Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2022

ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP...

ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THOÁT KHỎI NGUY CƠ KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY VÀ TIẾN TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1) TÓM TẮT THỰC TRẠNG KINH TẾ VĨ MÔ

Theo báo cáo của Chính phủ, tính chung trong năm 2022, nền kinh tế đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao (8%); chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng nhẹ (2-3,5%); thị trường tiền tệ, mặt bằng lãi suất, tỷ giá tương đối ổn định; tăng trưởng tín dụng vừa phải (13%); cán cân thương mại thặng dư nhẹ (1 tỷ USD) và thu hút đầu tư tiếp tục khả quan…

Tuy nhiên, dư luận cho rằng thực tế khác đáng kể so với các con số thành tích ấn tượng trên của Chính phủ, nhất là các số liệu về tăng trưởng (quá cao so với thực tế) và lạm phát (quá thấp so với thực tế; thực tế chỉ số giá tiêu dùng có thể lên đến 2 con số, có như vậy thì các NHTM mới chấp nhận nâng lãi suất huy động lên tới 8-10% mà vẫn không huy động được tiền trong dân).

Đặc biệt, tình hình ổn định kinh tế vĩ mô trong 2 quý cuối năm đã xấu đi khá nhanh và hết sức bất ngờ do hệ thống ngân hàng thiếu tính thanh khoản, lãi suất ngân hàng tăng vọt, nội tệ mất giá so với ngoại tệ và chỉ số chứng khoán VN-Index giảm hơn 30%, người dân và nhà đầu tư đều mất niềm tin...

Nguy cơ khủng hoảng giống như giai đoạn 2010-2011 đã trực tiếp xuất hiện. Những nguy cơ này, riêng về mặt tiền tệ, đã được tôi viết trong bài: “Thời đại khủng hoảng của Nguyễn Tấn Dũng đang trở lại ?” được đăng trên Blog và Fb cá nhân của tôi. Bài này tuy nêu ra được một số thực trạng, nhưng lại không có phần giải pháp. Vì vậy một số bạn đọc rất tâm đắc với bài viết này đã gửi thư đề nghị tôi viết tiếp phần giải pháp.

Thực ra kiến thức kinh tế của tôi cũng không nhiều và lâu rồi tôi cũng không nghiên cứu chính sách kinh tế nữa, chỉ tập trung giảng dạy, làm đề tài và thể dục thể thao giữ sức khỏe. Mặt khác, do không còn nằm trong bộ máy nhà nước nên tôi không có những thông tin cụ thể và chính xác, chỉ biết tình hình qua báo chí. Bên cạnh đó, các nhóm lợi ích bây giờ quá đông, quá mạnh so với trước kia, nên có đề xuất các kiến nghị tốt tin chắc họ cũng không nghe, thậm chí người đề xuất có khi còn mang vạ. Vì thế bây giờ bảo đưa ra giải pháp thì rất khó.

Trong một số nghiên cứu trước, tôi cũng có đề xuất một số giải pháp. Các giải pháp bây giờ cơ bản vẫn như đã đề ra trong các bài tôi viết vào những năm 2000-2003, 2014-2015 và gần đây, tức phải tính đến trung và dài hạn chứ không nên nhìn ngắn hạn. Hồi năm 2000, trong thời gian ở Mỹ, tôi đã rủ 1 nhóm khoảng 20 Việt Kiều về nước, cùng với anh chị em trong nước trong 3 năm 2001-2003 tổ chức 3 hội thảo kinh tế Việt Nam đình đám; kết quả được in thành 3 tập của Bộ sách "Đánh thức con rồng ngủ quên, kinh tế VN đi vào thế kỷ 21". Ngoài ra còn xuất bản 1 quyển bằng tiếng Anh ở Mỹ với nhan đề: “The Vietnamese Economy: Awakening the Dormant Dragon”, Edited by Tran Nam Binh and Do Chi Pham, NXB Routledge Curzon, 2003, trong đó tôi viết 2 bài “A Decade of Doi Moi in Retrospect” và “Continued Roadmap to a Market Economy” có đề cập tới nhiều chính sách. 

Gần đây, năm 2015 tôi có tham gia Diễn đàn kinh tế mùa xuân do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội VN và Tỉnh ủy Nghệ An đồng tổ chức, có viết 1 bài cho Diễn đàn với tiêu đề: Kinh tế vĩ mô 2014: “Ổn định về lượng, Trì trệ về chất, Chưa rõ tương lai”. Trong khoảng thời gian này, tôi cũng có đăng một số bài trên tạp chí Nghiên cứu kinh tế (ví dụ: “Kinh tế vĩ mô: Những điểm sáng 2013 và định hướng 2014”, Lê Việt Đức, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 2 (429), tháng 2-2014). Bạn nào quan tâm muốn tìm hiểu kỹ hơn thì có thể đọc những quyển sách này.

Những đề nghị chính sách dưới đây chủ yếu vẫn dựa trên các đề xuất trong các bài viết trên của tôi.

2) ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH NGẮN HẠN

Giữa lúc nền thế giới đang tăng trưởng chậm, nhiều nền kinh tế lớn sắp rơi vào suy thoái, và sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng cao, thì nền kinh tế nước ta nói chung và các doanh nghiệp nội địa Việt Nam nói riêng trong suốt hơn 15 năm 2007-2022 vẫn quá yếu ớt, thậm chí hiện nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng sau đại dịch Covid-19. Do vậy, mục tiêu chủ yếu của chính sách kinh tế trong những năm tới không phải là tăng trưởng cao mà là tập trung sửa chữa những lỗi hệ thống, nâng cao chất lượng tăng trưởng, làm nền tảng phát triển mạnh mẽ cho những năm sau.

Đặc biệt trước bối cảnh nền kinh tế nước ta đến cuối năm 2022 vẫn rất khó khăn trong khi nguy cơ khủng hoảng kinh tế toàn diện như năm 2010-2011 đã trở nên khá rõ nét, theo tôi, trong năm 2023 và 2 năm tiếp theo, Chính phủ cần kiên trì thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP thấp hơn hiện nay, tức là chỉ cần khoảng 5,5-6%/năm, để dành tâm sức, nguồn lực cho mục tiêu nâng cao rõ rệt chất lượng tăng trưởng, định hình và bước đầu xây dựng được một thể chế kinh tế thị trường mới, phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế trong nước và xu hướng phát triển kinh tế trong thời đại cách mạng 4.0 ngày nay; đẩy mạnh tái cơ cấu lại nền sản xuất, lành mạnh hóa thị trường bất động sản, làm sạch tình trạng nợ xấu, ổn định tỷ lệ thu, giảm dần tỷ lệ chi và giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách, tiến tới đảm bảo cân bằng ngoại thương của khu vực kinh tế trong nước, liên tục giữ vững được những cân đối vĩ mô chính, giảm nhanh tình trạng tham nhũng tiêu cực, cải cách bộ máy nhà nước và công tác cán bộ theo hướng thực tâm phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân...

Làm được những điều trên thì đã quá tuyệt vời, qua đó hoàn toàn có thể năng cao rõ rệt tiềm năng tăng trưởng trung và dài hạn của đất nước mà không tốn nhiều chi phí, để từ những năm 2026-2030 có thể đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế trở về 7-7,5%/năm hoặc tới 8%/năm một cách vững chắc như đã đạt được trong suốt 18 năm đầu đổi mới (1989-2007).

Nguyên tắc tối cần thiết đặt ra trong suốt 3 năm 2023-2025 là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và phát triển hài hòa làm đại cục, ra sức nâng cao chất lượng tăng trưởng để chấm dứt hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm qua.

Về cụ thể, một số chính sách cần thực hiện ngay trong năm 2023 là:

(1) Chính sách đầu tư:

Vấn đề đã được nói từ rất lâu là hệ số ICOR (Incremental capital/output ratio) của VN khá cao so với các nước khác, thể hiện hiệu quả đầu tư nói riêng và hiệu quả của toàn nền kinh tế nói chung rất thấp. Nếu giảm được ICOR xuống mức ngang với các nước xung quanh và những nước có cùng trình độ phát triển, thì VN có thể giảm mức đầu tư 30%-40% khối lượng đầu tư, kèm theo giảm nhu cầu tín dụng, mà vẫn có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng, từ đó giảm được các áp lực lạm phát và mất ổn định tiền tệ như đang diễn ra.

Một số việc cần làm ngay là:

- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư và kinh doanh theo hướng tự do hóa kinh tế.

- Giảm mạnh sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế;

- Phát huy năng lực nội sinh trên cơ sở đề cao khu vực kinh tế tư nhân trong nước, giảm mạnh vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, giảm bớt vai trò của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

(2) Chính sách tài chính:

Tỷ lệ bội chi ngân sách năm 2022 khoảng 4% của GDP, tức là vẫn ở mức khá cao so với các nước khác. Hơn nữa, con số này chưa thực sự chính xác vì chưa tính đến các chi tiêu ngoài ngân sách. Dựa theo cách tính và báo cáo của IMF, nếu kể cả các chi tiêu này thì tỷ lệ bội chi của VN có thể lên đến 6-8% GDP, tức là tỷ lệ rất cao và chính sách tài khoá của VN đang là một nguyên nhân gây áp lực tới lạm phát và ổn định tiền tệ.

Những điều cần làm ngay trong chính sách tài khóa:

- Kiên quyết giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách về mức lành mạnh theo chuẩn mực quốc tế (khoảng 2-3% GDP thay vì 6-8% GDP. Để giảm thâm hụt ngân sách, cần chọn đúng các khoản mục, đối tượng chi ngân sách cần giảm chứ không phải giảm đồng loạt như nhau, thì chính sách tài khoá chặt mới thực sự có tác dụng. Trọng điểm là giảm tỷ lệ chi ngân sách cho đầu tư công.

- Xiết chặt kỷ cương đầu tư công và các khoản chi ngân sách khác để nhanh chóng loại bỏ những tiêu cực và lãng phí ngân sách, nhất là trong đầu tư công.

- Cải thiện sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương trong quá trình thực thi chính sách ngân sách.

- Giảm phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước và không phát hành trái phiếu Chính phủ ra nước ngoài. Đây là những biện pháp quan trọng nhằm giảm áp lực lạm phát do chi tiêu công quá mức, đồng thời tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực công.

(3) Chính sách tiền tệ:

Những điều cần làm ngay trong chính sách tiền tệ:

- Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán nay phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố tâm lý, nhất là niềm tin của nhà đầu tư vào các chính sách. Hiện nay, hệ thống ngân hàng đang ở tình trạng rất thiếu thanh khoản và tốc độ lạm phát đang chậm lại, Ngân hàng nhà nước đã có thể nới lỏng chính sách tiền tệ và kiểm soát trực tiếp để thêm dự trữ và cho vay của các ngân hàng. Mặt khác, niềm tin của nhà đầu tư cũng chỉ có thể phục hồi khi tỷ lệ lạm phát tiếp tục được kiểm soát như trong quý vừa qua và lãi suất được tự do hóa trở lại.

- Có thể nâng tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2022 lên mức 15-16%, tức là tăng nhẹ so với định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14% đã được công bố. Tuy nhiên, cần khuyến khích cho vay đối với các công ty và tổ chức tư nhân thay vì ưu tiên cho các công ty và tổ chức quốc doanh?

(4) Phối hợp và quyết định đồng bộ:

- Về tính cách các biện pháp được áp dụng và thời gian tính, điều quan trọng là sự phối hợp và quyết định đồng bộ của hai chính sách tài khoá chặt và tiền tệ linh hoạt. Về cải cách cơ cấu, cần phải kiên nhẫn chờ đợi kết quả, áp dụng thắt chặt tiền tệ đối với khu vực kinh tế nhà nước, mở rộng tiền tệ đối với khu vực kinh tế tư nhân… cần đến độ 6-9 tháng sau mới có kết quả. Chính sách tài khoá chặt cần được áp dụng ngay để có kết quả vào giữa năm 2022. Công bố rõ ràng và chỉ rõ đối tượng giảm đầu tư công như yếu tố cốt lõi hiện nay để giảm áp lực lạm phát;

- Để thực hiện và theo dõi tính chất đồng bộ trên, cần thành lập ngay một ủy ban ổn định kinh tế vĩ mô do Thủ Tướng đứng đầu gồm để nhấn mạnh quan tâm của Chính phủ trong vấn đề chống lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và giúp tái lập lòng tin dân chúng đối với tình hình tài chính quốc gia bao gồm thị trường chứng khoán và hệ thống ngân hàng.

- Tập hợp một số kinh tế gia có uy tín, trình độ thực sự không nằm trong chính phủ, đại diện các quĩ đầu tư lớn trong và ngoài nước, đại diện các ngân hàng công và tư, và đại diện một số xí nghiệp lớn gồm các ngành tiêu biểu cho nền kinh tế quốc gia... để nghiên cứu góp ý cho Chính phủ soạn và áp dụng các chính sách kinh tế tài chính thích hợp.

- Tăng cường trợ cấp cho người nghèo và trợ cấp nhập khẩu phục vụ nông nghiệp và các DN vừa và nhỏ trong một số lĩnh vực tuyển chọn.

- Đẩy mạnh các chính sách tăng trưởng nông nghiệp và nông thôn để giúp giải quyết tác động của lạm phát lên nông dân.

3) ĐỊNH HƯỚNG TRUNG VÀ DÀI HẠN

(1) Mục tiêu và định hướng chính sách

Bối cảnh phát triển kinh tế của nước ta trong những năm từ nay tới năm 2030 cũng như mọi giai đoạn trước đều sẽ có những mặt thuận và những mặt không thuận, nhưng dự báo mặt thuận là cơ bản. Kinh tế thế giới năm 2023 khủng hoảng nhưng từ năm 2024 sẽ phục hồi. Xu hướng hội nhập kinh tế thế giới vẫn tiếp tục dù dưới hình thức khác với trước, trong khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng phát triển với ngày càng nhiều thành tựu sẽ được áp dụng ngay trong cuộc sống. Hoạt động sản xuất kinh doanh và thương mại của các nước Cộng đồng kinh tế ASEAN trong khuôn khổ các hiệp định song phương và đa phương ngày càng sôi động. Nhưng nhân tố tích cực này chắc chắn sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta.

Những áp lực của hội nhập, cạnh tranh quốc tế và khu vực cùng với những chủ trương chính sách mới được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng đầu năm 2021 chắc chắn đòi hỏi Chính phủ cũng như từng doanh nghiệp, cá nhân phải hành động quyết liệt hơn. Thuận lợi và khó khăn đan xen nhau; khó khăn cũng có mặt tích cực là tạo sức ép để phải đổi mới, phải hành động. Thực tiễn cho thấy càng bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, người Việt và doanh nhân Việt càng trở lên mạnh mẽ. Do vậy, nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2023-2025 chậm lại, nhưng giai đoạn 2026-2030 sẽ cao hơn rõ rệt, ít nhất cũng khoảng 7-7,5%/năm và quan trọng hơn, tốc độ này có tính bền vững vì năng suất, chất lượng, hiệu quả đã có bước cải thiện rõ rệt sau ba năm ổn định kinh tế 2023-2025...

Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, không gì khác hơn là phải đổi mới mô hình tăng trưởng, nhấn mạnh vào sử dụng nguồn vốn con người, phát huy sức mạnh của trí tuệ con người, thay cho nguồn vốn đầu tư cũng như các nhân tố phát triển theo chiều rộng khác.

Đặc biệt phát triển phải bám sát và dựa vào các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số. Đồng thời phải dứt khoát phải từ bỏ con đường phát triển dựa vào mở rộng bội chi ngân sách, phát hành tiền tệ tín dụng, khai thác tài nguyên và lao động rẻ tiền (thực chất là bóc lột nhân công), bán đất đai và vay nợ nước ngoài như đã làm trong hàng chục năm qua.

Phát triển phải tập trung tâm trí, sức lực và nguồn lực xây dựng bằng được:

(i) Một hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học, được người dân ủng hộ và thực hiện tốt hệ thống pháp luật để từ nay về sau toàn xã hội sẽ triệt để tuân thủ nguyên tắc thượng tôn pháp luật,

(ii) Một thể chế kinh tế thị trường thực sự lành mạnh, theo đúng chuẩn mực quốc tế để động viên được sức mạnh của toàn dân, toàn thể cộng đồng doanh nghiệp vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Đây cũng chính là những vấn đề then chốt phải khẩn trương xử lý để đất nước tăng trưởng nhanh, bền vững và thoát được cái bẫy thu nhập trung bình.

(2) Nhân tố trọng tâm

Những vấn đề cụ thể để chất lượng tăng trưởng, đổi mới mô hình tăng trưởng... rất nhiều, không thể bàn tới trong khuôn khổ bài viết này được. Để bắt đầu từ đâu, dựa vào đâu để thóat khỏi tình trạng trì trệ hiện nay, chỉ xin kể ra một vấn đề then chốt, trọng tâm nhất và dễ thấy nhất là công tác cán bộ.

Chất lượng cán bộ quyết định tất cả; cán bộ tốt thì làm ra thể chế tốt, điều hành và giám sát thực hiện thể chế tốt. Đất nước tiến nhanh hay tiến chậm, phát triển hay thụt lùi có liên quan chặt chẽ tới chất lượng hoạt động của bộ máy lãnh đạo đất nước, của hệ thống chính quyền từ trung ương với cơ sở. Để nâng cao chất lượng tăng trưởng, dứt khoát phải nâng cao chất lượng bộ máy giám sát thực hiện đúng pháp luật và nguyên tắc kinh tế thị trường, tức là nâng cao năng lực và phẩm chất đội ngũ cán bộ nhà nước.

Thực ra Việt Nam là nước đi sau nên hoàn toàn có thể sao chép kinh nghiệm, cách làm của các nước đi trước để áp dụng cho mình (như Trung Quốc đã và đang làm rất thành công), mặt khác cán bộ nhà nước đa phần là làm sự vụ hành chính theo quy định của pháp luật. Do đó không nhất thiết phải dồn sức cho việc nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, nhất là không cần trang bị các loại bằng cấp thạc sĩ, tiến sĩ... cho cán bộ, mà vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay là nâng cao phẩm chất, đạo đức cán bộ.

Phẩm chất cán bộ thể hiện ở hai tiêu chí: (i) Dám nhìn thẳng vào sự thật, nói ra sự thật, bảo vệ những người nói ra sự thật; (ii) Một lòng một dạ làm việc vì lợi ích của dân; nói ít, làm nhiều; cái gì có lợi cho dân, cho đất nước thì nhất định phải làm; cái gì hại nhất thiết phải bỏ; bảo vệ những người thực sự làm việc vì lợi ích của dân, của nước. Chỉ khi có đủ hai tiêu chí này thì mới chống được tình trạng tham nhũng và quan liêu ức hiếp đang lộng hành trong bộ máy công quyền hiện nay.

Cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, nhất là cán bộ cấp Trung ương, phải thực sự hiểu dân, phải biết thương dân, phải nhìn thấy dân nghèo sống khổ cực như thế nào, doanh nghiệp đang khốn khổ ra sao, bị bộ máy công quyền hạch sách gây khó khăn như thế nào... để kiên quyết tìm cách giúp đỡ.

Luân chuyển cán bộ phải là cơ hội để cán bộ hiểu dân hơn và làm ra nhiều thành tựu cho người dân chứ không phải chỉ để hoàn chỉnh lý lịch cho những bước thăng quan tiến chức tiếp theo. Chỉ những cán bộ làm ra được những thành tựu cho địa phương, cho người dân mới được thăng quan tiến chức sau khi hoàn thành tốt các nhiệm vụ ở cơ sở.

Mỗi công dân khi đồng ý làm việc trong bộ máy nhà nước nên bắt đầu công tác ở cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào khó khăn để vừa rèn luyện, vừa học cách thương yêu và nhận thấy trách nhiệm của mình với cuộc sống của người dân. Nhà nước có chế độ thích hợp về tiền lương, nhà công vụ, thời hạn luân chuyển công tác, cách thức nâng đỡ, bảo vệ người làm việc tốt, làm việc chỉ vì lợi ích đất nước, lợi ích của người dân... để khuyến khích cán bộ công chức trẻ về công tác ở cơ sở.

Nếu như quyết tâm nâng cao phẩm chất cán bộ, trước hết từ cấp cao nhất ở Trung ương, dần dần xuống mọi cấp chính quyền cơ sở, thì nhất định quan điểm, mô hình phát triển sẽ được thay đổi, đất nước sẽ có tương lai tươi đẹp.

Trong khi chưa có những thay đổi mang tính đột phá về công tác cán bộ, không thể hy vọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không gây ra những cuộc khủng hoảng mới. Vì vậy ở tầm ngắn hạn, trong điều hành chính sách kinh tế xã hội, cần tiếp tục thực hiện nguyên tắc tối cần thiết là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và phát triển hài hòa (kinh tế, xã hội, môi trường) làm đại cục, ra sức nâng cao chất lượng tăng trưởng để chấm dứt hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm qua. Khi đó phải chấp nhận có một giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và thể chế kinh tế, kèm theo một tốc độ tăng trưởng thấp.

Đã xác định được mục tiêu (hướng vào chất lượng thay cho số lượng) thì dù khó khăn đến đâu cũng nhất định phải tìm mọi cách để thực hiện. Lãnh đạo phải luôn luôn khảm một câu trong đầu: “Kiên trì, không vội. Kiên trì, chính là thắng lợi!”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét