Thứ Năm, 15 tháng 12, 2022

Thời đại khủng hoảng của Nguyễn Tấn Dũng đang trở lại ?

Thời đại khủng hoảng của Nguyễn Tấn Dũng đang trở lại ?
1) Bài học Nguyễn Tấn Dũng

Trong cuộc đời gần 40 năm công tác trong cơ quan nhà nước, tôi có ấn tượng nhất với ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông là nhà lãnh đạo cấp cao đầu tiên của Việt Nam thuộc thế hệ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cũng là một trong những Thủ tướng trẻ tuổi nhất khi nhậm chức (56 tuổi). Ông làm Thủ tướng trong 1 tháng cuối khóa X sau khi ông Phan Văn Khải từ chức, rồi tiếp tục làm Thủ tướng qua 2 khóa XI và XII nên ông Dũng có 3 nhiệm kỳ làm Thủ tướng.

Tôi đã từng gặp các Thủ tướng trước ông Dũng là Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải, chỉ chưa từng gặp Thủ tướng Phạm Hùng. Nhưng tôi ấn tượng nhất về ông Dũng vì tôi chưa từng thấy bất cứ ông Thủ tướng nào ở VN trước ông lại dốt nát và liều lĩnh như ông.

Tôi nhớ mãi cuối năm 1998, khi tôi mới về nước sau gần chục năm sống ở nước ngoài, ông Dũng đến cơ quan tôi; khi đó ông là Ủy viên thường vụ Bộ chính trị (1 trong 5 nhân vật được coi là lãnh đạo tối cao của nước ta, giống như 7 ông Ủy viên thường vụ Bộ chính trị ở Trung Quốc), Phó thủ tướng thường trực chính phủ kiêm chức Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 

Khi ngồi nghe ông phát biểu, có anh bạn ghé vào tai tôi nói nhỏ: "Chưa bao giờ ở nước mình có ông Thủ tướng cấp dưới trình cái gì cũng không dám ký; trước khi ký cái gì cũng phải hỏi xin ý kiến cấp dưới; và cũng chưa bao giờ có ông Phó Thủ tướng cấp dưới trình cái gì cũng ký; nhưng ký cái gì sai cái đấy". Phó Thủ tướng này là ông Nguyễn Tấn Dũng. Đúng là vừa liều (ký bạt mạng) vừa dốt (ký toàn sai). Anh bạn này bây giờ vẫn thường vào xem FB này của tôi, đôi khi anh cũng viết bình luận; anh rất mê bóng đá... Giá đọc được bài này, anh cũng viết cho vài câu bình luận thì tuyệt.

8 năm sau, khi vừa mới tiếp quản chiếc ghế Thủ tướng nóng hổi năm 2006, Ông Dũng chỉ đạo chúng tôi: Quyết liệt hành động để cơ bản hoàn thành kế hoạch 5 năm 2006-2010 trong 3 năm 2006-2008. Chúng tôi trố mắt ngạc nhiên; cả một bản kế hoạch 5 năm được xây dựng công phu, cân đối đến từng chi tiết, đã giao cho các bộ, ngành, địa phương từ trung ương xuống cơ sở thực hiện, nay đột nhiên bị chuyển thành 3 năm, thế thì sẽ tan hết cả nền kinh tế. 

Ông bồi tiếp: Phải nâng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm lên 12-13%... Không ai dám tin điều này trừ mấy đồ đệ, lâu la chuyên nịnh hót của ông Dũng, vì trong lịch sử nước ta chưa bao giờ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế lên tới 9,5-10%/năm, trung bình 15 năm đổi mới hoàng kim trước đó (1991-2005) cũng chỉ 7,2%/năm. Trên thế giới cũng chỉ duy nhất Trung Quốc có tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình 10%/năm trong khoảng thời gian khá dài.

Lời nói đi đôi với hành động, ông Dũng cho quân tướng tiêu tiền như nước lũ để "quyết liệt" tăng trưởng.

Kết quả, theo trang "Nguyễn Tấn Dũng" trên Wikipedia, lạm phát cả năm của Việt Nam năm 2008 lên cao nhất khu vực (25%); chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua gói kích cầu trị giá tổng cộng 8 tỷ đô la (tương đương 143.000 tỷ đồng). Dòng tiền chảy không đến các mục đích như được thông báo, không có khu vực kinh tế nào ở Việt Nam tỏ ra khởi sắc sau gói kích cầu ngoài thị trường chứng khoán và nâng mức thâm hụt ngân sách lên đến 8% năm 2009 so với 5% của năm 2008. 

Sang năm 2010, gói kích cầu càng bộc lộ nhược điểm: bội chi ngân sách đến mức báo động, dự trữ ngoại hối quá thấp, nội tệ liên tục mất giá so với ngoại tệ, bất ổn định kinh tế vĩ mô bùng phát dữ dội. Điều này dẫn tới lạm phát tăng cao, các chính sách thắt chặt tiền tệ ngay sau đó càng gây khó khăn kinh tế. IMF và WB phải đề nghị Việt Nam thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô.

Không chỉ gây ra liên tiếp ba cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát trong các năm 2008, 2010 và 2011-2012, ông Dũng còn tỏ ra thất bại hoàn toàn trong quản lý kinh tế. Trong những năm liên tiếp trước khi Thủ tướng Dũng nhậm chức ở nhiệm kỳ đầu tiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế thời ông Khải nhanh dần: 7,08% năm 2002, 7,34% năm 2003, 7,79% năm 2004, và 8,44% năm 2005. Ngược lại, sau khi thủ tướng Dũng nhậm chức, tăng trưởng GDP giảm: năm 2007 đạt 8,23%, năm 2008 đạt 6,31%, năm 2009 đạt 5,32%, năm 2010 tăng một chút lên 6,78% nhưng năm 2011 chỉ còn 5,89%. Lạm phát tăng cao (cao nhất châu Á vào tháng 7-8 năm 2011) trong khi đời sống của nhân dân khó khăn hơn: Mức thu nhập trong giai đoạn 2008 - 2010 tăng bình quân 9,3%/năm (giai đoạn lạm phát cao lên tới hơn 40%) sau khi trừ đi yếu tố tăng giá đã thấp hơn mức thu nhập thực tế tới 10,7%/năm của thời kỳ năm 2002-2004.

Ông Dũng cho ra nghị quyết 11 NQ/Cp thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô gây ra nhiều vấn đề, tác dụng phụ, cho nền kinh tế, hàng loạt doanh nghiệp phá sản, ngân hàng khủng hoảng. Ngày 20/10/2012, trước Quốc hội, ông Dũng đã xin lỗi vì những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành.Trong trong Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII ông đã thừa nhận các sai lầm trong quản lý kinh tế đã dẫn tới các vấn đề nghiêm trọng của nền Kinh tế Việt Nam.

Cũng theo trang wikipedia trên, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ủy viên TWD khóa III (1960-1976), cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc đã phát biểu: "Toàn dân người ta đã biết ông này không có năng lực quản lý xã hội, quản lý kinh tế cho nên chưa bao giờ kinh tế của chúng ta nó sa sút như bây giờ. Sự không có năng lực của ông ấy là đã rõ. Mặt khác, các tập đoàn kinh tế nào là Vinashin, Vinalines rồi còn bao nhiêu tập đoàn kinh tế khác mà ông Thủ tướng trực tiếp quản lý đã thất thoát hàng ngàn tỷ của nhân dân, thiệt hại quá lớn. Mặt khác, ông ấy lại độc đoán, độc tài vì vậy nếu còn nắm quyền thì ông ấy còn làm bao nhiêu thứ khác chỉ có hại cho đất nước như vậy thì không lo sao được ?"

Cũng theo trang wikipedia trên, chiều ngày 18 tháng 12 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã diễn ra phiên xét xử vụ án Tổng Công ty Viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần Công ty Cổ phần nghe nhìn Toàn cầu (AVG), diễn biến đáng chú ý là bị cáo Nguyễn Bắc Son, người được cho là chủ mưu của vụ bê bối này đã khai trước tòa rằng ông không phải kẻ chủ mưu, cầm đầu thương vụ AVG, mọi thứ đều có sự phê duyệt và làm đúng theo chỉ đạo của Thủ tướng chính phủ (thời điểm diễn ra vụ mua bán đó, ông Nguyễn Tấn Dũng là Thủ tướng Chính phủ). Vụ án nghiêm trọng này đến nay vẫn chưa được xem là đã kết thúc.

Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau 15 ngày họp kín, bế mạc ngày 15/10/2012, đã quyết định không kỷ luật Bộ Chính Trị và không kỷ luật “một đồng chí trong Bộ Chính trị”. “Đồng chí” này hay như lời chủ tịch nước Trương Tấn Sang “đồng chí X”, không ai khác chính là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, cho dù ông đã phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý, để cho nạn tham nhũng hoành hành. Phát biểu trước Quốc hội Việt Nam đúng 1 tuần sau đó, ngày 22/10/2012, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã thừa nhận trách nhiệm của mình đối với những sai lầm, khuyết điểm này. Mặt khác, để chủ động ngăn chặn những sai lầm trong tương lai của Thủ tướng, Ban Chấp hành Trung ương đã phải quyết định tái lập ban Kinh tế Trung ương cho phép Đảng trực tiếp nắm bắt, theo dõi những dữ liệu kinh tế vĩ mô và chỉ đạo xây dựng chính sách kinh tế trong tương lai.

2) Thời đại Nguyễn Tấn Dũng đang trở lại ?

Sau hơn một thập kỷ kể từ 3 cuộc khủng hoảng trong thời đại 
Nguyễn Tấn Dũng, các diễn biến trên thị trường ngân hàng - tài chính Việt Nam năm 2022 dường như đang lặp lại năm 2011 với các nét phác hoạ tương đồng: lãi suất liên ngân hàng tăng vọt, hệ thống chạy đua tăng lãi suất, ngân hàng cho vay vượt quá huy động, khủng hoảng thanh khoản, lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng nhà nước tăng mạnh, đồng VND mất giá sốc, nợ xấu bùng phát, lạm phát nếu tính đúng tính đủ thì có thể lên tới 2 con số...

Dưới đây là mộ số nét tương đồng chính.

(1) Sốc tỷ giá, VND mất giá hơn 9% so với USD

Năm 2011, thị trường ngoại hối chứng kiến một cú sốc (shock), đồng VND mất giá tới 9,3% chỉ sau một đêm. Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tăng tỷ giá từ 18.932 đồng đổi 1 USD lên 20.693 đồng, đồng thời thu hẹp biên độ giao dịch tỷ giá từ 3% xuống 1%. Chỉ sau 1 đêm giá trị Việt Nam đồng đã mất 9,3% so với USD. Sau cú sốc điều hành vào tháng 2/2011 này, tỷ giá VND/USD chỉ tăng 0,97% trong 9 tháng còn lại của năm 2011.

Cú sốc tỷ giá 2011 xảy ra do nền kinh tế mất cân đối cán cân thanh toán trong nhiều năm liên tiếp, cung USD không đủ cầu trong khi lạm phát đồng nội tệ tăng 11,8% trong năm 2010 đã thúc đẩy cầu găm giữ USD tăng vọt.

Năm 2022, cú sốc tỷ giá nhẹ hơn. Đồng nội tệ mất giá 5% trong một đêm sau khi NHNN tăng lãi suất và nới biên độ tỷ giá chính sách. Tính trong cả 12 tháng năm 2022, đồng nội tệ mất giá cao nhất khoảng 9%. Đáng nói là đồng VND mất giá khi nền kinh tế giữ mức thặng dư thương mại 5 năm liên tiếp, dự trữ ngoại hối tại NHNN được cho là tốt nhất từ trước tới nay.

Lý do của năm 2022 có vẻ khó chấp nhận hơn lý do của năm 2011 khi cú sốc tỷ giá chủ yếu do điều hành thiếu linh hoạt. Năm 2022, việc đảo ngược chính sách tiền tệ của Cục dự trữ liên bang Mỹ (với tốc độ nhanh) đã thúc đẩy đồng bạc xanh tăng giá mạnh. Dòng vốn USD đổ về Mỹ, tình trạng khan USD xuất hiện toàn cầu. Quan trọng hơn, Việt Nam đã sai lầm khi duy trì giá trị đồng nội tệ ngược với các nền kinh tế khác trong khu vực và thế giới (các nền kinh tế khác đều để đồng nội tệ mất giá so với USD từ năm 2021). Điều này khiến cú sốc tỷ giá trở nên dễ đoán hơn và không đáng có. Ngoài ra, việc NHNN kiên định với chính sách chống đô-la hoá nền kinh tế, huy động USD với lãi suất 0% trong hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) cũng như buộc doanh nghiệp phải lập tức bán USD cho NHTM khiến tình trạng USD trở nên khan hiếm hơn. Một lượng lớn ngoại tệ nằm ở các hộ gia đình hoặc tài khoản của khách hàng nhập khẩu ngoài biên giới quốc gia. Khan hiếm USD cũng thúc đẩy huy động nội tệ, lãi suất đồng nội tệ tăng, tăng sức ép lên cuộc đua huy động lãi suất và rủi ro thanh khoản trong hệ thống các NHTM.

(2) Chạy đua tăng lãi suất trong hệ thống NHTM

Lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy động VND lên đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,5% - 20%/năm, cho vay phi sản xuất từ 25% - 28%/năm. Tình trạng chạy đua huy động trên NHTM ngày một căng thẳng, không chỉ lãi suất qua đêm tăng vọt trên thị trường liên ngân hàng, các NHTM xuất hiện tình huống mất niềm tin với nhau trong hệ thống.

Cũng tương tự năm 2011, lãi suất huy động, cho vay và lãi suất liên ngân hàng hệ thống NHTM năm 2022 cũng bắt đầu chạy đua, tăng vọt kể từ quý II/2022. Hiện nay, lãi suất huy động của một số ngân hàng thương mại nhỏ đã tăng gần như gấp đôi so với đầu năm, ở mức trên 11%/năm. Suy kiệt thanh khoản trong hệ thống NHTM được giải thích cho tình trạng này. Tình trạng suy kiệt thanh khoản xảy ra khi bảng cân đối NHTM tồn tích quá nhiều tài sản xấu, thêm vào chính sách tiền tệ thắt chặt do lạm phát khiến dòng tiền trú ẩn ở vàng, USD, các NHTM khó khăn trong huy động. Chi phí vốn đẩy lên cao, gây tổn thất lớn cho khu vực kinh tế tư nhân và tiêu dùng.

(3) Ngân hàng nhà nước liên tiếp tăng lãi suất điều hành, ấn định trần lãi suất

Năm 2011, để xử lý vấn đề chạy đua huy động lãi suất của các NHTM, NHNN quy định trần lãi suất 14%/năm khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 30-40%/năm kỳ hạn 1 tháng.

Trước khi đưa ra chính sách trần lãi suất, NHNN thời điểm đó đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên 13%), 4 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO (từ 8% lên 15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9% kể từ năm 2010.

Năm 2022, NHNN đã phải hai lần liên tiếp tăng lãi suất tái điều hành trong vòng 1 tháng. Lãi suất tái cấp vốn được nâng từ 4,0%/năm lên 6,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 2,5%/năm lên 4,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với tổ chức tín dụng tăng từ 5,0%/năm lên 7,0%/năm.

Mặc dù chưa ấn định trần huy động lãi suất như hồi năm 2011 nhưng hôm qua (13/12/2022), NHNN đã phát đi thông điệp rằng bất cứ NHTM nào muốn tăng lãi suất huy động cũng phải báo cáo với NHNN. Đây thực chất là can thiệp hành chính vào đợt chạy đua huy động lãi suất do suy kiệt thanh khoản trên hệ thống, dù mức độ chưa chặt chẽ và khắc nghiệt như hồi năm 2011.

(4) Các NHTM cho vay vượt quá huy động: Suy kiệt thanh khoản

Một trong những chỉ số đánh giá thanh khoản của hệ thống NHTM là chỉ số LDR (cho vay/huy động). Thông thường tỷ lệ cho vay trên tổng huy động chỉ nên ở mức dưới 80%. Đây cũng là giới hạn an toàn mà các NHNN ấn định cho các NHTM trong hoạt động của họ, đảm bảo thanh khoản cho từng ngân hàng và hệ thống.

Tuy nhiên, thanh khoản suy kiệt trong năm 2011 và hiện giờ là 2022 với nhiều dấu hiệu giống nhau. Năm 2011, LDR bình quân của các tổ chức tín dụng (TCTD) lên tới trên 100%. Năm 2022, tuy LDR bình quân của cả hệ thống chưa vượt mức 100%, nhưng theo số liệu toàn hệ thống, có trên 20 NHTM có tỷ lệ cho vay/huy động (thị trường dân cư) trên 90%. Tệ hơn, có tới 4 NHTM có tỷ lệ cho vay/huy động lên tới trên 100%.

(5) Nợ xấu bùng phát

Nợ xấu theo báo cáo và công bố của NHNN năm 2011 ở mức gần 4%. Tuy nhiên, sau 5 năm, trong một tuyên bố tại Quốc hội, cựu Thống đốc NHNN - ông Nguyễn Văn Bình tuyên bố, nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng thương mại năm 2011 là ở mức 19%. Đây là lý do thúc đẩy cuộc tái cơ cấu hệ thống TCTD vào năm 2012 sau đó.

Hiện tại, nợ xấu bình quân toàn hệ thống NHTM chưa có số liệu thống kê hoặc công bố từ NHNN. Tuy nhiên, nợ tại bảng cân đối và Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) hồi trước đại dịch Covid-19 ước tính vẫn ở mức 7% tổng dư nợ. Sau 3 năm đại dịch, dòng tiền đổ vào các thị trường tài sản có tính đầu cơ cao và rủi ro cao như cổ phiếu, phái sinh, chứng khoán doanh nghiệp bất động sản, tín dụng bất động sản... đã thúc đẩy nợ xấu hệ thống tăng vọt khi chính sách tiền tệ thắt chặt.

Vào ngày 2/11/2022, trang CafeF tổng kết báo cáo tài chính quý III/2022 của 27 NHTM cho thấy, tính đến ngày 30/9/2022, tổng nợ xấu nội bảng của 27 ngân hàng ở mức gần 129,8 nghìn tỷ đồng, tăng 28,4% so với đầu năm.

Trong đó, đáng chú ý, tổng nợ nhóm 5, tức nợ có khả năng mất vốn, tính đến cuối tháng Chín tăng mạnh tới 62,5% so với đầu năm. Cụ thể là lên gần 72,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 55,8% tổng nợ xấu, so với tỷ trọng 44% hồi đầu năm.

Thực tế, nợ xấu trong hệ thống NHTM đã tăng cao trong suốt đại dịch và chưa được hạch toán đúng và đủ vào bảng cân đối của các NHTM vì chính sách giãn nợ, khoanh nợ (theo chính sách).

Rất nhiều khoản nợ xấu của NHTM từ 2012 cho tới nay vẫn đang tồn tại ở Công ty quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) - một công ty của của nhà nước ôm giữ khối nợ xấu và xử lý nợ xấu cho các NHTM. Nợ xấu dồn tích suốt 10 năm, đặc biệt tăng vọt sau đại dịch. Một số liệu gián tiếp chứng minh nợ xấu trong NHTM rất lớn, đó là việc lãi suất cho vay bình quân trong hệ thống NHTM giảm hầu như không đáng kể dù lãi suất huy động giảm mạnh trong giai đoạn chính sách tiền tệ nới lỏng, tiền rẻ ngập thị trường 2020 - 2021.

(6) Thị trường chứng khoán lao dốc, người dân và nhà đầu tư mất niềm tin

Năm 2011, TTCK Việt Nam chứng kiến đà lao dốc không phanh của cả hai chỉ số chính. Trong khi VN-Index mất giảm từ 486 điểm xuống mức 356,2 điểm (mức thấp nhất kể từ tháng 5/2010, mất 26,7%) thì HNX-Index đạt mức thấp nhất từ khi chỉ số này ra đời, giảm 55,4 điểm xuống 58 điểm (tương ứng với 48,8%) tính đến ngày 26/12. Thanh khoản thị trường ở mức rất thấp.

Năm 2022, mức lao dốc của TTCK Việt Nam tương tự. Tính tới 13/12/2022, chỉ số VN-Index mất 30,13%, trong khi HNX-Index mất tới 54,62% so với đầu năm 2022; mức lao dốc tệ nhất so với bất kỳ thị trường chứng khoán nào trong khu vực và thế giới. Mức mất điểm trên cả hai chỉ số này hoàn toàn tương đương với những gì đã xảy ra vào năm 2011.

Giải thích cho nguyên nhân TTCK lao dốc năm 2011 là do lãi suất tăng vọt để kiềm chế lạm phát. CPI cả năm 2011 tăng 18,58%.

Dòng tiền vào chứng khoán năm 2011 đã bị thắt chặt trước Thông tư 13 được ban hành trong năm 2010. Dòng tiền thậm chí bị thắt chặt hơn khi lạm phát tăng cao khiến lãi xuất vay vốn trong năm có lúc lên tới 22-25%. Không chỉ vậy, dòng tiền từ NHTM trở nên khan hiếm hơn khi NHNN có chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng phải cơ cấu lại tín dụng, giảm tỷ trọng cho vay phi sản xuất, trong đó có cho vay chứng khoán. Cụ thể, đến ngày 30/6 tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất so với tổng dư nợ tối đa phải là 22% và đến 31/12/2011 tối đa là 16%.

(7) Thị trường bất động sản đóng băng

Cũng giống như tình trạng của 2011, thị trường bất động sản (BĐS) 2022 bắt đầu đóng băng, giá cả giảm sâu (ở nhiều phân khúc) sau cú sốc về lãi suất và siết chặt tín dụng.

Thị trường BĐS vốn là thị trường phụ thuộc rất lớn vào dòng vốn vay. Khi lạm phát tăng, nợ xấu tăng thúc đẩy lãi suất (chi phí vốn) tăng vọt, dòng tiền đổ vào BĐS bị siết chặt khiến BĐS lập tức đóng băng. Thị trường BĐS bắt đầu dấu hiệu ấm lại sau 3 năm kể từ năm 2011, khi đó (2014-2015) lạm phát đã được kiềm chế, thị trường tiền tệ và vốn bắt đầu hoạt động hiệu quả hơn, dòng tiền mới M&A đã đổ vào thị trường BĐS và tạo ra các cơ hội mới cho thị trường này.

(8) Doanh nghiệp hết hơi

Năm 2011 chứng kiến sự phá sản và rời bỏ thị trường của hàng trăm nghìn doanh nghiệp khi chi phí vốn quá cao, tiêu dùng thắt chặt. Tại thời điểm cuối năm 2011, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ, nguyên Thống đốc NHNNVN Cao Sỹ Kiêm cho rằng có địa phương báo cáo số doanh nghiệp phá sản hiện nay của họ lên tới 40%, có địa phương báo cáo 50%.

Ông Kiêm giải thích: “Sản xuất của các doanh nghiệp này nói chung là đình trệ. Tất cả các yếu tố kinh doanh như tiếp cận vốn, tồn kho, lợi nhuận,… của doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng diễn biến theo chiều hướng xấu hơn”.

Lãi suất cho vay, theo ông Kiêm, dù đã giảm xuống còn 17-19%, nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận rất khó. "Lãi suất như thế chưa phải là giá vốn tốt, mà thực tế những doanh nghiệp tiếp cận được giá này cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay thôi", ông nói.

Năm 2022, tình trạng tương tự đang diễn ra. Theo các chuyên gia kinh tế, từ quý IV/2022 đến năm 2023 kinh tế sẽ rất khó khăn. Suy thoái kinh tế thế giới đã thấy rất rõ, lạm phát gia tăng đẩy nền kinh tế thế giới rơi vào nguy cơ trì trệ. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ trong nước đang gây khó khăn cho doanh nghiệp khi lãi suất ngân hàng rất cao, 'room' tăng trưởng dư nợ tín dụng ở ngân hàng cạn kiệt trong khi thị trường vốn dài hạn là trái phiếu doanh nghiệp bị ghẻ lạnh, làn sóng 'tháo chạy khỏi trái phiếu' (bond run) đang ngày một mạnh mẽ.

Đại diện một số doanh nghiệp cho biết, đơn hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp đã bắt đầu giảm từ cuối quý III. Đáng lo lắng hơn là đến quý IV/2022 rất ít doanh nghiệp nhận được đơn hàng mới cho năm 2023, trong khi những năm trước, thời điểm này, nhiều doanh nghiệp đã nhận được đơn hàng cho quý I, quý II năm sau.

Hiện có nhiều doanh nghiệp TP.HCM đang cắt giảm lao động. Cụ thể như: Công ty Tỷ Hùng ở quận Bình Tân cho 1.200 lao động nghỉ việc; Công ty TNHH Việt Nam Samho (huyện Củ Chi) cho 1.500 lao động nghỉ việc; hay 51 doanh nghiệp trong khu Chế xuất và Khu Công nghiệp giảm đơn hàng khiến gần 6.000 công nhân, lao động bị ảnh hưởng.

Không chỉ vậy, một doanh nghiệp khó khăn cũng lây lan rủi ro sang các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của nó. TS. Lê Xuân Nghĩa, Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, thành viên Ban Cố vấn kinh tế, cũng đặc biệt nhấn mạnh về tình trạng thiếu thanh khoản ở khu vực doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Biểu hiện là chiếm dụng vốn lẫn nhau, dòng tiền âm. Chiếm dụng vốn ở doanh nghiệp biểu hiện ở khoản nợ phải thu tăng vọt. TS. Lê Xuân Nghĩa đưa ra số liệu đáng kinh ngạc: "Riêng 6 tập đoàn lớn số vốn chiếm dụng lẫn nhau lên tới 200.000 tỷ đồng. Đáng nói, phần lớn vốn chiếm dụng này có nguồn gốc từ ngân hàng". Tức là, các doanh nghiệp lớn này đều sử dụng đòn bẩy cao ở các NHTM. Việc chiếm dụng vốn và không thể thanh toán cho nhau sẽ thúc đẩy nợ xấu ở các NHTM trước tiên.

NGUỒN TIN THAM KHẢO
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_T%E1%BA%A5n_D%C5%A9ng
https://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/10-su-kien-tai-chinh-ngan-hang-noi-bat-nam-2011-20111221031651161.chn
https://www.bvsc.com.vn/News/201211/187750/chung-khoan-nam-2011-thi-truong-lao-doc-niem-tin-sut-giam.aspx

1 nhận xét:

  1. Ai cung biet D/c X la nguoi ngu dot (vi khong duoc hoc hanh ,di len tu cccc nghe noi la con hoang cua ong can bo nao do ) moi toi loi do ngu dot cua D/C X co mot phan loi cua ong Vo van Kiet-la nguoi kien quyet dua D/C X len lam tt.

    Trả lờiXóa