Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

(2) CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD

Bài giảng cũ của tôi về kinh tế vĩ mô 
phục vụ xây dựng các mô hình kinh tế.

CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
III- CÁC PHƯƠNG TRÌNH CHỦ YẾU TRONG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG GỘP DÙNG ĐỂ DỰ BÁO
Trên cơ sở nhiều tài liệu khác nhau, chúng tôi chọn ra những phương trình tương đối đơn giản và hay được sử dụng nhất trong mục tiêu dự báo kinh tế để bạn đọc tham khảo. 

Các phương trình này được chia làm nhóm:
- Nhóm các phương trình dự báo cung, cầu và giá cả (khu vực thực);
- Nhóm các phương trình dự báo tài chính;
- Nhóm các phương trình dự báo tiền tệ;
- Nhóm các phương trình dự báo xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế.
Sau khi xây dựng các phương trình, cần phải tập hợp chúng lại thành một hệ thống hoàn chỉnh, thống nhất, tức là thành một mô hình. Dưới đây là nội dung cụ thể của các vấn đề trên.
A) Các phương trình dự báo cung, cầu và giá cả
1) Dự báo khả năng sản xuất và nhu cầu:
  1.1) Yêu cầu khớp nhau giữa các dự báo:
  Kết quả sản xuất trong thời kỳ dự báo phụ thuộc đồng thời vào khả năng sản xuất sẵn có và tiêu thụ (trong và ngoài nước); trong đó tiêu thụ là điều kiện để xác định sản xuất. Do vậy các dự báo sản xuất phải tương thích đồng thời với các dự báo về khả năng sản xuất và tổng cầu.
  Mặt khác, dự báo các chỉ tiêu gộp tầm quốc gia phải phù hợp với dự báo phát triển của các ngành kinh tế. Theo kinh nghiệm, có thể đảm bảo sự khớp nhau này qua hai cách: Một là, dự báo phát triển của các ngành rồi tổng hợp các kết quả lại để có dự báo cho toàn nền kinh tế. Hai là, dự báo chung cho toàn bộ nền kinh tế rồi phân chia cho từng ngành cụ thể; phương pháp này có thể đòi hỏi phải thực hiện nhiều bước lặp để tạo sự khớp nhau và các kết quả có thể được chấp nhận.
  Tuy nhiên, theo bất cứ cách nào, cũng phải luôn đảm bảo các dự báo sản xuất không vượt quá dự báo khả năng sản xuất và dự báo tổng cầu, trong khi hai dự báo này được thực hiện qua các mô hình khác.
  1.2) Dự báo khả năng sản xuất và tổng cung:
  a) Các yếu tố xác định chính:
  Khả năng sản xuất được hiểu là mức sản xuất tối đa có thể thực hiện được tại từng thời điểm, có tính đến các yếu tố ràng buộc về cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn, lao động và các điều kiện sản xuất khác. Nói chung sản xuất không thể vượt quá khả năng sản xuất, nhưng trong một thời kỳ ngắn, sản xuất có thể tạm thời vượt quá khả năng. ở tầm trung hạn, khả năng sản xuất có thể tăng lên nhờ tăng năng xuất mặc dù những điều kiện vật chất không thay đổi; đó là nhờ yếu tố con người. Trên thực tế, không đo được khả năng sản xuất, nhưng có thể ước tính thông qua chỉ tiêu khả năng sản xuất hữu hiệu, quan sát được, và tỷ lệ sử dụng khả năng sản xuất.
  Các nhân tố chính xác định khả năng sản xuất gồm:
  - Số lượng và chất lượng nguồn lao động sẵn có;
  - Tổng tài sản cố định hiện có và thời gian đã sử dụng;
  - Kỹ năng công nghệ sẵn có;
  - Các điều kiện khí hậu, nhất là trong một nước có nền nông nghiệp chiếm tỷ trọng quan trọng trong nền kinh tế như nước ta.
  Bên cạnh những nhân tố phổ biến trên, còn có những nhân tố đặc thù tuỳ theo từng nước cũng ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất. Ví dụ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào hay nghèo nàn, cơ cở hạ tầng giao thông, điện nước...
  Để dự báo khả năng sản xuất,  phải tính đến tiến triển của tất cả các nhân tố đặc thù ảnh hưởng tới những khu vực quan trọng nhất của nền kinh tế. Cách tốt nhất để đưa được các nhân tố này vào mô hình dự báo tăng trưởng GDP là xây dựng các dự báo theo từng khu vực rồi tổng hợp lại cho toàn nền kinh tế. Khi đó, cân bằng trong dự báo tổng thể sẽ được đảm bảo.
  Thí dụ, các điều kiện khí hậu có ảnh hưởng rất lớn tới dự báo sản xuất nông nghiệp, nhưng do đặc điểm của chúng, rất khó dự báo những yếu tố này. Khi đó, người ta giả thiết các điều kiện tương lai sẽ là trung bình của tình hình đã diễn ra trong quá khứ; trên cơ sở đó sẽ dự báo khả năng phát triển nông nghiệp. Mặt khác, tăng trưởng nhanh của một khu vực không thể tách rời tăng trưởng của các khu vực khác; ví dụ tăng trưởng của khu vực vận tải phải phụ thuộc vào tăng trưởng mong đợi của khu vực sản xuất khác. Vì vậy, nếu dự báo theo ngành, rồi tổng hợp chung cho toàn nền kinh tế thì chính xác hơn.
  b) Các phương pháp dự báo:
  Số phương pháp dự báo tổng cung tương đối nhiều, người ta thường chia ra làm hai loại lớn: các phương pháp dựa trên phân tích xu hướng phát triển trong quá khứ của biến cần dự báo, và các phương pháp dựa trên phân tích quan hệ giữa biến cần dự báo với các nhân tố chính xác định nó.
  Trong thực tế, dự báo kinh tế vĩ mô thường gặp những trở ngại rất lớn về phương pháp luận và thực nghiệm. Tính thiếu chính xác, không đầy đủ của thông tin, dữ liệu là một trong những hạn chế quan trọng nhất. Điều này giải thích tại sao người ta phải áp dụng các phương pháp dự báo đơn giản nhất, vì không thể sử dụng các lý thuyết kinh tế cũng như những kỹ thuật kinh tế lượng tinh vi khi mà không thể thu thập được những số liệu cần thiết. Dưới đây, xin giới thiệu hai loại phương pháp trên:
  (1) Dự báo dựa trên phân tích xu thế trong quá khứ:
  Để dự báo tiến triển tương lai của tổng cung, tức là dự báo GDP, người ta có thể ước lượng tỷ lệ tăng trưởng trong một thời kỳ đã qua trong quá khứ, và đặt giả thiết rằng tỷ lệ này sẽ được duy trì trong thời kỳ dự báo. Đây là phương pháp dự báo dựa trên tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng vì tỷ lệ tăng trưởng trong một thời gian dài thường được coi là tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng của một nền kinh tế; và tỷ lệ tăng trưởng hàng năm có xu hướng hội tụ về tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Bên cạnh dự báo trực tiếp tổng cung theo phương pháp này, có thể sử dụng nó để dự báo cho các khu vực của nền kinh tế rồi cộng lại để có tổng cung.
  Để tính toán tỷ lệ tăng trưởng trung bình cho một thời kỳ đã qua, trước tiên phải chọn thời kỳ điển hình, phù hợp nhất. Có thể chọn thời kỳ căn cứ vào chu kỳ của sản xuất. Đặc biệt, có thể sử dụng phương pháp sau: Coi khoảng thời gian giữa hai đỉnh cao nhất gần nhất là một chu kỳ phản ánh tương đối tốt tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng của thời kỳ dự báo, tính tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng theo phương pháp hàm log cho thời kỳ này; coi đó là tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng của thời gian tới.
  Trong bước 2, sẽ tiến hành tính toán tỷ lệ tăng trưởng của tổng cung (hoặc cung của từng khu vực). Có ba phương pháp để thực hiện:
  - Tính trên cơ sở điểm đầu, điểm cuối:
  Chúng ta biết:        Y(t) = Y(o) * (1+r)^t                                    (1)
trong đó:       Y9t) là GDP theo giá cố định của năm t,
   Y(o) là GDP theo giá cố định của năm gốc,
  r là tỷ lệ tăng trưởng trung bình của kỳ
  t là chỉ số thời gian, chỉ khoảng thời gian giữa năm đầu và năm cuối.
Thực hiện một số phép biến đổi đơn giản, chúng ta đi tới công thức:




  Phương pháp trên có nhược điểm rất lớn là phụ thuộc vào điểm đầu và điểm cuối. Nếu như những năm đó tăng trưởng diễn ra không bình thường thì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình tính theo phương pháp này sẽ không phản ảnh đúng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Để giảm nhược điểm trên, người ta đã cải tiến bằng cách thay những điểm đầu, cuối bằng trung bình trọng số của GDP tại ba năm gần nhất. Tuy nhiên, cải tiến này vẫn không cải thiện đáng kể được tình hình vì những số liệu, thông tin của những năm còn lại vẫn chưa được tính đến.


  - Phương pháp dựa trên hàm tuyến tính:
  Theo phương pháp này, người ta hồi quy tuyến tính biến GDP theo thời gian. Phương trình hồi quy như sau:
  Y(t) = a * t + b
  Sau khi có đường thẳng Y, người ta tính giá trị của Y  tại điểm t và điểm o, rồi sử dụng phương pháp trên để tính ra tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng.
  - Phương pháp dựa trên hàm logarit:
  Cùng theo nguyên tắc trên, nhưng thay vì sử dụng hàm tuyến tính, người ta sử dụng hàm log để có độ chính xác cao hơn. Cách làm như sau: logarit hoá hai vế phương trình (1), chúng ta có:
  log(Y(t)) = t * log(1+r) + log(Y(o))
hay                Z(t) = a * t + b                 ;  với a = log(1+r)
  Ước lượng hàm Z trên với Z(t) = log(Y(t)), sau khi có được hệ số a, chúng ta tính tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng r theo công thức:
  r = exp (a) - 1
  Phương pháp thứ ba được coi là có cơ sở khoa học nhất và được sử dụng rộng rãi nhất tại các nước công nghiệp, các tổ chức tài chính quốc tế, và tổ chức Liên Hợp Quốc.
  Ngoài ba phương pháp cơ bản trên,
  (2) Mô hình hoá quan hệ giữa tổng cung cần dự báo và các nhân tố chính xác định nó:
  Dự báo tổng cung thường là dự báo dài hạn vì việc thay đổi sản xuất phụ thuộc rất lớn vào đầu tư mới. Để xây dựng các phương trình, cần phải nghiên cứu các lý thuyết kinh tế nhằm nhận dạng các biến chính có ảnh hưởng tới sản xuất. Sau đó sử dụng kỹ thuật kinh tế lượng để kiểm định lại các quan hệ trong mô hình và ước lượng cacs tham số.
  Nói chung, các mô hình dự báo tổng cung đều dựa trên mô hình tăng trưởng, trong đó khả năng sản xuất là hàm số của các nhân tố sản xuất cơ bản chủ yếu gồm vốn cố định và lao động. Phương trình để ước lượng thường là:
  y  =  f (K, L)
trong đó K là vốn cố định, L là lao động sẵn có. Có thể ước lượng hàm trên dạng tuyến tính hoặc dạng log (hàm Cobb-Douglas). Trong trường hợp không có số liệu về biến vốn cố định, có thể thay thế hàm trên bằng một hàm tương đương sau:
  dy / y = a * (IN / y) + b * dL / L
trong đó IN là vốn đầu tư. Theo phương trình trên, tỷ lệ tăng trưởng khả năng sản xuất là hàm của tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng lao động. Các hệ số a và b phản ánh đồng thời vai trò và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực. Đặc biệt, thay đổi chính sách cơ cấu kinh tế sẽ làm thay đổi các hệ số a và b. Do đó, người ta thường phải nói trước rằng giả thiết là chính sách kinh tế tương lai không thay đổi lớn, thì các hệ số sẽ ổn định ở tầm trung hạn; từ đây có thể thực hiện các phân tích kinh tế và dự báo trên cơ sở mô hình. Khi các chính sách điều chỉnh cơ cấu được thực hiện, hiệu quả sử dụng các nguồn lực tăng lên, thì hệ số a sẽ tăng lên.
  1.3) Dự báo tổng cầu:
  a) Vai trò của tổng cầu:
  Để xác định vai trò của tổng cầu, cần phân biệt hai trường hợp:
  - Trường hợp 1: khi đã sử dụng hết khả năng sản xuất và muốn tăng trưởng thêm thì phải hoặc tăng khả năng sản xuất, hoặc tăng năng suất. Khi đó, dự báo tổng cầu có lợi ích lớn là cho phép đảm bảo sự khớp nhau giữa các giả thuyết đặt ra, có tính đến những thông tin sẵn có về hành vi của các tác nhân kinh tế. Nói chính xác hơn, tăng trưởng sản xuất (xác định bởi cung) phải tương thích với một bên là nhịp độ đầu tư, và bên kia là tăng trưởng cầu trong và ngoài nước (tương thích về kế toán và về hành vi của các tác nhân kinh tế).
  - Trường hợp 2: khi chưa sử dụng hết khả năng sản xuất. Khi đó chính cầu sẽ xác định mức sản xuất. Tuy nhiên, đến lượt mình, sản xuất sẽ ảnh hưởng tới thu nhập sẵn có, một trong những nhân tố chính xác định tiêu dùng tư nhân, và cũng là một trong những thành phần quan trọng nhất của cầu. Chính quan hệ chu trình này là nguồn gốc của khái niệm nhân tử trong học thuyết Keynes. Hầu hết các mô hình kinh tế lượng được sử dụng tại các nước công nghiệp để xây dựng các mô phỏng và dự báo đều dựa trên sơ đồ tiếp cận Keynes và sử dụng một nhân tử kiểu này để xác định mức sản xuất.
  b) Các thành phần của tổng cầu:
  Tổng cầu của các hộ gia đình, các doanh nghiệp, bộ máy nhà nước và bên ngoài có thể gộp thành tiêu dùng cuối cùng, đầu tư vốn cố định (kể cả thay đổi dự trữ) và xuất khẩu. Tuy nhiên, có một bộ phận của tổng cầu này được thoả mãn bằng nhập khẩu. Do đó, đối với bộ máy sản xuất trong nước, tổng cầu chính bằng tổng của tiêu dùng cuối cùng, đầu tư, xuất khẩu trừ nhập khẩu các hàng hoá và dịch vụ.
  Tiến triển của tổng cầu phụ thuộc vào hành vi của các tác nhân kinh tế, trong khi hành vi này lại phụ thuộc vào một số nhân tố ngoại sinh và những chính sách kinh tế, nhất là chính sách tài chính, tiền tệ và tỷ giá.
  Thực vậy, chính sách tài chính tác động trực tiếp tới cầu của khu vực công cộng và hiệu quả gián tiếp tới thu nhập sẵn có, cuối cùng cũng tới tổng cầu của khu vực tư nhân. Hơn nữa, tác động này còn phụ thuộc vào ohương thức tài chính cho thâm hụt ngân sách của chính phủ. Tương tự, chính sách tiền tệ cũng tác động tới tổng cầu của khu vực công cộng và tư nhân thông qua biến đổi lãi suất và cung tín dụng. Chính sách tỷ giá có tác động trực tiếp tới giá tương đối trong - ngoài nước, từ đó gián tiếp tới cán cân xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế.
  c) Nguyên tắc dự báo tổng cầu:
  Để dự báo tổng cầu, cần phải lần lượt dự báo các thành phần của tổng cầu. Một số thành phần của tổng cầu như tiêu dùng và đầu tư của chính phủ có thể được xem như ngoại sinh nếu như đã biết kế hoạch cụ thể của chính phủ. Các thành phần khác phải được dự báo trên cơ sở phân tích kinh tế và thống kê những hành vi của các tác nhân kinh tế và những giả thiết và phương hướng tương lai của các chníh sách kinh tế cũng như tiến triển của môi trường kinh tế quốc tế.
  Sau khi có các dự báo thành phần, tổng hợp lại sẽ có dự báo tổng cầu. Nhưng các dự báo tổng cầu không độc lập với dự báo các hoạt động của các khu vực khác trong nền kinh tế; do đó phải tiến hành các nghiên cứu lặp nhiều vòng để đảm bảo cân bằng giữa tổng cầu, tổng cung, khu vực tài chính, khu vực cán cân thanh toán quốc tế và thành phần khác trong nền kinh tế.
  Cân bằng tổng cung - tổng cầu hay nguồn - sử dụng các hàng hoá và dịch vụ được thể hiện bằng phương trình:
  GDP = Cp + Ip + Cg + Ig + X - M
trong đó:
GDP    : Tổng sản phẩm trong nước;
Cp       : Tiêu dùng cuối cùng tư nhân;
Ip         : Đầu tư tư nhân;
Cg       : Tiêu dùng cuối cùng của chính phủ;
Ig         : Đầu tư chính phủ;
X         : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ không nhân tố;
M         : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ không nhân tố;
Cân bằng này được tính theo giá so sánh và theo giá hiện hành. Trong công thức trên, tiêu dùng và đầu tư tư nhân thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng cầu và trong GDP, do đó ảnh hưởng mạnh tới toàn nền kinh tế. Việc xác định giá trị tương lai của chúng có ý nghĩa quan trọng trong dự báo kinh tế vĩ mô.
d) Các yếu tố xác định tổng cầu và phương pháp mô hình hoá:
Để xây dựng các dự báo cho những thành phần chính của tổng cầu, nhất là tiêu dùng và đầu tư tư nhân, trước tiên phải sử dụng các lý thuyết kinh tế để chọn ra những biến giải thích tốt nhất có thể; sau đó sử dụng những phương pháp thống kê để ước lượng và chọn mô hình dự báo tốt nhất. Trong trường hợp không có số liệu hoặc chuỗi số liệu không đủ dài thì có thể tìm các chỉ tiêu thay thế hoặc chọn một số hệ số quan hệ tỷ lệ của thời kỳ được coi là hợp lý hơn cả.
(1) Xác định tiêu dùng tư nhân:
Phân tích hành vi của tiêu dùng tư nhân ở tầm kinh tế vĩ mô thường dựa vào học thuyết cầu của Keynes, trong đó tiêu dùng tư nhân phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập sẵn có hiện tại; về mặt toán học nghĩa là:
Crp = a + b * RNDrp
trong đó Crp là tiêu dùng cuối cùng thực của khu vực tư nhân (hộ gia đình)
                  RNDrp là thu nhập sẵn có thực của khu vực tư nhân
với:  a > 0 và 0 < b < 1
        Tiết kiệm tư nhân thực Srp được xác định như sau:
        Srp = RNDrp - Crp
Bằng cách thay Crp trong phương trình trên vào, chúng ta có:
        Srp = RNDrp - (a + b RNDrp)  = (1-b) * RNDrp - a
        Phương trình nguyên gốc trên thường được sử dụng trong các mô hình kinh tế vĩ mô rất gộp. Đối với những mô hình chi tiết hơn, nó đã được biến đổi cho phù hợp với những phân tích, nghiên cứu thực nghiệm về tiêu dùng và sự phát triển gần đây của lý thuyết về hành vi của tiêu dùng và tiết kiệm tư nhân. Hai lý thuyết chính có tác động lớn tới phương trình dự báo tiêu dùng tư nhân là lý thuyết chu kỳ sống và lý thuyết thu nhập thường xuyên. Theo các lý thuyết này, tăng tiêu dùng sẽ ảnh hưởng tới tiết kiệm tư nhân, từ đó ảnh hưởng tới tiêu dùng tương lai. Phương trình của lý thuyết chu kỳ sống do Modigliani, Brumberg và Ando đưa ra như sau:
Crp = a * RNDrp + b * PATrp
trong đó PATrp là giá trị thực của tổng tài sản của khu vực tư nhân. Theo lý thuyết này, người dân muốn ổn định chi tiêu trong toàn cuộc đời, kể cả khi về hưu, do đó tiêu dùng tư nhân không chỉ phụ thuộc vào thu nhập hiện tại mà còn cả tổng giá trị tài sản tích luỹ của họ.
Theo lý thuyết thu nhập thường xuyên do Milton Friedman khởi xướng, gia đình có mong muốn tiêu dùng ổn định, nhưng thu nhập không ổn định. Hậu quả là tiêu dùng không chỉ là hàm cua thu nhập hiện tại mà còn là hàm của thu nhập trung bình thực mong đợi trên một khoảng thời gian dài; chỉ tiêu đại diện là thu nhập thường xuyên. Căn cứ vào quá trình thích nghi trong dự báo kinh tế, có thể thấy thu nhập thường xuyên là trung bình trọng số của thu nhập sẵn có quá khứ với trọng số giảm dần. Sau một số phép tính, chúng ta đi đến mô hình sau:
Crp(t) = a * RNDrp(t) + b * Crp(t-1)
trong đó Crp(t-1) là tiêu dùng tư nhân thực của năm trước.
Hệ số a là giá trị cận biên của tiêu dùng ngắn hạn; còn a/(1-b) là giá trị cận biên của tiêu dùng dài hạn.
Ngoài 2 phương trình trên, còn một phương trình khác cũng được sử dụng khá phổ biến, được xây dựng từ phân tích thuế. Đó là:
Crp(t) = a * (GDP - TAX)
trong đó TAX là thuế nộp vào ngân sách nhà nước. Theo tiếp cận này, sẽ không phải tính thu nhập thường xuyên hoặc hiện tại, mà việc thu thập số liệu tính hai chỉ tiêu này rất khó khăn.
(2) Xác định đầu tư tư nhân:
Cũng như cầu tiêu dùng tư nhân, cầu đầu tư tư nhân phải được dự báo bằng các phương trình hành vi. Theo lý thuyết kinh tế vi mô, đầu tư chịu tác động rất mạnh của tỷ suất lợi nhuận của vốn. Lợi nhuận càng cao thì đầu tư càng nhiều; đầu tư chỉ được thực hiện nếu tỷ suất lợi nhuận cao hơn đủ tầm so với chi phí vốn. Nói chung, đầu tư sẽ thấp nếu như lãi suất cao...
Trong thực tế, chi tiêu đầu tư biến động rất mạnh so với chi tiêu tiêu dùng. Hơn nữa, tỷ lệ đầu tư trên GDP cũng rất biến động. Do đó để giải thích và dự báo tiến triển của vốn đầu tư, các mô hình thường được xây dựng theo nguyên lý nhân tử gia tăng. Phương trình đầu tư xây dựng theo lý thuyết nhân tử gia tăng đơn giản nhất là:
Irp(t) = a * (GDP(t) - GDP(t-1)) + dep * Krp(t-1)
trong đó dep là tỷ lệ khấu hao, K là tài sản cố định. Theo mô hình này, tăng trưởng đầu tư phụ thuộc vào tăng trưởng sản xuất; khi sản xuất giảm thì đầu tư cũng chậm lại.
Trong các nước đang phát triển, việc thu thập các số liệu tài sản cố định rất khó khăn; hơn nữa, nhiều vấn đề về thể chế và cơ cấu chưa hoàn thiện như ở các nước công nghiệp, nên việc sử dụng mô hình trên không phổ biến. Đặc biệt, thị trường vốn rất kém phát triển; vai trò của Nhà nước trong đầu tư rất quan trọng, những méo mó không theo nguyên tắc cạnh tranh còn rất nhiều. Những nghiên cứu cho trường hợp các nước đang phát triển cho thấy khó khăn lớn nhất của khu vực tư nhân là khả năng tiếp cận nguồn vốn rất hạn chế chứ không phải chi phí vốn cao hoặc thiếu vốn. Trong nhiều trường hợp, giá vốn được duy trì rất thấp làm nản lòng những người gửi tiết kiệm.
Những biến thường được đưa vào mô hình xác định đầu tư tư nhân của các nước đang phát triển là thu nhập của dân cư (đại diện bằng GDP - TAX), tín dụng ngân hàng (cho khu vực tư nhân), lãi suất, và tỷ suất lợi nhuận. Ngoài ra, có thể bổ xung thêm một số biến khác như chênh lệch tăng trưởng GDP so với xu thế và đầu tư của khu vực công cộng.
(3) Tiêu dùng và đầu tư của khu vực nhà nước:
Xem phần tài chính chính phủ. Tiêu dùng chính phủ là biến ngoại sinh không cần dự báo. Đầu tư chính phủ có thể được xác định qua cân đối ngân sách hoặc một hàm số.
2) Dự báo giá cả:
2.1) Những nhân tố chính xác định giá cả:
Đối với một sản phẩm trên thị trường, giá cả được xác định căn cứ vào quan hệ cung cầu; khi cầu vượt cung thì giá hạ và ngược lại; mặc dù quá trình này có thể bị ngăn lại hoặc chậm lại do những can thiệp hành chính hoặc điều chỉnh thời vụ. Ở tầm kinh tế vĩ mô, tăng mặt bằng giá là phản ảnh của những phi cân bằng kinh tế vĩ mô
2.2) Một số mô hình dự báo giá cả:
a) Lạm phát do cầu vượt:
        Để kiểm tra giả thuyết rằng lạm phát do cầu hàng hoá và dịch vụ tăng nhanh hơn cung, cần phải nghiên cứu tìm quan hệ giữa các biến này. Tiếp cận được sử dụng phổ biến là đường cong Philip của học thuyết tân Keynes. Đường cong này nguyên gốc phản ánh quan hệ âm giữa tỷ lệ biến động của tiền lương và tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp được dùng để đại diện cho chỉ tiêu chênh lệch giữa sản xuất thực tế và sản xuất khi sử dụng hết lao động. Phương trình được dùng để giải thích và dự báo lạm phát theo lý thuyết này như sau:




trong đó
p là tỷ lệ lạm phát; P là mặt bằng giá chung; GAPP là chênh lệch giữa GDP thực so với giá trị xu thế của nó, tính bằng phần trăm của GDP thực. Giá trị GDP xu thế có thể tính từ ước lượng phương trình: log(GDP) = a + b * t.





        Để tính đến vai trò của yếu tố dự báo lạm phát của người dân, đo lường một cách đơn giản là lạm phát của thời kỳ trước, có thể đưa vào phương trình trên một biến bổ xung, đi tới phương trình:


b) Lạm phát do tiền tệ:
Trong điều kiện cân bằng dài hạn, sản xuất luôn luôn nằm trên trục tăng trưởng cố định tương ứng với tiềm năng của nó; các lãi xuất thực cố định và tỷ lệ lạm phát được dự báo đầy đủ, thì tỷ lệ lạm phát sẽ đúng bằng tốc độ tăng trưởng tiền tệ trừ đi tốc độ tăng trưởng GDP thực; tức là:
                            p = m - g
Tuy nhiên, cân bằng dài hạn này không bao giờ đạt được, do đó phải dùng phương pháp xấp xỉ, tức là ước lượng phương trình:
                            p = a * m + b * g + c
với b < 0.
Phương trình này cũng được suy ra từ lý thuyết vòng quay tiền tệ trong học thuyết cổ điển. Để đưa vào yếu tố dự báo thích nghi, chúng ta thêm biến chênh lệch tỷ lệ lạm phát của 2 năm trước, nghĩa là:
                            p = a * m + b * g + c * (p(t-1) - p(t-2)) + d
c) Lạm phát do những nhân tố nước ngoài:
        Để đưa vào ảnh hưởng của các nhân tố nước ngoài phản ánh tác động của giá nhập khẩu, người ta có thể sử dụng phương trình:
                            p = a * m + b * g + c * (DPm/Pm) + d
d) Lạm phát do cơ cấu:
Theo thuyết cơ cấu, nguyên nhân lạm phát là do thiếu hụt của cung, tỷ lệ thâm hụt ngân sách cao và thiếu hụt ngoại tệ. Phương trình theo thuyết này như sau:
                            p = a * D/GDP + b * log(GDP) + c * log(e) + d
trong đó D / GDP là tỷ lệ thâm hụt ngân sáhc; e là tỷ giá.
        e) Mô hình hỗn hợp:
        Trong thực tế, lạm phát ở một nước có thể do sự tồn tại đồng thời của nhiều nhân tố cung, cầu, cơ cấu, tiền tệ... Do đó, có thể đưa tất cả các biến của các mô hình trên vào cùng một mô hình và ước lượng.
B) Dự báo tài chính công cộng:
1) Những vấn đề chung về dự báo tài chính công:
Tài chính công ảnh hưởng rất mạnh đến sản xuất và cầu toàn cục của một nền kinh tế:
-  Chính sách thuế ảnh hưởng đến hoạt động và quyết định chi tiêu của khu vực tư nhân.
-  Chính sách chi tiêu và chuyển giao công cộng angr hưởng tới tổng chi tiêu toàn xã hội và phân bố lại thu nhập giữa các tầng lớp.
-  Chính sách tài chính cho thâm hụt ngân sách có ảnh hưởng đến lạm phát và lãi suất.
-  Xét về quy mô ngày càng lớn, các hoạt động ngân sách có ảnh hưởng mạnh tới các khu vực khác của nền kinh tế.
Vì vậy, đánh giá, dự báo thu, chi và bù đắp thâm hụt ngân sách tương lai đóng vai trò rất quan trọng trong phân tích và dự báo tiến triển của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt, các dự báo thu thuế có liên quan chặt chẽ tới dự báo các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân. Vì tất cả những lý do trên, dự báo tài chính công là một trong những thành phần cơ bản trong tất cả các mô hình kinh tế lượng vĩ mô.
Dự báo tài chính công phụ thuộc rất lớn vào các giả thiết về chính sách tài chính của Nhà nước, được phản ảnh trong quy mô và cơ cấu của thu, chi ngân sách và bù đắp cho thâm hụt ngân sách dự báo. điều này khác với dự báo khu vực thực (sản xuất, ngoại thương, lãi suất, lạm phát...) vì khu vực này chỉ phụ thuộc phần nào vào hoạt động của chính phủ trong khi hoạt động của khu vực ngân sách gắn chặt với mọi quyết định cụ thể, rời rạc của chính phủ, nhất là trong lĩnh vực chi tiêu. Nếu như thu ngân sách phụ thuộc rất lớn vào kết quả hoạt động của nền kinh tế thì các chi ngân sách lại chịu ảnh hưởng rất lớn vào các quyết định của chính phủ. Đặc biệt, ở tầm ngắn hạn, chính phủ có thể quay ngoặt chính sách 180 độ, chuyển từ thặng dư ngân sách sang thâm hụt cao và bắt các khu vực khác của nền kinh tế phải gánh vác việc bù lỗ cho thâm hụt ngân sách.
Dự báo tài chính công được thực hiện qua nhiều giai đoạn. Trước tiên, người ta dự báo thu ngân sách trên cơ sở giả định là các quy định về thuế không thay đổi, trong đó thu ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào các biến kinh tế vĩ mô như GDP, tiêu dùng và nhập khẩu.
Sang bước 2, cũng với giả thiết chính sách tương lai không thay đổi, người ta dự báo chi ngân sách bằng cách tách riêng từng thành phần ổn định hoặc gần như đã được xác định trước của chi ngân sách (ví dụ như tiền lương và dịch vụ nợ). Bước cuối cùng là dự báo thâm hụt ngân sách bằng cách lấy thu ngân sách trừ đi chi ngân sách. Cơ cấu tài chính cho thâm hụt ngân sách được xây dựng theo cơ cấu đã thực hiện trong quá khứ. Đây là phương án hay kịch bản dự bảo cơ sở.
Nếu qua quá trình dự báo qua mô hình theo cách trên mà đi đến những phi cân bằng không thể chấp nhận được thì phải xem xét lại mô hình dự báo.
Đối với một số trường hợp đặc biệt như tình hình hiên nay ở nước ta, khi nhà nước chủ động án định trước một tỷ lệ thâm hụt ngân sách và danh toàn bộ số chênh lệch thu – chi ngân sách thường xuyên - trả nợ cho tiêu đầu tư phát triển thì phải cải tiến một số phương trình cho phù hợp.
2) Dự báo thu ngân sách:
2.1) Phân loại thu ngân sách:
Có nhiều loại mô hình khác nhau có thể được sử dụng trong dự báo thu ngân sách. Do đó, tại nhiều nước phương tây, người ta xây dựng nhiều mô hình, thực hiện nhiều dự báo rồi so sánh, đối chiếu tìm ra những dự báo đáng tin cậy nhất. Để dự báo thu ngân sách, cần phải nắm được những thông tin sau:
- Hiểu hệ thống kinh tế và hệ thống thuế;
- Có đủ các loại số liệu thống kê cần thiết, nhất là các chuỗi thời gian cho việc ước lượng các phương trình;
- Đã có các dự báo kinh tế vĩ mô khác để có những biến kinh tế vĩ mô khác ( trong trường hợp mô hình tài chính độc lập với nền kinh tế).
Nói chung, hệ thống thuế gồm một số loại thuế và mức thuế. Việc dự báo chi tiết tình hình thu thuế phụ thuộc vào khả năng thu thập được số liệu và các thuế suất. Nhưng ngay trong những dự báo chi tiết nhất, người ta cũng không dự báo các loại thuế chiếm tỷ lệ dưới 3% tổng thu nhập thuế vì dù có mất công xây dựng các phương pháp tinh vi thế nào để dự báo được chúng thì cũng không làm tăng đáng kể độ chính xác của dự báo tổng thu nhập thuế. Thông thường, người ta nhóm các loại thuế có cùng xu hướng biến động (tăng, giảm) và tương đối đồng nhất làm một nhóm để dự báo dù rằng các thuế suất và đối tượng thu thuế có khác nhau. Nếu hai loại thuế có tổng giá trị thu biến động rất khác nhau thì nên tách riêng để dự báo nhằm đưa được tính khác nhau đó vào các phương trình dự báo. Tuy nhiên, tất cả đều phụ thuộc rất lớn vào nguồn số liệu thống kê, hơn nữa, cần tránh chia các loại thuế quá chi tiết vì các chuỗi thống kê có nguy cơ không ổn định và do vậy không thể dự báo được.
  2.2) Cơ sở thu thuế và thuế suất:
Trong luật thuế, đã xác định tương đối rõ ràng những hoạt động gì sẽ bị thu thuế. Nói đến thu thuế, trước hết được hiểu là thu đánh vào các hoạt động kinh tế như sản xuất của một doanh nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, bán nhà, có nguồn thu nhập cao... Tuy nhiên, cũng có nhiều loại thuế đánh vào những đối tượng không có tính kinh tế như thuế đánh vào công suất các động cơ ô tô, vào đăng ký ô tô xe máy...
Những thông tin sau đây đều có trong luật thuế: (1) các đối tượng phải nộp thuế, (2) các phương thức đánh giá giá trị để tính thuế, (3) Miễn, giảm thuế nếu có, (4) Các thuế suất được áp dụng.
Các thuế suất được áp dụng theo hai cách: Một là, theo giá khi nhận hàng hoá hoặc theo giá chính thức (giá thương mại). Hai là theo khối lượng bán hàng hoặc kết quả sản xuất (các thuế suất đặc thù).
Để xây dựng các dự báo thu thuế, người ta phải dự báo tiến triển của cơ sở thu thuế (nguồn thu) và các thuế suất sẽ được áp dụng. Cơ sở đánh thuế lý tưởng là cơ sở đã được quy định trong luật, nhưng trên thực tế rất khó sử dụng nó một cách trực tiếp vì nhiều nguyên nhân. Một mặt, một số chỉ tiêu không tồn tại đủ theo chuỗi thời gian, nên không thể dự báo những cơ sở này. Mặt khác, thông tin liên quan thường rất chậm. Ví dụ khi dự báo thu thuế VTA đối với các mặt hàng cao cấp, cơ sở thu thuế là tiêu dùng các mặt hàng cao cấp của các hộ gia đình. Ngay cả khi người ta biết chính xác cơ sở thu thuế (danh mục những sản phẩn xác định trong luật) và các thuế suất, cũng rất khó dự báo tổng thu thuế VAT vì không dự báo được tiêu dùng tương lai các loại sản phẩm này.
Để xử lý khó khăn này, cách hợp lý nhất là thay cơ sở đánh thuế trong luật bằng một cơ sở khác, gọi là cơ sở thay thế, với lập luận lô gíc là hai loại cơ sở này tương quan chặt với nhau. Cơ sở thay thế thường là một biến kinh tế vĩ mô có tương quan, liên hệ chặt chẽ với cơ sở đánh thuế nhưng chúng ta có đủ số liệu về nó trong quá khứ cũng như dễ dàng dự báo cho tương lai.
Các cơ sở thay thế thông thường được chọn trong số những chỉ tiêu gộp của hệ thống tài khoản quốc gia và tài khoản quan hệ quốc tế. Khi sử dụng các cơ sở thay thế, cần xem lai cách phân loại các loại thuế cần dự báo cho phù hợp. Bảng dưới đây cung cấp một số gợi ý chọn cơ sở thay thế khi thực hiện các dự báo thu thuế:
Bảng: Một số loại cơ sở thay thế cho cho sở đánh thuế
Loại thuế
Cơ sở đánh thuế thay thế
Thuế thu nhập và lợi nhuận
- Tổng sản phẩm trong nước theo giá nhân tố
- Thu nhập quốc gia sẵn có
- Tiền lương của những khu vực chính
- Lợi nhuận của các công ty
Thuế đánh vào hàng hoá và dịch vụ
- Tiêu dùng tư nhân
- Cầu nội địa
- Tổng sản phẩm trong nước
- Thu nhập quốc gia sẵn có
- Sản xuất của khu vực chế biến
Thuế nhập khẩu
Giá trị và khối lượng nhập khẩu tính bằng tiền quốc gia
Thuế xuất khẩu
Giá trị và khối lượng nhập khẩu tính bằng tiền quốc gia
Thuế khác
- Tổng sản phẩm trong nước
- Thu nhập quốc gia sẵn có

2.3) Thời gian trễ khi thu thuế:
Trễ trong thu thuế là một đặc điểm rất phổ biến trong phần lớn các hệ thống thuế vì cần có thời gian thích hợp để thu thập đủ những thông tin liên quan nhằm tính ra cơ sở thuế, tiếp đến thu số thuế phải nộp. Trong thực tế, cần phải chấp nhận sự tồn tại của thời gian trễ trong thu thuế do hai lý do: Một là, khi có thời gian trễ thì có thể dự báo dễ dàng hơn vì khi đó chúng ta có nhiều thông tin hơn và các thông tin chính xác hơn lien quan đến cơ sở thu thuế. Hai là trong điều kiện lạm phát, giá trị thực của số thuế thu được sẽ giảm khi có thời gian trễ do yếu tố mất giá của đồng tiền; thời gian thu thuế càng dài, tỷ lệ lạm phát càng lớn, thì mức độ giảm giá trị thực càng cao. Đó là do thuế được xác định cố định theo giá trị danh nghĩa của loại thuế, ví dụ dưới dạng một tỷ lệ của thu nhập trong thời kỳ trước.
Một nghiên cứu cho 18 nước đang phát triển gần đây cho thấy thời gian trễ trong thu thuế là đáng kể. Đối với thu thường xuyên, độ trễ là 6,5 tháng; thu thuế: 6 tháng; thu thuế thu nhập, lợi tức, lợi nhuận và giá trị thặng dư: 6,3 tháng; thu thuế về bán hàng, doanh thu hoặc giá trị gia tăng: 5,4 tháng; thu thuế tiêu thụ đặc biệt: 8,3 tháng; thu thuế nhập khẩu: 8,0 tháng. Như vậy, mức dao động từ 5 đến 8 tháng. Đặc biệt, thu thuế nhập khẩu có độ trễ lớn nhất trong khi nó chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu nhập thuế.
2.4) Xử lý các số liệu thống kê liên quan đến thuế
Tăng thu nhập thuế hàng năm có thể được thực hiện qua hai cách: Hoặc mở rộng cơ sở đánh thuế (với các thuế suất không đổi), hoặc thay đổi rời rạc trong hệ thống thuế (danh mục loại hàng phải chịu thuế...). Nếu hệ thống thuế ổn định trong nhiều năm, thu ngân sách hàng năm sẽ tự động tăng lên do cơ sở thuế tăng lên theo đà phát triển sản xuất, tăng thu nhập và mở rộng ngoại thương. Nhưng thu ngân sách cũng có thể thay đổi khi thay đổi thuế suất hoặc thay đổi các quy tắc thuế (định nghĩa cơ sở thuế, miễn thuế, giảm thuế...). Thu thuế còn phụ thuộc vào năng lực của bộ máy thu thuế trong từng thời kỳ.
  Như vậy, biến động tình hình thu ngân sách năm này qua năm khác khi thuế  suất không đổi, là kết quả tổng hợp của hai loại biến động: biến động tự động của cơ sở thu thuế và biến động rời rác liên quan đến thay đổi phương thức tính thuế. Nếu phương thức tính thuế thay đổi thường xuyên hoặc nếu như ảnh hưởng của nó rất lớn tới từng loại thuế tương ứng, thì phải xây dựng lại các chuỗi số liệu thống kê quá khứ trước khi đưa vào xây dựng mô hình và tiến hành các dự báo. Nói cách khác, phải xây dựng lại các thu nhập thuế để phản ảnh đúng giá trị của nó nếu như không có những biến động rời rạc. Các chỉ tiêu thu thuế mới được xây dựng lại này được gọi là thu ngân sách hữu hiệu.
Cách làm đơn giản nhất như sau: Chọn một năm cơ sở, gọi là năm t, rồi điều chỉnh số liệu các năm khác theo chế độ thuế của năm cơ sở. Để hợp lý nhất cho mục tiêu dự báo, năm cơ sở được chọn là năm cuối cùng trước khi bắt đầu dự báo, ví dụ năm 2001 nếu chúng ta muốn dự báo từ năm 2002 trở đi.
    2.5) Hệ số co dãn tổng hợp và hệ số co dãn tự động

  Khi xây dựng được quan hệ giữa những biến động của thu ngân sách hữu hiệu, người ta có thể đo lường đồng thời hiệu quả của tăng trưởng tự động và tăng trưởng từ những thay đổi rời rạc. Hệ số thu được theo cách làm này được gọi là hệ số co dãn tổng hợp, tức là phần trăm của biến động thu thuế



hữu hiệu chia cho phần trăm biến động cơ sở thu thuế.


trong đó Eg là hệ số co dãn tổng hợp, DTAX và DBASE là phần trăm của biến động thu thuế hữu hiệu và phần trăm biến động cơ sở thu thuế.
  Hệ số trên không có giá trị dùng để dự báo vì nó phản ảnh kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố. Để có thể sử dụng nó vào mục tiêu dự báo, người ta phải ngầm giả định là những biến đổi rời rạc của hệ thống thuế sẽ còn tiếp tục kéo dài trong tương lai và chúng sẽ sinh ra một khoản thu thuế bằng mức trung bình mà những biến động trong quá khứ đã tạo ra. Nếu những biến động rời rạc là chuyện thường xuyên (ví dụ trong nền kinh tế chuyển đổi như ở nước ta) và nếu tác dụng của chúng ổn định như trong quá khứ (cùng khuynh hướng), thì có thể dự báo theo hệ số co dãn tổng hợp trên. Tuy nhiên, người ta thây rằng tốt nhất vẫn nên dự báo căn cứ vào một hệ số chỉ phản ảnh tăng trưởng tự động của cơ sở thu thuế mà thôi.




  Hệ số cho phép đo lường quan hệ giữa tăng trưởng tự động của thu thuế và tăng trưởng tự động của cơ sở thu thuế được gọi là hệ số co dãn tự động. Hệ số này được định nghĩa là phần trăm biến động của thu thuế khi hệ thống thuế không đổi, chia cho phần trăm biến động của cơ sở thu thuế.


  Việc xác định hệ số này tương đối phức tạp vì thực tế không máy khi có được những hệ thống thuế ổn định trong thời gian dài khi mô hình hoá. Tuy nhiên, người ta có thể ước lượng theo cách đơn giản sau:
  + Ước tính ảnh hưởng hàng năm của những biến đổi rời rạc trong hệ thống thuế. Các cơ quan thuế phải thực hiện các ước tính này, và thường đã được dự kiến ngay khi chuẩn bị các thay đổi trong hệ thống thuế.
  + Tính biến động tự động của thu thuế bằng cách lấy biến động của tổng thu trừ đi ảnh hưởng của những biến động rời rạc:
            DREa = DRE - DREd
trong đó Dd là ảnh hưởng của những biến động rời rạc.
  Hệ số co dãn tự động của hệ thống thuế trong các nước đang phát triển nói chung rất thấp, thậm chí dưới 1, vì các thuế ít co dãn lại chiếm tỷ trọng cao, ví dụ thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc mở rộng cơ sở thuế không làm tăng đáng kể thu nhập thuế vì các loại thuế trên thường rất đặc thù, đánh vào một danh mục hàng hoá đã cố định.
  2.6) Một số công cụ dự báo mức thu thuế đơn giản:
Dự báo thu thuế thường dựa trên quan hệ định lượng giữa thu thuế và cơ sở thay thế. Để tính nhanh, người ta có thể đơn giản hoá cách tính bằng cách xác định một tỷ lệ hay một hệ số co dãn từ những số liệu của thời kỳ gần nhất. Nhưng chúng ta cũng có thể xây dựng các mô hình phức tạp hơn trong đó các hệ số được ước lượng theo kỹ thuật kinh tế lượng. Các quan hệ hàm số như thế này có thể được xây dựng thông qua phân tích hồi quy các chuỗi thời gian sẵn có nếu như các chuỗi đủ dài và các hệ số đủ ổn định trong thời kỳ nghiên cứu. Tuy nhiên, dù theo phương pháp nào, khi đưa ra các kết quả dự báo, đều phải phân tích lại, kết hợp với những thông tin định tính liên quan tới hệ thống thuế và hành vi của các tác nhân kinh tế. Đặc biệt, các phương pháp dự báo thường đưa ra những kết quả rất tế nhị, nhạy cảm khi hệ thống thuế thường xuyên bị biến động trong thời kỳ nghiên cứu.
Quan hệ giữa thu thuế và cơ sở đánh thuế thay thế có thể được lượng hoá theo các hàm số sau:
- Tỷ lệ thuế thay thế
Tỷ lệ thuế thay thế là tỷ lệ giữa thuế hữu hiệu (RE) và cơ sở thay thế (Fa):
            ta = RE / Fa
Hệ số này có thể tính cho một hoặc nhiều thời kỳ và cho tất cả các loại thuế. Thí dụ, trong trường hợp thuế thu nhập hoặc thuế nhập khẩu, hệ số này phản ánh số thuế thu được trung bình trên một giá trị thu nhập đã biết, hay số thuế trung bình thu được từ hoạt động nhập khẩu.
- Hệ số co dãn
Hệ số co dãn (e) là tỷ lệ giữa phần trăm biến động của thu thuế (DR/R) và phần trăm biến động của cơ sở thay thế (DFa/Fa):
e = (DRE/RE) / (DFa/Fa)
Hệ số co dãn cho phép đo lường khả năng phản ứng của hệ thống thuế trước những biến động của cơ sở đánh thuế. Khi hệ số co dãn cao hơn đơn vị (1), thì có nghĩa là thu thuế tăng nhanh hơn mở rộng quy mô cơ sở đánh thuế, và ngược lại, khi hệ số nhỏ hơn đơn vị thì tốc độ tăng chậm hơn. Khi hệ số co dãn bằng đúng đơn vị thì tỷ lệ RE/Fa sẽ cố định
- Hàm quan hệ tuyến tính
Hàm thuế đơn giản nhất là hàm tuyến tính, nối thu thuế (RE) với cơ sở thay thế (Fa). Đó là:
RE = a * Fa
Hàm này tương đương với phương trình ta = RE/Fa. Tuy nhiên, có thể tăng độ chính xác của quan hệ bằng cách bổ xung một hằng số (b):
RE = a * Fa + b
Khi xây dựng những hàm số tuyến tính như trên, luôn phải nhớ là chúng ta đã ngầm giả thiết rằng tỷ lệ thuế cận biên (a) không thay đổi. Trong trường hợp hằng số b có giá trị dương thì tỷ lệ thuế trung bình là một hàm giảm của cơ sở thu thuế (Fa):
RE / Fa = a + b / Fa
Vì b / Fa > 0 nên tỷ lệ thuế cận biên (a) sẽ nhỏ hơn tỷ lệ thuế trung bình (a + b/Fa). Bản chất của vấn đề là tỷ lệ thuế trung bình có xu hướng giảm dần khi cơ sở thu thuế tăng lên.
- Hàm quan hệ logarit
Có thể chính xác hơn nữa mối quan hệ giữa thu thuế và cơ sở thu thuế bằng một hàm log tuyến tính. Phương trình cần phải ước lượng như sau:
log RE = f * log Fa + g
trong đó hệ số f là hệ số co dãn của RE theo Fa vì f = dlogRE/dlogFa khi chỉ có những biến động thấp thì tương đương với (DRE/RE) / (DFa/Fa). Phương trình này giả thiết ngầm phía sau là hệ số co dãn phải ổn định theo thời gian. Nếu e = 1, chúng ta lại trở về trường hợp tỷ lệ thuế trung bình cố định.
- Hàm quan hệ tuyến tính động
Để đưa ảnh hưởng của độ trễ trong thời gian thu thuế vào phương trình quan hệ, trong tất cả các phương trình nêu trên, đều có thể chuyển biến Fa thanh biến năm trước Fa(t-1); tức là:
RE(t) = a * Fa(t-1) + b.
  2.7) Một số gợi ý về dự báo thu ngân sách ngoài thuế:
Nếu như các công cụ nêu trên được áp dụng rộng rãi cho phần thu ngân sách thì rất khó đem áp dụng cho phần thu ngân sách ngoài thuế vì tính chất đặc thù của các nguồn thu này. Thu ngoài thuế nhiều khi rất lớn và quan trọng, nhất là đối với những nước có nguồn thu chủ yếu dựa vào xuất khẩu dầu mỏ, khoáng sản và những tài nguyên thiên nhiên khác; hoặc khi các chính phủ cố tình duy trì cố định hệ thống giá trong nước của những sản phẩm cơ bản xuất khẩu hoặc nhập khẩu.
Vì đặc trưng của nguồn thu ngoài thuế rất khác nhau nên phải có những thông tin chi tiết cần thiết trước khi chuẩn bị các công cụ dự báo. Những biến giải thích chủ yếu trong trường hợp này là tổng sản phẩm trong nước, khối lượng xuất khẩu, nhập khẩu, giá thị trường thế giới của những sản phẩm liên quan và giá đảm bảo trong nước. Đặc biệt, nếu nguồn thu ngoài thuế chủ yếu dựa vào chênh lệch giữa giá trong nước và quốc tế thì chúng có nguy cơ biến động rất mạnh.
Nói chung các công cụ dự báo phần thu ngân sách ngoài thuế ít và chưa được công thức hoá chặt chẽ. Thông thường, người ta tách rời những thành phần quan trọng nhất có liên quan đến những sản phẩm hay cơ chế cụ thể như ví dụ xuất khẩu dầu mỏ hoặc chênh lệch giá nêu trên, sau đó tiến hành xây dựng quan hệ giữa chúng, rồi dư báo những thành phần này. đối với bộ phân còn lại, nếu chiếm tỷ trọng dưới 3% tổng thu ngân sách thì không cần xây dựng các phương trình dự báo mà chỉ cần đưa ra các kịch bản dựa vào kỹ thuật phân tích hợp lý.
2.8) Các phương trình hồi quy đơn giản thường được sử dụng trong dự báo thu ngân sách
Như đã nói ở trên, việc xây dựng các phương trình hồi quy nhằm mục tiêu dự báo thu ngân sách trên cơ sở đã dự báo tiến triển của một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô... là một nhiệm vụ khá tế nhị. Trên thực tế, hệ thống thuế thay đổi thường xuyên đã ảnh hưởng rất đáng kể tới quan hệ giữa một bên là thu thuế và bên kia là các biến kinh tế vĩ mô như GDP, tiêu dùng, nhập khẩu...
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể ước lượng một số phương trình đơn giản cho một số loại thuế quan trọng nhất bằng phương pháp bình phương cực tiểu.
- Thuế thu nhập và lợi nhuận (td):
td = 0,035 * GDP + 53,428
log(td) = 0,81 log(GDP) - 1,460
- Thuế hàng hoá và dịch vụ (ti):
ti = 0,063 GDP + 55,42
log(ti) = 0,09 log(GDP) - 1,78
log(ti) = 0,458 log(ti(-1)) + 0,475 log(GDP) - 0,794
- Thuế xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ (txn):
log(txn) = 0,234 log(IMPOR)
- Tổng thu ngân sách của Nhà nước (rec):
rec = 0,301* GDP + 57.01
log(rec) = 1,095 * log(GDP) - 1,997
log(rec) = 0,966 * log(GDP) - 0,850   (theo phương pháp Cochrane - Orcutt)
log(rec) = 0,563 * log(rec(-1)) + 0,427 * log(GDP) - 0,360
(hệ số 0,427 chưa phản ảnh đúng, phải đưa về quan hệ dài hạn)
rec/GDP = 0,723 * [rec/GDP][-1] +0,091

3) Dự báo chi ngân sách:
  3.1) Dự báo chi ngân sách rời rạc
  Chi ngân sách thường phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các chính phủ. Trong số các mục chi thường xuyên có nhiều mục được xem như là những khoản chi rời rạc, nhất là chi vật liệu, trang thiết bị, bảo dưỡng và chi tiêu quân sự. Nhiều mục khác lại phụ thuộc rất lớn vào chính sách hay cách làm tồn tại từ lâu của chính phủ: đi lại, đại diện ở nước ngoài, tiếp tân... Trong những trường hợp này, ước lượng tốt nhất là lấy số cực đại mà chính phủ có ý định chi trong thời kỳ dự báo. Tuy nhiên, vì đây là những số ước lượng nên cần thay bằng các số kế hoạch mỗi khi sát đến năm thực hiện kế hoạch vì khi đó đã có số kế hoạch chính thức.
  Đối với chi vốn, tình hình cũng gần giống như vậy, nhất là vào đầu kỳ kế hoạch. Rõ ràng mỗi dự án khi đã được triển khai thì sau đó ngân sách phải tiếp tục tài trợ. Mặt khác, khác với chi thường xuyên, chi ngân sách cho đầu tư không chỉ hạn chế trong thời kỳ dự báo ngắn hạn mà còn kéo dài hơn vì các khoản tín dụng do ngân sách chi hoặc bảo lãnh kéo dài trong suốt thời gian tồn tại của dự án. Thêm nữa, chi tiêu ngân sách thực tế còn phụ thuộc vào tốc độ giải ngân của các dự án nên số chi tiêu thực thường cao hơn hoặc thấp hơn so với chi dự đoán. Vì vậy, rất khó dự báo chi ngân sách cho đầu tư trong tương lai.
  Trong nhiều trường hợp, chi đầu tư của chính phủ phụ thuộc vào nguồn viện trợ từ bên ngoài trong khi nguồn này khá bấp bênh. Hơn nữa, khi tình hình đột nhiên khó khăn do nhiều nguyên nhân khách quan như kinh tế thế giới suy thoái hiện nay, chính phủ cũng có thể chủ động tăng thâm hụt ngân sách và dùng thêm hụt này để đầu tư. Như vậy việc dự báo theo quan hệ xu thế quá khứ sẽ không thể chính xác.
  3.2) Dự báo chi ngân sách không rời rạc
  Ngoài những khoản chi ngân sách nêu trên, còn có những khoản chi khác mà chính phủ không có quyền can thiệp, ví dụ như những khoản chi đã được ghi trong Luật Ngân sách hoặc những cam kết đã có, như chi phí cho y tế, giáo dục, người về hưu, trả nợ trong nước và nước ngoài... Đối với những loại chi này, việc dự báo có thể căn cứ vào quan hệ quá khứ, vai trò của nhân tố tăng trưởng dân số và tình hình kinh tế.
Trợ cấp và chuyển giao lợi nhuận giữa chính phủ và khu vực doanh nghiệp Nhà nước cũng có thể coi là một khoản chi không rời rạc quan trọng. Việc dự báo chúng phải căn cứ vào các biện pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ cho khu vực công cộng, vào quản lý giá tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ thiết yếu, vào quản lý giá sản xuất các nông sản chính. Nếu trong giai đoạn ngắn, chính sách kinh tế không thay đổi đáng kể, thì việc thanh toán và chuyển giao sẽ phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá và dịch vụ được yêu cầu hoặc được sản xuất, giá thị trường trong nước và giá thế giới của hàng xuất hoặc nhập.
  Khối lượng tiền lương cũng có thể được xem là một khoản chi không rời rạc trong dự báo ngắn hạn. Nó phụ thuộc vào các nhân tố kinh tế như tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng lương trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên, dù chính sách tiền lương có thể ổn định ở tầm ngắn hạn; vẫn có thể thay đổi nó ở tầm trung hạn, tức là chi lương được xem là không rời rạc ở tầm ngắn hạn, những có thể lại trở thành rời rạc ở tầm trung hạn.
  3.3) Chi trả nợ
  Chi trả nợ nước ngoài có liên quan chặt chẽ tới cán cân thanh toán quốc tế. Thông thường, các chính phủ đều biết tổng số nợ đến hạn phải trả và số lãi kèm theo. Tình hình tương tự đối với nợ trong nước. Do đó, trong mô hình, thường xây dựng một lịch trình trả nợ của chính phủ trên cơ sở các thông tin nợ tồn đọng, từ đó tính ra số tiền ngân sách phải chi cho mục đích này. Vì vậy dự báo chi trả nợ không đặt ra nhu cầu phải xây dựng các mô hình kinh tế lượng.
4) Dự báo tài chính bù đắp thâm hụt ngân sách:
  Một trong những nội dung phải làm khi kết thúc các phân tích, dự báo tài chính công là dự báo thâm hụt ngân sách và phương thức bù đắp thâm hụt ngân sách. Đối với thâm hụt ngân sách, có thể xác định theo một số cách như sau:
  - Dự báo thu, chi ngân sách và tính thâm hụt ngân sách bằng chênh lệch thu - chi ngân sách.
  - Dự báo thu ngân sách, chi ngân sách thường xuyên và chi trả nợ. Xây dựng kịch bản chi đầu tư; tính tổng chi ngân sách rồi áp dụng cách trên để thu được tổng thâm hụt ngân sách.
  - Xây dựng kịch bản tỷ lệ thâm hụt ngân sách, tính ngược trở lại để thu được chi ngân sách cho đầu tư...
  Đối với tài chính cho thâm hụt ngân sách, thông thường dùng 1 trong ba hoặc kết hợp ba cách sau đây:
  - Vay từ nước ngoài;
  - Vay trong nước;
  - Phát hành tiền tệ để bù đắp.
  Để phân tích dự báo khả năng thu hút được các nguồn tiền trên vào mục tiêu bù đắp thâm hụt ngân sách, cần phải lưu ý xem xét một số vấn đề sau:
  + Khả năng vay của chính phủ phụ thuộc rất lớn vào khả năng và tâm lý của khu vực nước ngoài và trong nước
  + Khả năng vay nước ngoài phụ thuộc chủ yếu vào dự báo tiến triển của cán cân thanh toán quốc tế vì người nước ngoài cần được đảm bảo rằng họ sẽ được thanh toán cả vốn và lãi khi đến hạn.
  + Khả năng vay khu vực tư nhân trong nước phụ thuộc vào sức khoẻ của nền kinh tế, lãi suất thực của các trái phiếu, tín phiếu phát hành và uy tín của chính phủ.
  + Khi sử dụng phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, thường sẽ xuất hiện nguy cơ lạm phát gây mất ổn định kinh tế và ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế. Nhiều nước đã ban hành những đạo luật cấm phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách. Khi đó, chính phủ phải chấp nhận chi tiêu trong phạm vi thu nhập và khả năng vay được. Thậm chí không được phép vay quá nhiều, nếu không sẽ rơi vào hoàn cảnh nợ chính phủ trở nên quá cao, đến khi không trả được nợ thì kinh tế sẽ khủng hoảng.
  Vì có những hạn chế trong việc vay bù đắp cho thâm hụt ngân sách  nên rất cần phân tích kỹ các kết quả dự báo thâm hụt ngân sách. Nhờ công cụ mô hình hoá, có thể kéo dài thời gian dự báo cho 3 - 5 năm; thông qua đó, những mất cân đối ngân sách sẽ được khuyếch đại ngày càng cao. Nếu dự báo cho thấy những tỷ lệ thâm hụt ngân sách tương lai quá cao thì phải có những biện pháp hạn chế chi tiêu.
C) Dự báo cân bằng tiền tệ:


D) Dự báo xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế:
1) Dự báo xuất nhập khẩu:
  1.1) Dự báo xuất khẩu:
  Dự báo giá trị xuất khẩu thường được tách ra làm hai loại dự báo: dự báo khối lượng xuất khẩu và dự báo giá xuất khẩu. Dự báo giá xuất khẩu rất khó khăn vì phụ thuộc vào những biến động trên thị trường quốc tế mà chúng ta không có đủ thông tin. Do đó, việc này nên để dành cho những cơ quan chuyên trách trong lĩnh vực ngoại thương. Trong mục này, chúng  ta chỉ xem xét một số mô hình dự báo khối lượng xuất khẩu.
  a) Dự báo theo quan hệ cung:
  - Phương trình: Nói chung, người ta cho rằng khối lượng xuất khẩu của một nước đang phát triển phụ thuộc vào khả năng sản xuất của quốc gia đó và giá tương đối giữa sản phẩm trong nước và trên thị trường quốc tế; đại diện bằng giá trong nước so với giá xuất khẩu. Phương trình xác định như sau:
  EX = f (GDP, Pr)
với hệ số của GDP dương, của Pr âm; trong đó GDP được tính theo giá cố định; Pr là giá tương đối, bằng tỷ số giữa giá nội địa (chỉ số giá GDP) và giá xuất khẩu (chỉ số giá xuất khẩu) tính theo cùng một loại tiền.
  Cũng tồn tại một số biến giải thích liên quan tới cung hàng xuất khẩu như cầu nội địa đối với những sản phẩm xuất khẩu, sự phong phú của tín dụng ngân hàng...
  Giả thuyết cơ bản trong cách tiếp cận này là một nước nhỏ, mở cửa, có thể xuất khẩu bao nhiêu sản phẩm cũng được theo giá trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp này, người ta chú trọng phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới cung xuất khẩu vì chính chúng tác động đến khả năng sản xuất, từ đó tác động đến khối lượng xuất khẩu.
  - Dấu của các quan hệ:
  * Quan hệ giữa khối lượng xuất khẩu và khả năng sản xuất có dấu dương vì sản xuất một phần là để xuất khẩu.
  * Quan hệ giữa khối lượng xuất khẩu và giá tương đối có dấu âm vì khi giá nội địa tăng nhanh hơn giá xuất khẩu, người xuất khẩu sẽ không mua được hàng để xuất, tăng trưởng khối lượng xuất khẩu sẽ giảm.
  b) Dự báo theo quan hệ cầu:
  Đối với nhiều sản phẩm xuất khẩu, trong khi sản xuất có thể đáp ứng dễ dàng thì việc xuất khẩu rất khó khăn do phụ thuộc vào nhu cầu của thế giới. Khi đó, những biến chính giải thích khối lượng xuất khẩu sẽ là cầu thực của các nước bạn hàng và giá tương đối:
  EX = f(GDPe, Pr)
trong đó GDPe là tổng GDP theo giá cố định của các nước bạn hàng hay đối tác kinh tế lớn nhất.
  1.2) Dự báo nhập khẩu:
  Nhập khẩu được dự báo theo quan hệ cầu. Các biến giải thích tăng khối lượng nhập khẩu là cầu nội địa hoặc quy mô nền kinh tế hoặc thu nhập, và giá tương đối. Phương trình nhập khẩu cơ bản như sau:
  IM = f (GDP, Pr)
trong đó có thể thay GDP bằng các biến kể trên. Trong một số trường hợp, có thể bổ xung những biến giải thích khác như khối lượng đầu tư (khi chủ yếu nhập là để đầu tư), nguồn tín dụng sẵn có, mức dự trữ ngoại tệ...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét