Thứ Ba, 9 tháng 9, 2014

Áp lực nợ công tăng một cách đáng ngại

Các chuyên gia thường nhấn mạnh ba vấn đề: Thứ nhất là tốc độ tăng nợ vay cao, hiện đã đến mức vay để trả nợ, chứ không phải vay để sản xuất rồi bán đi lấy tiền trả nợ. Thứ hai là cơ cấu nợ, bởi vì trong nợ công của Việt Nam, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, nên áp lực trả nợ gay gắt và ngày càng tăng cao. Thứ ba là năng lực trả nợ của Việt Nam đã thực sự đáng báo động. Tôi thường nhấn mạnh điều đáng lo ngại hơn: Nợ cao mà chưa làm được gì đáng kể về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Các nước vay để làm cơ sở hạ tầng; khi đạt đến tỷ lệ nợ như ta thì họ đã có một nền tảng hạ tầng rất tốt để phát triển; còn ta thì đang ngổn ngang, loạn xạ, chất lượng không ra sao... Vay nợ để tiêu phá lung tung và tham nhũng thì kể cả khi tỷ lên nợ thấp, khả năng trả nợ cao... cũng không nên vay. Những năm 1990, 2000 các quan chức luôn khoe rằng "tỷ lên nợ thấp, khả năng trả nợ cao" nên tìm mọi cách vay để có cơ hội tham nhũng; hậu quả là nhưng gì chúng ta đang thấy ngày hôm nay: Đường xá cầu cống, cơ sở kinh tế lớn, hệ thống y tế, giáo dục, năng lực quản lý kinh tế... đều chẳng ra sao. Những yếu kém này sẽ phải 20-30 năm nữa mới có thể xử lý được nếu như chúng ta dũng cảm thừa nhận và bắt đầu sửa từ hôm nay.
Áp lực nợ công tăng một cách đáng ngại
Thanh Phương Theo đồng hồ nợ công toàn cầu (Global debt clock) của tạp chí The Economist công bốngày 20/08/2014 nợ công của Việt Nam hiện đã lên tới 83 tỷ đôla, tăng thêm 3 tỷ đôla trong vòng 5 tháng. Tính đổ đồng, mỗi người dân Việt Nam hiện nay gánh món nợkhoảng hơn 900 đôla.
Tại một ngân hàng ở Hà Nội ngày 18/08/2014. 
Nợ công của Việt Nam đang tăng nhanh một cách đáng ngại. Reuters

Theo lời bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng trả lời chất vấn ở Quốc hội gần đây, tỷ lệ chi tiêu nợ công trên GDP của Việt Nam vào năm 2013 là 53,4%, tức là vẫn còn dưới ngưỡng an toàn 65% theo khuyến cáo của các định chế tài chính quốc tế.

Đúng là nếu so sánh với nhiều nước khác, tỷ lệ nợ công của Việt Nam chẳng thấm vào đâu, chẳng hạn như tính đến năm 2014 nợ công của Nhật Bản lên đến 242% GDP, hay của Mỹ lên tới 107%. Nhưng cái chính không phải là ở tỷ lệ, mà là khả năng thanh toán và cơ cấu nợ công của quốc gia đó.

Mặt khác cũng cần phải thấy là nợ công chính thức của Việt Nam hiện nay chưa tính tới nợ của các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu tính đủ cả nợ doanh nghiệp Nhà nước thì mức nợ công này cao hơn rất nhiều. Chưa kể là có thể Việt Nam sẽ phải dùng ngân sách Nhà nước để trả những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước.

Chuyên gia kinh tế tế Lê Đăng Doanh, trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội, cũng cho rằng nợ công của Việt Nam đúng ra phải tính luôn cả nợ của các doanh nghiệp Nhà nước, mà Nhà nước sẽ phải gánh thay. Ông cho rằng áp lực nợ công của Việt Nam hiện đang gia tăng một cách đáng ngại :

“N công ca Vit Nam theo s liu chính thc do B Tài chính công b là vào khong 54 hay 56% GDP, như vy còn dưới ngưỡng an toàn 65% mà Ngân hàng Thế gin đnh. Tuy vVit Nam, s n ca các doanh nghip Nhà nước cho đến nay chưđược tính vào s n công ca Nhà nước.
S n ca các doanh nghip Nhà nước, theo các s liu do các chuyên gia đưa ra, là khong 51% GDP. Nếu cng vi s n công mà B Tài chính công b, thì tng s n công có th lênđến 106% hay 107% GDP. Như vy là nó vượt xa t l 65% ca Ngân hàng Thế gii.
Nếu như doanh nghip Nhà nước không tr n được - như trường hp Vinashin - Nhà nước phiđng ra tr n thay, bi vì Nhà nướđã đng ra bo lãnh, hay chính Nhà nướđã đi vay cho các doanh nghip này.
Đim th hai cũng cn phi thy rng tng s n công đã tăng lên mt cách nhanh chóng trong thi gian gđây và gánh nng tr n đã lêđến mc 25% tng s chi ngân sách. Đy là mt con s rđáng lo ngi.
Trong s n này, có s n trong nước do chính ph phát hành trái phiếu, mà trái phiếu trước kia do tình hình lm phát nên có lãi sut rt cao. Lãi sut này, nay cũng gim dn. Tuy vy s n phi tr trong nước cũng rt là ln và nghĩa v tr n trong năm 2014 cũng tăng rt mnh so vi năm 2013 và nhng năm trướđây. Cho nên, điđáng lo ngi là tđ tăng ca n công cũng như tđ tăng ca t l chi ngân sách đ tr n công."

Theo tường thuật của tờ VnEconomy, tại một cuộc tham luận vào trung tuần tháng 7 vừa qua, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, tiến sĩ Trần Đình Thiên đã nêu lên ba nguy cơ của nợ công Việt Nam:

Thứ nhất là tốc độ tăng nợ vay cao, hiện đã đến mức vay để trả nợ, chứ không phải vay để sản xuất rồi bán đi lấy tiền trả nợ. Thứ hai là cơ cấu nợ, bởi vì trong nợ công của Việt Nam, nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, nên áp lực trả nợ gay gắt và ngày càng tăng cao. Thứ ba là năng lực trả nợ của Việt Nam đã thực sự đáng báo động, với nghĩa vụ trả nợ năm 2014 đã vượt qua vạch đỏ (25% tổng thu ngân sách) và chắc sẽ còn tăng cao trong năm tới và có thể vượt qua ngưỡng mất an toàn là 30%.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng đặc biệt lưu ý về áp lực của các món nợ ngắn hạn đối với Việt Nam:
“ S n mà cho các chương trình h tr chính thc ODA cp thì có thi hn tr n dài, cómt thi gian ân hn cũng đáng k, thường là 5 năm và lãi sut thp. Cho nên, s n đó thìkhông đáng lo ngi. Đáng lo ngi là s n trái phiếu chính ph trong nước và s n vay thương mi như khon vay 750 triđôla năm 2005 đ mang v cp toàn b cho Vinashin và ln thhai là khon vay 1 t đôla năm 2010 cũng đưa v cho các tđoàn và doanh nghip Nhànước.

Chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, trả lời RFI từ Sài Gòn, cũng chia sẽ ý kiến nói trên của ông Lê Đăng Doanh :

“Dòng tiđược huy đng đ thanh toán nhng khon n gc và lãi cho nhng khon n ngn hn s táp lc mnh hơn là các khon n dài hn.  đây nó cũng th hin mđ ri ro còn rt cao ca Vit Nam. Nếu mt nước có mđ ri ro thp thì người ta có th vay được các khon vay dài hn vi lãi sut thp, còn Vit Nam thì phi vay ngn hn nhiu hơn và vi lãi sut cao hơn. Cũng ging như mt doanh nghip không có năng lc cao thì thường là các ngân hàng cho vay vi lãi sut cao và thi hn ngn.

Như tiến sĩ Lê Đăng Doanh có nói ở trên, tại cuộc họp báo của chính phủ ngày 28/08/2014, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Nguyễn Văn Nên xác nhận là chính phủ Việt Nam đang xem xét khả năng vay 1 tỷ đôla dưới hình thức phát hành trái phiếu quốc tể. Khoản vay này là nhằm để “đảo nợ”, tức là sẽ được dùng để trả một khoản vay trên dưới 1 tỷ đôla có lãi suất cao hơn nhiều. Theo bộ trưởng Nguyễn Văn Nên, như vậy số nợ không thay đổi nhưng lãi thì trả thấp hơn.

Theo chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, việc phát hành trái phiếu quốc tế để lấy tiền trả nợ là chuyện bình thường ở các quốc gia khác, nhưng điều đáng ngại ở Việt Nam là trong khi nợ công tăng thêm, thì hiệu quả sử dụng nợ lại giảm xuống:

“Các chính ph đu có xu hướng phát hành trái phiếđ huy đng ngun tin bên ngoài, cóth đ thc hiđu tư công, đu tư vào mt s d án nàđó, hoc là đ tr n. Cho nên vic phát hành trái phiếu là mt chuyn bình thường. Tuy nhiên, đi vi Vit Nam thì gđây rt nhiu chuyên gia cnh báo là tình hình n công đang tăng lên và hiu qu s dng n công cho vic phát trin kinh tế thì đang có xu hướng kéđi.

Tht ra cái viđi vay n đ phát trin kinh tế là điu tt. Thay vì nhn vin tr thì vay nth hin trách nhim ca mt nước s dng đng tiđó đ phát trin kinh tế. Nếu là vin tr cho không thì người ta xu hướng s dng vào nhng chuyn không hiu qu, còđi vay nthì người ta phi nghĩ đến chuyn tr n và như vy phđu tư vào nhng d án tt.
Thế nhưng tình hình  ca Vit Nam trong mt hai thp niên gđây là đu tư công kéđi hiu qu. Trên thc tế ta đã thy là có nhiu công ty Nhà nướđã mc n rt nhiu và lâm vào tình trng là do hođng không hiu qu nên không th tr được n đúng hn, nên Nhànước phđng ra tr n thay.

Quc hi và chính ph cũng đang c gng gim nhng khođu tư đó và kêu gi các tpđoàn Nhà nước nên tp trung vào nhng lĩnh vc chuyên bit ca mình hơn là đu tư dàn tri, như trường hp ca Vinashin.”

Đây là lần thứ ba trong vòng 9 năm qua, chính phủ Việt Nam phát hành trái phiếu quốc tế. Trước đây, năm 2005, chính phủ đã phát hành trái phiếu quốc tế tại thị trường chứng khoán New York, để vay 750 triệu đôla với kỳ hạn 10 năm. Số trái phiếu này sẽ đến hạn trả nợ gốc và lãi vào năm 2016. Tuy nhiên, do chính phủ cho Vinashin vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên và khoản vay đã không được sử dụng hiệu quả, nên Vinashin hầu như không có khả năng trả nợ cho chính phủ.

Đến năm 2010, chính phủ lại phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại Sở Giao dịch Chứng khoán Singapore. Số tiền này sau đó cũng được chính phủ cho một số tập đoàn kinh tế lớn như Dầu khí, Điện lực, Vinalines... vay lại. Tập đoàn Vinalines thì như đã biết, đang nợ hàng tỷ đôla không biết bao giờ mới trả xong.

Như vậy là sau khi đã vay nợ cho các tập đoàn Nhà nước làm ăn không hiệu quả, nay Nhà nước phải vay tiền coi như là để trả nợ thay cho các tập đoàn đó. Đối với tiến sĩ Lê Đăng Doanh, việc phải vay nợ mới để trả nợ cũ là một điều rất nguy hiểm đứng về mặt tài chính:
“Đó là mđiu rđáng lo ngi, tc là chính ph không th dùng tin ngân sách hay d trngoi t đ tr n, mà phi vay n mđ tr n cũ. Vic vay n này hin còn thun li vì lãi sut trên th trường thế gii thì thp. Gđây hãng Moodyđã nâng hng tín nhim tín dng và tài chính ca Vit Nam, cho nên vay k này s có lãi sut thp hơn so vi năm 2005.

Nhưng vic không tiđ tr mà phi vay n mđ tr n cũ là mt tín hiu rđáng lo ngiđi vi gii tài chính quc tế. Tôi nghĩ rng h s thương lượng mt lãi sut thế nàđđtrang tri cái ri ro y. H s có cáđánh giá rt là nghiêm túc.

Tại hội nghị về kế hoạch và đầu tư vào cuối tháng 8/2014, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố “Việt Nam dứt khoát không để vỡ nợ”. Nhưng tuyên bố của ông Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa trấn an được giới chuyên gia, như lời tiến sĩ Lê Đăng Doanh:

“Th tướng Nguyn Tn Dũng nhn mnh quyết tâm ca chính ph và tôi rt trân trng cái quyết tây. Tuy vy, th nht, chúng ta không có kh năng dùng tin tiết kim ca chúng ta, tin ngân sách thu được, mà li phi vay n mđ tr n cũ. Th hai, tình hình mt cânđi ngân sách ca chúng ta là khá nghiêm trng. Tôi nghĩ đó là mt vđ mà gii chuyên gia kinh tế và tài chính thc s quan ngi và đang bàn cách gii quyết, đ trong tương lai tránh vic vay n mđ tr n cũ.

Nếu tình trạng nợ công như hiện nay cứ tiếp diễn, liệu Việt Nam có nguy cơ bị vỡ nợ hay không? Đối với chuyên gia tài chính Huỳnh Bửu Sơn, để tránh nguy cơ đó, Việt Nam phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn Nhà nước và giảm bớt những dự án đầu tư công không cần thiết:

“Cho ti hin nay thì người ta chưa nghĩ đến vic Vit Nam v n ging như Hy Lp. Nhưng rõràng là cn phđiu chnh li hođng ca các tđoàn Nhà nước, cũng như phi gim bt các d áđu tư công quá tham vng và không hiu quđ có th bt nhng khon vay ca nước ngoài, cũng như là dành đng vn cho các d án có hiu qu hơn. Như vy s làm gim bt nguy cơ v n.

Tôi không nghĩ là chính ph chi tiêu nhiu, đây ch là s thiếu hiu qu trong viđu tư vào khu vc kinh tế Nhà nước. Nếđy nhanh tiến trình c phn hóa, nếu quyết tâm cu trúc li các tđoàn kinh tế, tp trung vào nhng lĩnh vc tht s có hiu qu, thì trong thi gian tiáp lc n công s gim nhiu.

Thi gian qua, chương trình c phn hóa, được tiến hành t cách đây hơn mt thp niên ri, nhưng còn rt chm và s hình thành các tđoàn Nhà nước ln thì càng ngày càng rõ nét hơn. Quc hi và chính ph cũng đã nhn thc là phi tiến hành rt nhanh vic c phn hóa các công ty Nhà nước, cũng như tái cu trúc nn kinh tế, phát trin hođng tư doanh, thìmi mong là tđ tăng trưởng kinh tế ca Vit Nam tăng lên và t đó gánh nng n công gim dn.”

T.P.
Nguồn: Viet.rfi.fr

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét