Thứ Hai, 16 tháng 11, 2020

(1) Tại sao tôi vẫn hy vọng Trump sẽ thắng ?

Tại sao tôi vẫn hy vọng Trump sẽ thắng. Đó là vì ông nắm được Tối cao Pháp viện. Xem bài này để thấy rõ. Đây là phần 1.
Tối cao Pháp viện và bầu cử 2020
fb Đinh Từ Thức 16-11-2020 - Ngay từ tháng 9 năm 2020, chỉ năm ngày sau khi Thẩm phán Tối Cao Ruth Ginsburg qua đời, Trump đã nói trắng ra việc cần tới bàn tay Tối Cao Pháp Viện (TCPV) để phân xử kết quả bầu cử 2020. Ông viết trên Twitter ngày 23-9-2020: “Tôi nghĩ chuyện này (bầu cử) cuối cùng sẽ lên tới TCPV. Và tôi nghĩ về điều rất quan trọng là chúng ta có chín thẩm phán” (“I think this will end up in the Supreme Court. And I think it’s very important that we have nine justices”). Và như mọi người đã biết, với sự tận tình giúp đỡ của Nghị sĩ McConnell, trưởng khối đa số Cộng Hoà Thượng Viện, chỉ trong một tháng, Trump đã đưa được Thẩm phán Amy Coney Barrett vào TCPV.
Tổng thống Mỹ Donald Trump chúc mừng thẩm phán Tối Cao Pháp Viện  Amy Coney Barrett sau khi bà nhậm chức tại Nhà Trắng, Washington, hoa Kỳ, ngày 26/10/2020.
Sau khi có được thành phần đa số (6/3) các Thẩm phán Tối Cao (TPTC) do Cộng Hoà đề cử, ý tưởng đầu tiên của Trump khi thấy mình không nắm phần thắng sau ngày bầu cử, là cầu cứu TCPV. Giống người đi biển trước khi khởi hành đã thủ sẵn phao, khi bắt đầu thấy nguy, ý nghĩ đầu tiên là phao cứu nạn.

Vào 2:30 sáng Thứ Tư 4-11, tại Đông Phòng (East Room) ở Bạch Ốc, Trump đòi huỷ bỏ (dismissed) kết quả bầu cử vì gian lận (fraud), và nói ông muốn ngừng kiểm phiếu, để TCPV quyết định kết quả. Ông còn nói tiếp, nếu chỉ đếm phiếu hợp lệ, ông đã thắng rồi, trong khi vẫn đếm phiếu không hợp lệ, là để ăn cướp cuộc bầu cử.

Cho đến trưa Thứ Bảy, 7-11, tuy cuộc kiểm phiếu vẫn còn đang tiếp diễn, các cơ quan truyền thông lớn, kể cả Fox News vốn là cái loa của Trump, đã có đủ dữ kiện, cùng loan tin Biden-Harris đắc cử, Trump vẫn không chịu thua, nói bầu cử chưa hoàn tất, và sẽ nhờ Toà Án phân xử. Liệu TCPV sẽ trao cho Trump nhiệm kỳ 2, như tính toán của ông?

Trước khi bàn về thắc mắc trên, cũng nên nhìn lại vai trò TCPV trong mấy cuộc bầu cử với kết quả tranh cãi trong quá khứ. Chưa kể cuộc bầu cử 2020, cho đến nay, đã từng có bốn cuộc bầu cử rắc rối, xảy ra trong các năm: 1876, 1888, 1960, và 2000. Tất cả các tranh cãi và tai tiếng về kết qủa các cuộc bầu cử này, đều liên hệ tới thắng và thua của các ứng cử viên thuộc hai đảng Dân Chủ và Cộng Hoà.


Hiện nay, theo quan điểm đa số, Cộng Hoà chủ trương bảo vệ các giá trị truyền thống, bảo vệ quyền lợi của người giầu, da trắng, kỳ thị mầu da…, trong khi Dân Chủ sống chết với người da đen, tranh đấu cho quyền lợi của giới nghèo, chạy theo cái mới… Thật ra, đã có một thời, chủ trương của hai chính đảng Mỹ hoàn toàn trái ngược; Cộng Hoà, khởi đầu từ Lincoln, chủ trương giải phóng nô lệ, cho người da mầu được hưởng nhiều quyền lợi như bầu cử, bình đẳng, và hoà nhập với người da trắng. Trong khi ấy, Dân Chủ bào vệ quyền lợi của người da trắng, như giới chủ xí nghiệp tại mấy tiểu bang ở miền Bắc, những người không tích cực ủng hộ cuộc nội chiến, và chủ đồn điền, nguyên chủ nô lệ ở các tiểu bang miền Nam. Đảng Dân Chủ khá mạnh ở miền Nam, thường tìm đủ cách để đe doạ, gây khó dễ cho thành phần da đen mới được giải phóng sau nội chiến.

Cuộc bầu cử 7-11-1876:

– Ứng cử viên Cộng Hoà: Thống Đốc Ohio, Rutherford Hayes.

– Ứng cử viên Dân Chủ: Thống Đốc New York, Samuel Tilden.

– Cần tối thiểu 185 phiếu cử tri đoàn để thắng.

– Kết quả: Hayes thắng, tuy được ít phiếu hơn Tilden.

Sau lần kiểm phiếu đầu tiên, Tilden được 184 phiếu cử tri đoàn, chỉ còn thiếu một phiếu để đắc cử. Hayes được 165 phiếu, thiếu tới 20 phiếu. 19 trong số phiếu còn lại này thuộc về 3 tiểu bang miền Nam: Florida 4 phiếu, Louisiana 8, South Carolina 7. Một phiếu thuộc về tiểu bang Oregon phía Tây Bắc. Phiếu này lúc đầu trong tay một đại cử tri Dân Chủ, nhưng vì không hợp lệ, sau về tay Cộng Hoà, được trao cho Hayes.


Ngoài tin đồn cử tri Cộng Hoà bị các băng đảng phía Dân Chủ đe doạ, cản trở thành phần cử tri mới được giải phóng đi bầu, còn có những bằng chứng hiển nhiên, như số phiếu được kiểm ở South Carolina cao hơn tổng số cử tri 1%. Hoặc vào thời ấy, vì tỉ lệ người biết chữ còn thấp, trên phiếu bầu, ngoài tên ứng cử viên, còn kèm theo dấu hiệu, hình ảnh, để cử tri dễ nhận. Có nơi, phiếu của Dân Chủ đã in hình Abraham Lincoln, là biểu hiệu của Cộng Hoà, khiến nhiều cử tri bầu lầm. Các uỷ ban bầu cử tại ba tiểu bang Florida, Louisiana, và South Carolina, gồm thành phần đa số Cộng Hoà, đã loại nhiều phiếu bầu cho Dân Chủ, với lý do không hợp lệ, rồi trao tất cả phiếu còn lại cho Hayes, để Hayes đủ phiếu đắc cử.

Dân Chủ phản đối bầu cử gian lận. Người ủng hộ hai đảng xuống đường, một bên ăn mừng, một bên chống đối. Bạo động, đe doạ, đạn bắn vào nhà Hayes. Tổng Thống Grant sắp mãn nhiệm ra lệnh tăng cường quân đội bố trí quanh Washington D.C.

Nội vụ được đem ra giải quyết tại Quốc Hội, cũng vẫn bế tắc, vì Dân Chủ có đa số tại Hạ Viện, trong khi đa số Thượng Viện là Cộng Hoà. Không thể có đồng thuận cho một quyết định chung. Cuối cùng, để tránh một khủng hoảng Hiến Pháp chưa có tiền lệ, Quốc Hội đã thông qua một đạo luật vào ngày 27 tháng 1 năm 1877, thành lập Uỷ Ban Bầu Cử (Electoral Commission), gồm 15 người: Hạ Viện chọn 5 người, 3 Dân Chủ, 2 Cộng Hoà; Thượng Viện chọn 5 người: 3 Cộng Hoà, 2 Dân Chủ; Tối Cao Pháp Viện cử 5 Thẩm phán: 2 người do Cộng Hoà đề cử, 2 người do Dân chủ đề cử; bốn người này chọn người thứ năm, độc lập.


Khởi đầu, bốn thẩm phán chọn một người nổi tiếng về tinh thần độc lập, không thiên Dân Chủ hay Cộng Hoà, là Thẩm phán David Davis. Ông này từng là người điều khiển ban vận động tranh cử (campaign manager) của Tổng Thống Lincoln trong cuộc bầu cử 1860. Hai năm sau khi đắc cử, Lincoln đề cử ông vào TCPV.

Thẩm phán Davis được coi là người có tư cách độc lập, vì tuy là bạn và được Tổng Thống Cộng Hoà Lincoln đề cử vào TCPV, nhưng ông đã chống lại chính quyền Cộng Hoà qua vụ án nổi tiếng Ex parte Milligan. Trong vụ này, Milligan là một luật sư Dân Chủ, cùng với hai đồng bạn, đã bị toà án quân sự tại Indianapolis tuyên án tử bằng cách treo cổ, vì tội âm mưu và tham gia hoạt động phản loạn, chống chính phủ.

Vụ án cuối cùng lên TCPV. Ngày 3 tháng 4 năm 1866, Thẩm phán Davis viết quan điểm đại diện đa số. Ông cho rằng, toà quân sự chỉ có thể xét xử thường dân tại những khu vực chiến tranh, nơi toà án dân sự không hoạt động. Tuy vụ xử xảy ra vào thời nội chiến chưa kết thúc, nhưng Indiana là nơi không có chiến tranh, bắt và xử người dân ở đây tại toà quân sự, trong khi toà dân sự vẫn hoạt động, là vi phạm nhân quyền, trái hiến pháp.

Vai trò của David Davis trong Uỷ Ban Bầu Cử rất quan trọng. Trong số 14 thành viên của Uỷ Ban, 7 người Cộng Hoà, 7 người Dân Chủ. Người thứ 15 là Davis, ông này nghiêng bên nào, bên ấy thắng. Tiểu bang gốc của Davis là Illinois, cả thống đốc và đa số trong nghị viện là Dân Chủ. Được biết Davis vốn thích làm nghị sĩ hơn thẩm phán tối cao, Chính quyền Illinois bèn đề cử ông làm nghị sĩ (thời bấy giờ, nghị sĩ do chinh quyền tiểu bang đề cử, mãi đến 1913 mới do dân bầu), với hy vọng Davis sẽ biết ơn bằng cách bỏ phiếu ở Uỷ Ban Bầu Cử theo chiều hướng có lợi cho Tilden; ông này chỉ cần thêm 1 phiếu cử tri đoàn để thắng.

Nhưng chính quyền Dân Chủ của Illinois đã tính lầm. Ngay sau khi được đề cử làm nghị sĩ, Davis đã từ chức TPTC, ra khỏi Uỷ Ban Bầu Cử. Các Thẩm phán còn lại đều là Cộng Hoà, người được chọn thay thế Davis là TPTC Joseph Bradley. Khi biểu quyết về số phiếu cử tri đoàn bị tranh cãi, Bradley đều bỏ phiếu cùng phe với các thành viên Cộng Hoà, cho Hayes tất cả 20 phiếu. Kết quả, Tilden vẫn thiếu 1 phiếu cử tri đoàn, tuy đạt mức 50.92% và hơn Hayes 252.666 phiếu đại chúng, thất cử. Hayes thiếu 20, được thêm đúng 20, vừa đủ để thắng.

Hayes được tuyên bố đắc cử. Uỷ Ban Bầu Cử ngừng họp ngày 2 tháng 3. Hôm sau, Thứ Bảy 3-3, Hayes tuyên thệ trong vòng riêng tư, và chính thức tuyên thệ nhậm chức ngày Thứ Hai, 5-3-1877, thành tổng thống thứ 19 của Hoa Kỳ (Thời đó, lễ tuyên thệ được định vào 4-3, vì trúng ngày Chủ Nhật, nên chính thức cử hành vào Thứ Hai. Mãi đến thời Franklin Roosevelt, mới đổi lại là ngày 20 tháng 1).

Nhiều phiếu hơn đối thủ mà bị thua, Tilden không tỏ vẻ cay cú, tuyên bố: “Tôi có thể rời công vụ về hưu với ý thức rằng sẽ được hậu thế nhìn nhận là người đã được bầu vào địa vị cao cả nhất như là phần thưởng của dân chúng, mà không phải gánh những lưu tâm hoặc trách nhiệm gì với chức vụ”.

Sau đó, mọi việc đều yên ổn. Sở dĩ được như vậy, vì Cộng Hoà và Dân chủ đã đạt cược một thoả thuận ngầm, được gọi là Compromise of 1877: Dân Chủ chịu cho Hays làm tổng thống, bù lại, Cộng Hoà phải rút hết quân đội còn đóng tại hai tiểu bang Louisiana, và South Carolina, có nghĩa là chấm dứt thời kỳ tái thiết (Reconstruction) được thi hành tại các tiểu bang ly khai trước nội chiến. Kế hoạch này đặc biệt lo cho thành phần da đen mới được giải phóng sau nội chiến, cho họ được hưởng nhiều nhân quyền thể hiện qua Tu Chính HP 14, như quyền bầu cử, quyền bình đẳng, quyền an ninh bản thân…

Qua thoả hiệp ngầm này, Cộng Hoà đã bỏ rơi da đen, thành phần đã được Lincoln giải phóng, và trả giá bằng chính mạng sống mình, để Dân Chủ mặc tình tái lập chế độ kỳ thị ở miền Nam, bạc đãi da mầu; tuy trên chính thức, chế độ nô lệ đã bị huỷ bỏ. Phải đợi gần một thế kỷ nữa, và sau nhiều tranh đấu vất vả, chính Dân Chủ đã cải thiện đời sống của người da đen bằng các đạo luật dân quyền thời Lyndon Johnson, vào thập niên 1960.

Các sự việc nêu trên đã chứng tỏ, cả Cộng Hoà và Dân chủ, đều có lúc này, lúc khác. Chỉ là sự thay đổi theo thời gian, chẳng có gì vĩnh viễn. Ngay cả mầu sắc biểu hiệu cho hai đảng cũng từng đảo ngược. Theo tài liệu về Uỷ Ban Bầu Cử trên Wiki Commons, thì bản đồ chỉ kết quả bầu cử năm 1876, xanh là Cộng Hoà, đỏ là Dân Chủ.

Bầu cử năm 2000, mầu sắc đổi ngược, đỏ Cộng Hoà, xanh Dân Chủ. Như thế, chẳng đảng nào là giặc, chẳng đảng nào là kể thù của nước Mỹ. Họ đều là người Mỹ, yêu nước Mỹ. Chỉ bất đồng quan điểm. Những ai chụp mũ kẻ bất đồng với mình là giặc, chính họ nối giáo cho giặc.

Bầu cử 1888 và “ngũ nhân bang”

– Ứng cử viên Cộng Hoà: Benjamin Harrison, cựu Nghị Sĩ từ Indiana.

– Ứng cử viên Dân chủ: Grover Cleveland, NY, tổng thống tái ứng cử.

– Kết quả: Harrison đắc cử, tuy ít phiếu đại chúng hơn đối thủ.

Cuộc bầu cử diễn ra ngày 6 tháng 11 năm 1888. Đương kim Tổng Thống Cleveland của đảng Dân Chủ, gốc New York, tái tranh cử, đương đầu với cựu Nghị Sĩ Harrison thuộc Cộng Hoà, từ Indiana; là cháu của Tổng Thống thứ 9, William Harrison, vị tổng thống tại nhiệm đúng một tháng; tuyên thệ ngày 4 tháng 3 năm 1841, qua đời ngày 4 tháng 4 năm 1841. Về phiếu đại chúng, Cleveland hơn Harrison gần 100.000. Nhưng Harrison được nhiều phiếu đại cử tri hơn Cleveland, 233 so với 168, Harrison đắc cử, trở thành tổng thống thứ 23 của Hoa Kỳ.

Tai tiếng chính trong cuộc bầu cử này, là nạn mua bán phiếu. Năm 1888, Benjamin Harrison cử luật sư William Dudley ỏ Indianapolis làm Thủ quỹ đảng Cộng Hoà (Treasurer of the Republican National Committee). Ông này đã viết thư cho các chủ tịch đảng mỗi quận ở Indiana, chỉ thị cho họ chuẩn bị kế hoạch mua phiếu.

Hồi ấy, cử tri Mỹ bỏ phiếu công khai. Mỗi đảng in phiếu bầu có tên ứng cử viên của mình, rồi phân phối cho cử tri thuộc đảng mình mang đi bầu. Ngoài những cử tri bầu theo đảng, còn những cử tri không ràng buộc với đảng nào, gọi là cử tri “thả nổi” (floaters). Những người này có thể bán phiếu, bằng cách nhận tiền rồi bầu cho người được yêu cầu.

Theo chỉ thị của Dudley, mỗi địa phương thành lập nhiều nhóm, mỗi nhóm năm người (“Ngũ nhân bang – Blocks of Five), do một người hướng dẫn tin cẩn đưa họ đi bầu, và quan sát để biết chắc họ bầu đúng. Ngân quỹ đảng hứa cung cấp đầy đủ cho việc này. Không may cho Dudley, phía Dân Chủ nắm được văn thư với chỉ thị mật, đã cho phổ biến rộng rãi vào thời gian trước bầu cử.

Điều đáng ghi nhận, là trong khi vận động tranh cử năm 1888, ứng cử viên Cộng Hoà Harrison đã luôn đề cao sự quan trọng của bầu cử tự do và công bằng. Ví dụ, qua diễn văn ngày 22 tháng 2 năm 1888 tại bữa tiệc ở Michigan Club, Detroit, Harrison đã tuyên bố, ”một lá phiếu tự do và bình đẳng là bảo đảm duy nhất cho an ninh và trường tồn của Quốc Gia” (a free and equal ballot the only guarantee of the Nation’s security and perpetuity).

Dudley cũng nổi tiếng về thành tích tố cáo gian lận bầu cử về phía Dân Chủ. Dù có bằng chứng cụ thể là lá thư nêu trên, ông không nhận mình đã tổ chức mua phiếu. Harrison thắng tại tiểu bang nhà Indiana, nhưng dù không thắng ở đây, vẫn đủ phiếu cử tri đoàn để đắc cử. Cleveland nhiều phiếu đại chúng hơn Harrison, nhưng thua ở tiểu bang nhà New York. Cleveland chịu thua, không kiện tụng. Về phần Đệ Nhất Phu Nhân trẻ đẹp, kém chồng tới 27 tuổi, Frances Cleveland, khi dọn nhà, đã căn dặn gia nhân Bạch Ốc bốn năm sau sẽ trở lại.

Bốn năm sau, Cleveland tái tranh cử với Harrison. Lần này, Cleveland thắng, là tổng thống duy nhất có hai nhiệm kỳ không liên tục. Và Harrison là tổng thống duy nhất vừa là kế nhiệm, vừa là tiền nhiệm của Cleveland.

Vì tai tiếng trong cuộc bầu cử 1888, thủ tục bầu cử tại Mỹ đã thay đổi, từ bỏ phiếu công khai, sang bỏ phiếu kín như hiện nay, để tránh việc mua bán phiếu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét