh trong thời kỳ đổi mới. Xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên rất nhanh từ khi đất nước thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế (năm 1989). Nếu như tổng giá trị xuất khẩu năm 1985 chỉ đạt 698,5 triệu USD và năm 1988 chỉ đạt 1038,4 triệu USD thì sang năm 1989 đã tăng vọt lên 1946 triệu USD, rồi 5448,9 triệu USD năm 1995, 14,5 tỷ USD năm 2000 và tăng nhanh tới 48 tỷ USD năm 2007. Đặc biệt, nếu loại trừ yếu tố xuất khẩu dầu thô thì có thể thấy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu còn cao hơn nữa.
Số liệu trong bảng dưới đây cho thấy có một quan hệ tỷ lệ thuận giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế: trong những năm nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cũng rất cao và ngược lại.
  Bảng 5: Một số chỉ tiêu chính phản ánh hoạt động xuất nhập khẩu

Giá trị xuất khẩu (triệu usd)
Tăng trưởng xuất khẩu (%/năm)
Tốc độ tăng trưởng GDP
Giá trị nhập khẩu (triệu usd)
Tăng trưởng nhập khẩu (%/năm)
1985
698,5
7,5

1857,4
6,4
1986
789,1
12,9
2,8
2155,1
16,0
1987
854,2
8,2
3,6
2455,1
13,9
1988
1038,4
21,5
6,0
2756,7
12,3
1989
1946,0
87,5
4,7
2565,8
-6,9
1990
2404,0
23,5
5,1
2752,4
7,3
1991
2087,1
-13,2
5,8
2338,1
-15,1
1992
2580,7
23,7
8,7
2540,7
8,7
1993
2985,2
15,7
8,1
3924,0
54,4
1994
4054,3
35,8
8,8
5825,8
48,5
1995
5448,9
34,4
9,5
8155,4
40,0
1996
7255,9
33,2
9,3
11143,6
36,6
1997
9185,0
26,6
8,2
11592,3
4,0
1998
9360,3
1,9
5,8
11499,6
-0,8
1999
11541,4
23,3
4,8
11742,1
2,1
2000
14483,0
25,5
6,8
15636,5
33,2
2001
15029,0
3,8
6,9
16218,0
3,7
2002
16706,1
11,2
7,1
19745,6
21,7
2003
20149,3
20,6
7,3
25255,8
27,9
2004
26485
31,4
7,8
31968,8
26,6
2005
32447,1
22,5
8,4
36761,1
15,0
2006
39826,2
22,7
8,2
44891,1
22,1
2007
48561,4
21,9
8,5
62682,2
39,6
Nguồn: Xem chú thích tại đồ thị 1.
Mặt khác, quá trình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu trong nền kinh tế cũng diễn ra khá nhanh. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp trong tổng giá trị xuất khẩu đã liên tục tăng lên rất nhanh trong suốt 2 thập kỷ qua; trong đó xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là công nghiệp, đang ngày càng trở nên cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu hàng nông lâm hải sản đã giảm đi rất nhanh. Trong nhóm hàng công nghiệp, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng giảm xuống trong khi tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp lại tăng lên rất mạnh. Đáng chú ý là trong khi tỷ trọng xuất khẩu của hai nhóm hàng nông sản và lâm sản đều có xu hướng giảm xuống thì tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng thuỷ sản có xu hướng tăng lên, nhất là trong những năm gần đây, phản ánh hiệu quả xuất khẩu tăng lên.
Phân tích các mối quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu và GDP (%) cho thấy về nhập khẩu, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu có quan hệ khá chặt với xuất khẩu. Tương tự, tồn tại quan hệ khá chặt giữa tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng nhập khẩu và tăng trưởng GDP. Những quan hệ này cho thấy giữa ba chỉ tiêu tăng trưởng GDP, xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ nhân quả trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau theo chiều nhập để sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu hoặc tăng cường xuất khẩu để có ngoại tệ nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế.
Như vậy, dù trực tiếp hay gián tiếp, các nhân tố xuất khẩu, nhập khẩu đều có tác động tới tăng trưởng GDP, trong đó vai trò của xuất khẩu (cầu bên ngoài) rất lớn vì nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh, nó càng ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong GDP, qua đó đóng góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP.
2) Tiêu dùng
Mục tiêu của sản xuất là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của toàn xã hội và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Việc nghiên cứu tiến triển của tiêu dùng cuối cùng trong các mô hình dự báo trung hạn cũng có vai trò rất quan trọng mặc dù không quan trọng bằng trong các mô hình dự báo ngắn hạn. Thực tế tại các nước đang phát triển cho thấy ở tầm trung hạn, các nhân tố đầu vào cho quá trình tăng trưởng như vốn, lao động, vật tư, năng lượng thường đóng vai trò hơn so với các nhân tố cầu; tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn cung vượt cầu đối với nhiều loại hàng hoá thì những biến động của cầu vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới điều chỉnh sản xuất và tạo ra quá trình ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó đảm bảo cho quá trình tăng trưởng trung hạn diễn ra thuận lợi.
Ở nước ta, tiêu dùng là thành phần quan trọng nhất trong tổng cầu vì nó luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng cầu[1]. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng tỷ trọng của tiêu dùng cuối cũng đã giảm dần trong giai đoạn đổi mới: từ chỗ chiếm tỷ trọng 83,7% tổng cầu năm 1986, đến năm 1990 chỉ còn 70,4%, năm 1995 còn 57,7%, năm 2000 còn 46,6% và năm 2004 còn 42,7%. Đặc biệt, trong những năm gần đây, vai trò của tiêu dùng đã giảm sút do tỷ trọng của xuất khẩu đã tăng lên[2]. Mặt khác, theo đà công nghiệp hóa, tỷ trọng của tích luỹ trong tổng cầu cũng đang tăng lên rất nhanh. Năm 2006, tiêu dùng chỉ còn chiếm 38,6% tổng cầu trong khi tích luỹ tài sản chiếm 20,1% và xuất khẩu chiếm 41,3%. Năm 2007, tiêu dùng chỉ còn chiếm khoảng 37,1% tổng cầu trong khi tích luỹ tài sản tăng lên 21,3% và xuất khẩu tăng lên 41,6%.
Mặc dù vậy, ảnh hưởng của tiêu dùng tới tăng trưởng kinh tế rất lớn, nhất là khi tình trạng cung lớn hơn cầu thường xuyên diễn ra trong suốt 20 năm đổi mới. Các phân tích qua đồ thị cho thấy có một quan hệ khá chặt giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng trong suốt 20 năm qua. Tốc độ tăng trưởng của tổng tiêu dùng xã hội trước năm 1993 tương đối thấp, trung bình khoảng 4%/năm, tương ứng với tốc độ tăng này là tốc độ tăng trưởng GDP cũng thấp. Trong giai đoạn 1992-1997, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tăng lên rất nhanh tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP rất cao. Từ năm 1998 đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng lại giảm mạnh, chỉ còn 1,8% năm 1999 và 3,75% năm 2000, tức là thấp hơn cả trước năm 1993, tương ứng với quá trình đó là tốc độ tăng trưởng GDP cũng rất thấp. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ năm 2004, tiêu dùng xã hội tăng lên nhanh đã kèm theo sự tăng lên khá mạnh của tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Về mặt cơ cấu, đáng chú ý là trong suốt giai đoạn từ năm 1987 đến 1995, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ liên tục cao hơn hẳn tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của dân cư, làm cho tỷ trọng tiêu dùng chính phủ trong tổng tiêu dùng xã hội tăng nhanh. Nguyên nhân là trong giai đoạn này, thu ngân sách của chính phủ tăng lên rất nhanh (thể hiện qua tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tăng mạnh) cùng với nhiều nguồn viện trợ từ bên ngoài đã cho phép Chính phủ mở rộng nhanh chi tiêu, trong khi lạm phát cao (trước năm 1991) và chính sách thuế của Chính phủ đã hạn chế tốc độ tăng thu nhập của dân cư và hạn chế tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của họ.
Tuy nhiên từ năm 1996 đến năm 1999, đã diễn ra một xu hướng hoàn toàn ngược lại: tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ liên tục thấp hơn tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của dân cư. Đặc biệt, tiêu dùng chính phủ năm 1999 giảm so với năm 1998, tức là tốc độ tăng trưởng âm: -5,7%. Nguyên nhân của tình hình này là thu ngân sách của Chính phủ giảm mạnh. Trước tình hình suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế do cầu trong và ngoài nước đều giảm mạnh, từ giữa năm 1999 Chính phủ đã bắt đầu thực hiện chương trình kích cầu khá toàn diện, bao gồm cả cầu chính phủ và cầu tư nhân, cầu trong nước và cầu nước ngoài. Nhờ đó, từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ và tiêu dùng tư nhân, tốc độ tăng trưởng cầu trong nước và cầu nước ngoài đều tăng lên rõ rệt, đặc biệt là từ năm 2002 đến nay.
Số liệu cũng cho thấy ngay trong giai đoạn kích cầu từ năm 2000 đến nay, chính sách vẫn nhằm chủ yếu vào kích cầu tiêu dùng của khu vực tư nhân vì tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ thấp so với tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tư nhân (5,6%/năm so với 5,8%/năm). Nếu tính cả tăng trưởng để bù vào sự sụt giảm năm 1999 thì tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ giai đoạn 1999-2003 chỉ đạt 3,5%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tư nhân đạt 5%/năm.
Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng tổng tiêu dùng xã hội và tăng trưởng tiêu dùng của riêng các hộ gia đình có quan hệ mật thiết với nhau. Trong các năm 1991-1995 và 1999-2000, chênh lệch về tốc độ tăng trưởng giữa tiêu dùng xã hội và GDP tăng mạnh chứng tỏ hoặc cầu nước ngoài, hoặc cầu tích luỹ hoặc cả hai loại cầu này đều tăng nhanh và do đó thay thế cho tiêu dùng làm nhân tố cơ bản để phát triển. Mục dưới đây sẽ phân tích sâu hơn vai trò của những nhân tố này và chỉ ra rằng tăng trưởng tích luỹ tài sản là nhân tố chính để tạo ra quá trình phát triển trong những năm tăng trưởng cao.
Về mặt kinh tế lượng, kiểm định quan hệ nhân quả theo phương pháp Granger cho thấy chiều quan hệ đi từ tăng trưởng đến tiêu dùng xã hội nói chung và tiêu dùng cá nhân nói riêng rất mạnh trong khi chiều ngược lại rất yếu. Nguyên nhân của hiện tượng này là trong giai đoạn cải cách vừa qua, trong nền kinh tế nước ta, nói chung tổng cung vẫn thấp hơn tổng cầu (trừ những năm gần đây), nên tăng cung kéo theo tăng thu nhập và tăng cầu trong khi chiều ngược lại không đáng kể.
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện trong một số lĩnh vực của nền kinh tế nước ta tình trạng tổng cung lớn hơn tổng cầu thể hiện ở những hiện tượng điển hình như tỷ lệ sử dụng công suất máy móc, thiết bị thấp, khối lượng hàng tồn kho tăng nhanh và liên tục được duy trì ở mức cao, giá cả hàng tiêu dùng không tăng, thậm chí giảm... Tuy nhiên, vì đây là hiện tượng mới diễn ra với chuỗi thời gian quá ngắn nên quan hệ nhân quả đi từ tổng cầu tới tăng trưởng GDP chưa thể hiện trong các kiểm định kinh tế lượng. Để làm rõ hơn vai trò của các yếu tố tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu Thực trạng chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta.



[1] Tng cu gm cu tiêu dùng, cu tích lu và cu xut khu trong cân đối s dng GDP.
[2] T trng ca xut khu trong tng cu đã tăng vt, t 5,7% năm 1986 lên 19,2% năm 1990 và 34,7% năm 2000 và 36,4% năm 2004.

6 nhận xét:

  1. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa
  2. Vì mình nghiên cứu đủ mọi thứ nên hầu như thứ nào cũng có tài liệu, nhưng mỗi thứ 1 ít, thường là 1-3 sách lý thuyết suông để hiểu vấn đề đó là gì, 2-5 tài liệu trung bình, còn lại toàn là các bài báo chuyên sâu, nhất là các bài phân tích kinh tế lượng giữa trình độ học vấn cấp 1, 2, đại học tới tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Mình nhớ hồi làm đề tài mình cũng chẳng có thời gian để điểm lại các kết quả nghiên cứu kinh tế lượng về quan hệ này (nhắc lại: để giải ngân chứ chẳng cần chất lượng mà). Lúc nào rảnh mình đọc lại bài của mình và nhớ lại xem thế nào.
    Trước mình vẫn nhớ 1 trong các nhà KT có tiếng đã nghiên cứu nhiều về quan hệ này là Robert J. Barro (ví dụ: Human Capital and Economic Growth - http://www.kc.frb.org/publicat/sympos/1992/s92barro.pdf )
    Linh muốn mình tìm giúp tài liệu phục vụ nghiên cứu gì thì phải nói cụ thể chứ tài liệu mênh mông lắm. Phải nắm chắc mình cần gì để tìm đúng mấy tài liệu cần thôi.
    Trong mạng này mình cũng có 1 bài viết về cách nghiên cứu, nhất là làm luận án TS sinh: 1 câu hỏi, 1 phương pháp, 1 câu trả lời.

    Trả lờiXóa
  3. Hôm trước tôi thử xóa đi 2 bình luận để xem cách khôi phục của Blog như thế nào, nhưng rồi loay hoay mà không khôi phục được. Nay đăng lại câu hỏi của bạn Linh:

    Cháu chào bác,

    Cháu là người vẫn đọc blog của bác. Cháu là một giảng viên đang giảng dạy kinh tế vĩ mô tại Trường Đại học X (tôi không nêu tên thật của trường). Hiện cháu đang làm nghiên cứu sinh với đề tài về Vai trò của vốn con người đối với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam theo cách tiếp cận vĩ mô và vi mô. Hiện cháu đang đọc tài liệu "Một cách tiếp cận nghiên cứu chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam". Cháu thấy đây là một tài liệu rất hay có thể giúp ịch nhiều cho cháu trong việc thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, cháu đang cần tìm những tài liệu của cả trong nước và nước ngoài viết về nhân tố con người trong chất lượng tăng trưởng. Cháu mạo muội viết mail này hỏi bác có nguồn tài liệu nào về vấn đề này có thể gửi hoặc cho cháu biết được không ạ?
    Cháu rất mong nhận được hồi âm từ bác. Cháu rất cảm ơn bác đã lập ra một blog vô cùng hữu ích cho nhiều người (bạn bè cháu cũng nhiều người rất tích blog của bác).

    Cháu chúc bác luôn mạnh khỏe để chia sẻ nhiều thông tin hữu ích cho nhiều người thích đọc.

    Trần Thùy Linh

    Trả lờiXóa
  4. thật sự trang web này có rất nhiều số liệu cần thiết cho người nào đó làm thuyết trình về kinh tế học. Mình muốn hỏi ai là người lập ra trang web này vậy?
    Mình cảm ơn người này nhiều lắm.

    Trả lờiXóa
  5. Cám ơn bạn đã động viên. Ai làm không quan trọng, miễn là có ích cho các bạn

    Trả lờiXóa