Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

(7) CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD

Do khó khăn, nhầm lẫn khi đưa lên Blog, có thể một số đoạn sẽ bị mất...
CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
     E) Quan hệ giữa các cân đối vĩ mô trong nền kinh tế
Trong các mục trên, chúng ta đã nghiên cứu các cân đối vĩ mô chính trong nền kinh tế. Mỗi cân đối tập trung cho một lĩnh vực cụ thể, đặc thù của nền kinh tế. Cân đối tài khoản quốc gia nhằm vào khía cạnh sản xuất và phân phối sản phẩm giữa các khu vực kinh tế khác nhau. Cân đối ngân sách - tài chính công - phân tích kinh tế các hoạt động của Nhà nước và ảnh hưởng của chúng tới toàn bộ nền kinh tế. Cân đối tiền tệ nêu ra các thành phần chính của hoạt động tiền tệ đối với các khu vực kinh tế chính và làm xuất hiện các trung gian tài chính đứng giữa các khu vực thừa và khu vực thiếu vốn. Cán cân thanh toán quốc tế cho phép phân tích các quan hệ giao dịch giữa nền kinh tế trong nước (gồm các đơn vị thường trú) và phần còn lại (gồm các đơn vị không thường trú - chủ yếu là nước ngoài).
Trong khi mỗi cân đối tập trung vào một khía cạnh đặc thù của nền kinh tế thì tất cả các cân đối trên đều có những phần tử chung và tồn tại những mối quan hệ phụ thuộc giữa các cân đối. Mục tiêu của phần này là nghiên cứu những đặc tính chung giữa bốn hệ thống cân đối tài khoản vĩ mô này và nhận dạng những liên hệ phụ thuộc tồn tại giữa chúng. Đây là nền tảng để thực hiện các phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, đồng thời cũng là cơ sở để hình thành các phương trình cơ bản trong mô hình kinh tế lượng vĩ mô.

Do mối liên hệ kinh tế vĩ mô rất phức tạp, dưới đây, chỉ xem xét những quan hệ vĩ mô lớn nhất thông qua ba tiếp cận liên quan đến cán cân thanh toán. Đó là tiếp cận hấp thụ, tiếp cận thuế (hay còn được gọi là cân bằng tiết kiệm - đầu tư) và tiếp cận tiền tệ.
1) Tiếp cận hấp thụ (absorption) của cán cân thanh toán quốc tế hay là quan hệ giữa các tài khoản quốc gia với cán cân thanh toán quốc tế
Các tài khoản quốc gia chứa đựng các hoạt động trao đổi giữa các khu vực trong nước với khu vực nước ngoài trong một tài khoản gọi là Phần còn lại. Về thực chất, tài khoản phần còn lại mô tả quan hệ giữa các đơn vị thường trú và các đơn vị không thường trú. Về nguyên tắc, tài khoản này là đồng nhất với các tài khoản trong bảng cán cân thanh toán quốc tế vì các tài khoản này là nguồn số liệu trực tiếp để xác định tài khoản phần còn lại.
Từ cân đối các tài khoản quốc gia trong phần đầu (cân đối nguồn - sử dụng), có thể suy ra hai quan hệ kế toán đóng vai trò trung tâm trong phân tích kinh tế vĩ mô, và xuất hiện trong hầu hết các mô hình kinh tế lượng phương tây: Một là quan hệ giữa thâm hụt (thặng dư) cán cân thanh toán vãng lai với chênh lệch giữa thu và chi trong cân đối tài khoản quốc gia, và hai là quan hệ giữa cùng chỉ tiêu trên với chênh lệch giữa tiết kiệm quốc gia và đầu tư.
Theo tiếp cận hấp thụ, xuất phát từ cân bằng kế toán giữa nguồn và sử dụng hàng hoá, dịch vụ, chúng ta có đồng nhất thức:
                     GDP + M = C + I + X
trong đó M là nhập khẩu, X là xuất khẩu, C là tiêu dùng cuối cùng và I là đầu tư. Theo cân đối tài khoản vĩ mô thì A = C + I, trong đó A là tổng cầu nội địa cuối cùng nên ta có:          GDP + M = A + X
hay:              GDP = A + (X - M)
tức là  GDP bằng tổng của cầu nội địa cuối cùng và chênh lệch xuất nhập khẩu phi nhân tố. Phương trình trên tương đương với:
                     GDP - A = X - M
tức là chênh lệch xuất nhập khẩu phi nhân tố bằng chênh lệch giữa GDP và cầu nội địa cuối cùng.
Thêm vào hai vế của đồng nhất thức trên chênh lệch trong - ngoài nước về thu nhập các nhân tố (tài khoản vốn) và cân đối chuyển giao vãng lai trong cán cân thanh toán, chúng ta có:
            GDP + RNF + TRN - A = (X-M) + RNF + TRN
trong đó RNF là thu nhập ròng các nhân tố, TRN là chuyển tiền vãng lai. Từ đây suy ra:
                               RNDB - A = CA
trong đó RNDB là thu nhập quốc gia sẵn có thô; CA là cân đối cán cân thanh toán vãng lai. Phương trình này tạo thành nền tảng của cái gọi là tiếp cận qua hấp thụ của cán cân thanh toán.
Theo các đồng nhất thức trên, tổng sản phẩm trong nước (GDP) luôn luôn bằng tổng của cầu nội địa cuối cùng (hấp thụ) với chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Cũng vì vậy, chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng chênh lệch giữa GDP và hấp thụ. Khi bổ sung các yếu tố còn lại trong cán cân thanh toán vãng lai, chúng ta thấy chênh lệch giữa thu nhập quốc gia sẵn có thô và hấp thụ chính là cán cân thanh toán vãng lai.
Về mặt phân tích kinh tế và xây dựng chính sách kinh tế, có thể giải thích các quan hệ trên như sau:
Đối với một nền kinh tế, mọi thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai đều phản ảnh hiện tượng hấp thụ (cầu nội địa cuối cùng) vượt quá thu nhập sẵn có đã được xác định, hay thu nhập sẵn có không đủ để đáp ứng cầu nội địa cuối cùng đã cho trước. Như vậy, những phi cân bằng cán cân thanh toán vãng lai có quan hệ chặt chẽ với chính sách kinh tế của đất nước; tức là để xử lý những phi cân bằng này, phải có những thay đổi trong chính sách kinh tế.
Do vậy, nếu một nước có vấn đề về cán cân thanh toán quốc tế, cần phải thực hiện một số chính sách mới. Những giải pháp có thể đưa ra để lựa chọn là:
- Hoặc phản ứng theo kiểu ngắn hạn, tức là tác động tới hấp thụ nội địa (thực chất là giảm tiêu dùng cuối cùng) bằng cách điều chỉnh các chính sách quản lý cầu theo hướng thắt chặt (được gọi là các chính sách kinh tế vĩ mô), nhất là các chính sách điều chỉnh kinh tế ngắn hạn rất công phát như chính sách tài chính, tiền tệ hoặc tỷ giá.
- Hoặc phản ứng theo kiểu trung và dài hạn, tức là tác động tới sản xuất để làm sao tăng được cung. Những chính sách quản lý cung (chính sách cơ cấu) điển hình là tự do hoá kinh tế, trước hết là giá cả, thị trường lao động, cải cách khu vực tài chính, tự do hoá các giao dịch ngoại hối... Chúng có tác dụng cải thiện hoạt động của các thị trường quan trọng nhất như hàng hoá và dịch vụ, lao động, tài chính, ngoại hối...
 Ngoài ra, có thể áp dụng chính sách tỷ giá tích cực để điều chỉnh giá tương đối giữa giá trong nước và giá nước ngoài theo hướng động viên xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Chú ý là nhiều khi chỉ bằng các điều chỉnh cơ cấu hoặc làm giảm các méo mó, lệch lạc trong môi trường đầu tư, cũng có thể làm cho nền kinh tế phát triển nhanh hơn, cải thiện được cán cân thanh toán vãng lai, mà không phải tăng vốn đầu tư.
2) Tiếp cận thuế hay tiếp cận tiết kiệm - đầu tư của cán cân thanh toán quốc tế
Quan hệ kế toán trung tâm thứ hai được xây dựng từ cân đối nguồn - sử dụng trong hệ thống tài khoản quốc gia. Cũng xuất phát từ đồng nhất thức:
                     GDP + M = C + I + X
nhưng chúng ta biến đổi phương trình như sau:
                     GDP - C - I = X - M
Phương trình trên cũng tương đương với:
                     Si - I  = X - M
trong đó Si là tiết kiệm nội địa thô (bằng tổng sản phẩm trong nước trừ tiêu dùng nội địa cuối cùng: GDP - C). Từ đây, chúng ta lại thấy chênh lệch giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư chính bằng chênh lệch giữa xuất và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ phi nhân tố.
Thêm vào hai vế của đồng nhất thức trên cân đối trong - ngoài nước về thu nhập các nhân tố và cân đối chuyển giao vãng lai trong cán cân thanh toán, chúng ta có:
            GDP + RNF + TRN - C - I  = (X-M) + RNF + TRN
tức là:           RNDB - C - I  =  CA
hay:              S - I  =  CA                                                          (1)
trong đó S là tiết kiệm quốc gia thô (S khác với Si ở chỗ đã tính thêm các yếu tố trong quan hệ với nước ngoài). Như vậy, cán cân thanh toán vãng lai (CA) bằng chênh lệch giữa tiếu kiệm quốc gia và đầu tư.
Nếu tách riêng các thành phần đầu tư, tiết kiệm của khu vực nhà nước (g) và khu vực tư nhân (p), chúng ta có:
                     (Sg + Sp) + (Ig - Ip) = CA
hay nếu nhóm các yếu tố theo cùng một khu vực:
                     (Sg - Ig) + (Sp - Ip) = CA                                   (2)
Hai công thức (1) và (2) được gọi là cân đối theo tiếp cận thuế hay theo tiếp cận tiết kiệm - đầu tư.
Lưu ý khu vực tư nhân được hiểu bao gồm các hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước đang hoạt động và các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước không được tính vào khu vực nhà nước.
Về mặt chính sách kinh tế, có thể minh hoạ những quan hệ này như sau:
Đối với một nước trong một thời kỳ nghiên cứu, nếu quan sát thấy có hiện  tượng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai, thì hiện tượng đó có thể là do tiết kiệm không đủ so với đầu tư đã xác định trước; hoặc có thể xem như đầu tư đã quá nhiều so với một mức tiết kiệm không thể thay đổi. Khi tách riêng khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, có thể chỉ ra mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư là do khu vực nào gây ra.
Khi đã xác định được quan hệ giữa thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai với chênh lệch tiết kiệm - đầu tư, có thể đề ra các chính sách kinh tế thích hợp để giải quyết tình hình. Một trong những giải pháp được ưa thích nhất là tăng tiết kiệm hoặc giảm đầu tư. Khi xảy ra trường hợp mất cân đối trong khu vực nhà nước hay tư nhân thì nên đề ra những giải pháp cho từng khu vực, tránh làm tràn lan, gây hậu quả không tốt cho nền kinh tế.
Một số trường hợp có thể xảy ra như sau:
Trường hợp 1: Thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai do khu vực công gây ra. Trong trường hợp này, quan hệ vĩ mô như sau:
                     (Sg - Ig) + (Sp - Ip)  =  CA
            với (Sg - Ig) < 0 ; (Sp - Ip) > 0 và CA < 0
  Trong trường hợp này, thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai phản ảnh thâm hụt của khu vực công cộng. Khi cùng xẩy ra 2 hiện tượng thâm hụt tài chính của khu vực công cộng và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai thì người ta gọi là "đôi thâm hụt" hay "thâm hụt kép". Đây là trường hợp phổ biến tại các nước đang phát triển. Do vậy, chính sách cần thiết để giảm thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai cũng chính là chính sách nhằm vào giảm thâm hụt tài chính công.
Tuy nhiên, thường diễn ra một quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. Một sự tăng lên của thâm hụt ngân sách thường kéo theo một sự giảm đầu tư tư nhân vì nhà nước sẽ tăng cường huy động vốn của khu vực tư nhân qua thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách chính phủ đã tăng lên quá mạnh. Đây là hiệu quả loại trừ rất nổi tiếng trong phân tích tài chính.
Mặt khác, nếu như khu vực kinh tế tư nhân dự báo thâm hụt ngân sách sẽ kéo dài, trách nhiệm trả nợ ngày càng cao, thì tỷ lệ thuế sẽ tăng; khi đó họ sẽ phải tăng tiết kiệm, giảm đầu tư. Đây là hiệu ứng cân bằng Ricardo, trong đó ông khảng định luôn tồn tại cân bằng giữa chi tiêu của nhà nước với thuế và vay vì mọi khoản nhà nước vay, suy cho cùng, sẽ đều phải được bù đắp bằng thuế trong thời kỳ sau. Do đó nếu hiện tại Nhà nước chi tiêu nhiều thì tương lai, gánh nặng thuế sẽ tăng.
Trong cả hai trường hợp trên, việc bù lỗ thâm hụt ngân sách được thực hiện bằng một trong hai, hoặc cả hai cách: tăng tiết kiệm của khu vực tư nhân so với đầu tư và chấp nhận thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Trong thực tế, các nước phương tây thường chọn giải pháp thứ hai để khuyến nghị các nước đang phát triển thực hiện. Đây cũng là điểm trung tâm trong chính sách ổn định kinh tế do các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế áp đặt đối với các nước đang phát triển trong các thập kỷ 70 và 80 của thế kỳ trước (và thực tế cho thấy chính sách này không thành công nên từ giữa thập kỷ 80, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế đã quay sang áp dụng chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế).
 Trường hợp 2: Thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai do khu vực tư nhân gây ra.
Trong trường hợp này, quan hệ vĩ mô như sau:
                     (Sg - Ig) + (Sp - Ip)  =  CA
            với (Sg - Ig) > 0 ; (Sp - Ip) < 0 và CA < 0
Trong trường hợp này, thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai phản ảnh thâm hụt của khu vực tư nhân. Tình hình này hiếm khi xảy ra trong một thời gian dài vì trên thị trường tài chính, không ai cho các cá nhân, doanh nghiệp  liên tục thâm hụt vay thêm. Đây là trường hợp đã xảy ra tại các nước Đông Á trong khủng hoảng tài chính năm 1997 vừa qua: Khu vực tư nhân vay nợ các ngân hàng Nhật quá nhiều, đến chỗ không thể trả được nợ, bị ngừng cho vay mới, và cuối cùng rơi vào khủng hoảng, kéo theo khủng hoảng của toàn nền kinh tế và khu vực châu Á.
Tuy nhiên, chính IMF đã sai lầm khi đưa ra liều thuốc chữa cho khủng hoảng kinh tế, tài chính Đông á. Vì khủng hoảng là do khu vực tư nhân gây ra, nên lẽ ra không nên kìm hãm hoạt động bình thường của khu vực công, chỉ cần cắt giảm các hoạt động của khu vực tư nhân là đủ. Nhưng trên thực tế, IMF đã chủ trương thực hiện cắt giảm hoạt động của cả hai khu vực, đẩy các nền kinh tế trong khu vực Đông Á vào hoàn cảnh khó khăn hơn. Bình thường, khu vực tư nhân thường giúp khu vực công bù đắp thâm hụt ngân sách; nên những khi khu vực tư nhân gặp khó khăn thì chính khu vực công phải dùng dự trữ quốc gia để hỗ trợ cho khu vực tư nhân.
3) Tiếp cận tiền tệ của cán cân thanh toán quốc tế thông qua quan hệ giữa tình hình tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế và các tài khoản kinh tế vĩ mô
a) Hệ thống tài khoản quốc gia và tài chính công
Hai hệ thống này có đặc điểm chung là cùng có khu vực Nhà nước; tuy nhiên, định nghĩa khu vực này trong hai hệ thống tài khoản cũng có điểm khác nhau. Hệ thống tài khoản quốc gia sử dụng định nghĩa theo hướng thể chế trong khi thống kê tài chính công sử dụng định nghĩa theo hướng chức năng. Do vậy, nếu các hoạt động của Nhà nước có chức năng khác với các chức năng đã xác định trong định nghĩa khu vực công, thì loại bỏ chúng khỏi phạm vi bao quát của khu vực công.
Định nghĩa khu vực công theo chức năng được thừa nhận rộng rãi là: Khu vực công gồm các đơn vị có chức năng chính là thực thi chính sách của Chính phủ bằng cách cung cấp các dịch vụ không phải hàng hoá chủ yếu dành cho tiêu dùng tập thể và bằng cách thực hiện các điều tiết thu nhập; các hoạt động này chủ yếu được tài chính qua thu ngân sách đánh vào các khu vực khác.
Do vậy, các hoạt động hàng hoá phải được loại bỏ hoặc xử lý ròng trong thống kê tài chính công...
......
b) Thống kê tài chính công và cán cân thanh toán quốc tế
Tất cả các giao dịch của khu vực nhà nước với bên ngoài (đơn vị không thường trú) đều được thống kế trong cân đối tài chính công và trong cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Các giao dịch chung phổ biến nhất là vay nước ngoài của chính phủ, thanh toán lãi và vốn đến hạn của các khoản nợ công, nhận viện trợ không hoàn lại từ nước ngoài.
Thời điểm ghi các giao dịch phải thống nhất trong 2 loại thống kê; nếu xuất hiện các khoản thanh toán trễ hay thu trễ thì chúng đều phải được thể hiện giống nhau trong 2 hệ thống bảng.
c) Quan hệ giữa tình hình tiền tệ và các tài khoản vĩ mô khác


d) Tiếp cận tiền tệ của cán cân thanh toán quốc tế
Đây là tiếp cận tiền tệ của cán cân thanh toán quốc tế; cách làm tương đối đơn giản, số liệu tương đối dễ kiếm và thu thập nhanh, do đó các mô hình kinh tế lượng dựa trên tiếp cận này rất phát triển trong những năm 50-70; điển hình là mô hình Polak, Rim-Sim. Tiếp cận này cho phép thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa biến động của tài sản ngoại tệ ròng (DAEN) và chênh lệch giữa thay đổi của cầu tiền tệ (DM2d) và thay đổi của tín dụng nội địa (DCIR). Giả thiết đặt ra cho mô hình này là một nền kinh tế nhỏ, mở với chế độ tỷ giá cố định.
Tình hình tiền tệ có thể được công thức hoá trên cơ sở loại bỏ mục các khoản khác ròng, khi đó, chúng ta thiết lập 3 quan hệ sau:
- Từ quan hệ trong bảng tình hình tiền tệ (tổng có bằng tổng nợ), ta có phương trình:
                               M2 = AEN + CIR
hay                        DM2 = DAEN + DCIR
hay                        DAEN =  DM2 - DCIR
Nếu chúng ta cho rằng biến động của khối lượng tiền tệ (DM2) được xác định qua biến động của cầu tiền tệ, thì có thể thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa biến động của tín dụng (DCIR) và cân đối tổng thể của cán cân thanh toán quốc tế (DAEN), trong đó biến động của tín dụng phản ánh chính sách tín dụng, còn cân đối tổng thể của cán cân thanh toán quốc tế là mục tiêu hướng tới của chính sách này.
Nói chính xác hơn, cân đối tổng thể của cán cân thanh toán quốc tế sẽ dương nếu biến động của tín dụng cho nền kinh tế thấp hơn biến động của khối lượng tiền tệ. Về mặt chính sách kinh tế, việc khôi phục cân bằng cán cân thanh toán quốc tế sẽ đòi hỏi phải áp dụng một trần tín dụng nội địa.
- Mặt khác, giả thiết rằng cầu tiền tệ (theo nghĩa cầu thực, tức là khối lượng tiền danh nghĩa được chia cho chỉ số giá, gọi là M2d) là hàm của một số hạn chế biến các giải thích, gồm ít nhất là thu nhập thực (biến quy mô, quan hệ dương) và lãi suất danh nghĩa (biến chi phí cơ hội, quan hệ âm). Đây là quan hệ do M. Friedman đề xướng, S. Fischer phát triển. Khi đó có thể đơn giản hoá quan hệ này bằng cách ước lượng một phương trình sau:

trong đó k là hệ số lưu thông tiền tệ (ngược với tốc độ quay vòng của tiền tệ). Chuyển sang biến gia tăng, chúng ta có:
- Cân bằng trên thị trường tiền tệ là cân bằng giữa cung tiền tệ (M2) và cầu tiền tệ (M2d):
                               M2 = M2d
hay:                       DM2  = DM2d
thay quan hệ xác định ở trên vào phương trình thì thu được:
                      DAEN  =  DM2d  -   DCIR
trong đó DAEN là mục tiêu của chính sách tiền tệ khi nền kinh tế thường xuyên trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế; DM2d là nhân tố đã cho, xác định trước hoặc cố định; và DCIR là công cụ của chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Quan hệ trên cho biết mọi sự tăng lên của tài sản ngoại tệ ròng (tức là có thặng dư cán cân thanh toán vãng lai), đều gắn liền với biện động của tín dụng nội địa thấp hơn biến động của tổng khối lượng tiền tệ. Đây là tiếp cận tiền tệ của cán cân thanh toán. Theo tiếp cận này, việc lập lại cán cân thanh toán quốc tế đòi hỏi phải thiết lập trần tín dụng.
4) Ba sơ đồ quan hệ giữa các tài khoản vĩ mô và bảng các luồng kinh tế và tài chính.
Bảng quan hệ giữa các tài khoản kinh tế vĩ mô được xây dựng từ các khu vực chính của nền kinh tế bằng cách phân chia các hoạt động của chính thành các hoạt động tài chính và các hoạt động phi tài chính. Trong mỗi bảng, tổng tất cả các dòng, các cột đều bằng không. Các bảng này cho phép:
- Tách các phi cân bằng do những hoạt động phi tài chính của mỗi khu vực, cũng như những phi cân bằng toàn cục của các hoạt động này.
- Lập ra phương thức xử lý những mất cân bằng do khu vực phi tài chính bằng các hoạt động tài chính, và giải thích tại sao (tức là bằng các công cụ gì) các khu vực thừa vốn có thể đem tiết kiệm của mình cho các khu vực thiếu vay.
- Làm rõ những cơ chế truyền tác động của các chính sách tài chính (các biến chính sách tài chính nằm trong nửa dưới các bảng: Các hoạt động tài chính) tới các biến thực của nền kinh tế như GDP, tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu, nhập khẩu (các biến này nằm trên nửa trên của bảng: khu vực các hoạt động phi tài chính) trong bối cảnh của kinh tế thị trường.
Các phiên bản khác nhau của cùng một bảng nguyên tắc trên được dùng để minh hoạ ba cách tiếp cận cán cân thanh toán quốc tế như đã trình bày ở trên. Trong thực tệ, không phải các số liệu lúc nào cũng hoàn toàn khớp nhau do cách định nghĩa khác nhau và sai số thống kê. Do vậy, nên chọn những số liệu được dánh giá là tốt nhất và thực hiện các giải pháp hài hoà số liệu khi chúng không khớp nhau, nhưng luôn luôn chú ý rằng sai số sẽ ảnh hưởng tới các dòng khác trong bảng. Việc xây dựng và hoàn thiện dần những bảng này qua nhiều năm liên tiếp sẽ cho phép có được cái nhìn toàn cục về tiến triển của những phi cân bằng kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế cụ thể.
Dưới đây là ba sơ đồ quan hệ giữa các tài khoản vĩ mô và bảng các luồng kinh tế và tài chính mô tả ba cách tiếp cận trên.
Sơ đồ thứ nhất:
Sơ đồ thứ hai:
Sơ đồ thứ ba:

(những sơ đồ này được vẽ bên ngoài, không nằm trong trong bản word này nên nay không còn).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét