CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
C) Dự báo cân bằng tiền tệ:
Công thức thường được sử dụng để ước lượng cầu tiền tệ, nhất lại tại các nước công nghiệp, như sau:
Trong ước lượng thực nghiệm hàm cầu tiền tệ trên, người ta thường giả thiết phương trình kinh tế lượng thực nghiệm có dạng logarit như sau:
Về mặt toán học, nếu gọi ir là lãi suất thực, phương trình ước lượng hàm cầu tiền tệ thực theo nghĩa rộng nêu trên trở thành:
Nếu gọi MOD là khối lượng mong muốn, MO là khối lượng quan sát thực tế của chỉ tiêu gộp tiền tệ tính theo giá trị danh nghĩa, thì chúng ta sẽ thu được phương trình quan hệ sau:
Nếu thay log(MOD/P) được định nghĩa trong phương trình nêu ở đầu mục vào phương trình này thì ta có:
Để quá trình ước lượng hồi quy thuận lợi, người ta thường đưa về dạng sau:
trong đó:
Các tài khoản tiền tệ gồm các tài sản
ngoại tệ ròng, tín dụng nội địa, khối lượng tiền tệ và các mục khác ròng. Việc
dự báo các tài sản này được xử lý trong khung cảnh chung của dự báo các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô khác. Để đảm bảo tính tin cậy của các dự báo tiền tệ, cần
phải tính đến các nhân tố khác như tương lai của cán cân thanh toán quốc tế,
khả năng cân đối tài chính công, mục tiêu đặt ra đối với dữ trữ quốc tế, như
cầu tín dụng cho khu vực tư nhân, các khả năng tiếp cận thị trường vốn bên
ngoài và lãi suất phải trả khi vay vốn trên thị trường vốn quốc tế...
Để dự báo các chỉ tiêu tiền tệ, cần
phải dựa trên phương trình kế toán tổng quát về tiền tệ nhằm đảm bảo sự khớp
nhau giữa các chỉ tiêu tiền tệ cần dự báo, giữa các tài khoản tiền tệ với các
tài khoản cán cân thanh toán quốc tế, các tài khoản tài chính công và các tài
khoản hạch toán quốc gia nêu trong các mục trên.
Phương trình kế toán cơ bản để cân đối
hệ thống tiền tệ là:
M2
= AEN + CNE + CSP - APN
trong đó:
M2 là tổng lượng tiền tệ (tiền và tiền
gần như tiền)
AEN là tài sản ngoại tệ ròng,
CNE là tín dụng ròng cho Chính phủ
CSP là tín dụng ròng cho khu vực tư
nhân
APN là mục còn lại (ròng)
Mục tiêu đề ra là phải dự báo các
thành phần của phương trình trên bằng cách sử dụng các phương pháp khác nhau,
kể cả các phương pháp áp dụng để dự báo các chỉ tiêu của các cân bằng khác.
Một khi đã đã dự báo (hoặc đã xác định
trước thành các mục tiêu) các chỉ tiêu liên quan như giá cả, tổng sản phẩm
trong nước, các tài sản ngoại tệ ròng..., đồng thời các chỉ tiêu tiền tệ gộp
cũng đã được dự báo, người ta có thể đưa ra và chọn lựa một số giả thuyết hợp
lý nhất về biến động của mục còn lại trong cân bằng tiền tệ (APN) để trên cơ sở
đó xác định tổng tín dụng nội địa (CIR=CNE+CSP) tương thích với các mục tiêu
định trước và hành vi mong đợi của công chúng.
Tiếp đó, cần phải kiểm tra để đảm bảo
tất cả các dự báo hợp thành một kịch bản dự báo khớp nhau. Ví dụ, cần đảm bảo
tín dụng ròng cho nhà nước và tín dụng cho nền kinh tế phải có tính hiện thực,
có tính đến dự báo nhu cầu tài chính của nhà nước và của khu vực tư nhân cũng
như các dự báo về tăng trưởng sản xuất. Nếu cần, sẽ thực hiện lại các dự báo
theo nhiều vòng lặp để đảm bảo sự khớp nhau của tổng thể các dự báo kinh tế vĩ
mô.
1)
Dự báo các chỉ tiêu gộp tiền tệ:
Các cam kết (nợ) của hệ thống ngân
hàng đối với khu vực tư nhân (thể hiện qua các khoản tiền trong lưu thông, tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm) được gọi chung là
các chỉ tiêu gộp tiền tệ. Các chỉ tiêu gộp tiền tệ này có đối trọng là tín dụng
và dự trữ quốc tế của hệ thống ngân hàng.
Các chỉ tiêu gộp tiền tệ có vai trò
rất quan trọng trong việc xác định các biến kinh tế vĩ mô như lạm phát hay dự
trữ quốc tế thô... Hai chỉ tiêu lạm phát và dự trữ quốc tế thô còn được xem là mục tiêu cuối cùng của chính sách kinh
tế.
Để đạt được một số mục tiêu cuối cùng
đề ra, cần phải có sự phối hợp hài hoà giữa chúng. Thông thường các nhà lãnh
đạo phải cố định đối với mỗi khía cạnh riêng của chính sách kinh tế (chính sách
tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá), một hoặc một số mục tiêu trung gian gắn kết với mục tiêu cuối cùng
theo phương thức ổn định và dự báo được.
Tiếp đến, để đạt được một số mục tiêu
mục tiêu trung gian này, các nhà lãnh đạo sẽ sử dụng một số công cụ nhằm tác
động tới các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô gộp liên quan. Các công cụ chỉ có một quan
hệ gián tiếp tới các mục tiêu cuối cùng song lại có quan hệ chặt chẽ với các
mục tiêu trung gian.
Dưới đây là phương pháp dự báo một số
chỉ tiêu gộp tiền tệ chính.
a) Cung và cầu tiền tệ
Phân biệt giữa cung và cầu tiền tệ có
vai trò rất cơ bản trong nghiên cứu tiền tệ vì nó cho phép hiểu các nhân tố xác
định các chỉ tiêu gộp tiền tệ, từ đó có thể dự báo chúng.
Cần hiểu có sự khác nhau rất lớn giữa
thị trường tiền tệ và các thị trường khác. Ngược với hầu hết các loại hàng hoá
và dịch vụ, cung và cầu tiền tệ không cùng hướng vào một đối tượng. Hoạt động
của Ngân hàng trung ương và các trung gian tài chính chỉ ảnh hưởng tới tổng
lượng tiền tệ danh nghĩa, trong khi cầu tiền tệ của các tác nhân kinh tế lại
được đánh giá theo giá trị thực (đã
trừ yếu tố tăng giá) của số tiền đang tồn tại trong nền kinh tế.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị
trường, các chỉ tiêu gộp tiền tệ theo giá trị thực, kể cả tiết kiệm tài chính
thực và khối lượng tín dụng thực trong kỳ, đều được xác định qua cầu của các
tác nhân kinh tế.
Khối lượng tiền tệ thực là lượng tiền
được các tác nhân kinh tế giữ một cách tự do; các nhà lãnh đạo tiền tệ không
thể làm tăng nó một cách đơn giản, ví dụ thông qua tăng tổng cung tiền tệ danh
nghĩa (trên thực tế, các nhà lãnh đạo tiền tệ vẫn có thể làm tăng tạm thời mức
thực của các chỉ tiêu gộp tiền tệ, khi mà việc tăng danh nghĩa chưa được chuyển
thành tăng giá, hoặc khi các tác nhân kinh tế dự báo việc tăng giá không ảnh
hưởng đáng kể tới số tiền đang có danh nghĩa.
Do vậy, chính sách tiền tệ chỉ có thể
có tác động gián tiếp tới các độ lớn thực của các chỉ tiêu gộp tiền tệ; tức là
chỉ có thể tác động nhằm vào các nhân tố ảnh hưởng tới việc ra quyết định của
các tác nhân kinh tế khi liên quan tới tài sản tiền tệ thực của họ.
Vì chính các tác nhân kinh tế sẽ là
người xác định các giá trị thực của các chỉ tiêu tiền tệ, việc dự báo các chỉ
tiêu gộp tiền tệ trở thành dự báo hành vi của các tác nhân này.
Trong báo cáo này, để thuận tiện cho
người đọc, chỉ xin giới thiệu hai phương pháp khá đơn giản để dự báo các chỉ
tiêu gộp tiền tệ. Phương pháp thứ nhất dựa trên hàm cầu tiền tệ, được xây dựng
từ các phương trình kinh tế lượng. Phương pháp thứ hai dựa trên phân tích và
ngoại suy các hành vi gần của các tác nhân kinh tế liên quan đến số tiền thu được
của họ và trình độ phát triển của các thể chế tài chính cũng như phương thức
thanh toán, ví dụ như xu hướng của tốc độ lưu thông tiền tệ.
b) Phương pháp dựa trên hàm cầu tiền
tệ:
Dự báo khối lượng tiền tệ dựa trên ước lượng
nhu cầu tiền tệ xuất phát từ giả thuyết cho rằng có thể mô tả hành vi của các
tác nhân kinh tế liên quan đến số tiền thu được của họ thông qua một hàm số với
không nhiều biến.
Công thức thường được sử dụng để ước lượng cầu tiền tệ, nhất lại tại các nước công nghiệp, như sau:
trong đó: MOD là cầu tiền tệ danh nghĩa;
P
là mặt bằng giá (chỉ số giá);
i
là lãi suất danh nghĩa.
Trong ước lượng thực nghiệm hàm cầu tiền tệ trên, người ta thường giả thiết phương trình kinh tế lượng thực nghiệm có dạng logarit như sau:
với
: a1 ³ 0 ;
a2 £ 0
Các
hệ số trong phương trình trên có ý nghĩa như sau:
- a1
là hệ số co dãn thu nhập của cầu tiền tệ;
- a2
là hệ số nửa co dãn lãi suất của cầu tiền tệ;
- a0
là hằng số.
Về
nguyên tắc, nhận dạng này đối với hàm cầu tiền tệ chỉ có thể được áp dụng cho
các chỉ tiêu gộp tiền tệ gồm các tài sản tài chính không phải trả lãi vì lãi
suất danh nghĩa trong phương trình phản ánh chi phí cơ hội của tiền tệ đối với
các tài sản tài chính. Các chỉ tiêu gộp tiền tệ theo định nghĩa rộng hơn, ví dụ
như tổng cam kết của hệ thống ngân hàng với khu vực tư nhân, chủ yếu là các chỉ
tiêu gồm các tài sản tài chính phải trả lãi. Do vậy, trong trường hợp này lãi
suất danh nghĩa không đại diện cho chi phí cơ hội của việc giữ các tài sản này.
Trong
nhiều nước đang phát triển, tài sản tài chính của khu vực công chủ yếu được
hình thành từ cam kết của hệ thống ngân hàng đối với khu vực tư nhân. Thị
trường tài chính tại đó còn kém phát triển và chỉ có hệ thống ngân hàng (đôi
khi thêm cả Kho bạc) có đủ uy tín để phát hành trái phiếu. Trong trường hợp
này, lãi suất thực (được định nghĩa là chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa và
tỷ lệ lạm phát) được sử dụng trong nghiên cứu thực nghiệm với tư cách là biến
thay thế để đo lường hiệu quả của việc giữ các tài sản tài chính so với hiệu
quả của việc giữ các tài sản thực (vàng, bất động sản và các hàng lâu bền), vốn
được xem như các dạng bảo quản giá trị tài sản khác ngoài hình thức tiền tệ. Do
vậy, lãi suất thực có tác động tích cực tới cầu tiền tệ theo nghĩa rộng.
Phân
tích đối với các nước đang phát triển trên đây được xây dựng với giả định thị
trường tài chính ở đó kém phát triển. Người tiết kiệm điển hình chỉ có một
trong hai cách để lựa chọn: hoặc gửi tiền tại hệ thống ngân hàng, hoặc giữ các
tài sản thực. Lãi đối với các tài sản thực được đo theo phương pháp xấp xỉ,
trung bình bằng tỷ lệ lạm phát. Trong một số trường hợp, người ta ước lượng hàm
cầu tiền tệ bằng cách sử dụng chỉ tiêu tổng lượng tiền mặt hơn là tiền M1 hoặc
M2 làm biến phụ thuộc.
Về mặt toán học, nếu gọi ir là lãi suất thực, phương trình ước lượng hàm cầu tiền tệ thực theo nghĩa rộng nêu trên trở thành:
với
: a1 ³ 0 ;
a2 £ 0
Các
hệ số trong phương trình trên có ý nghĩa như sau:
- a1'
là hệ số co dãn thu nhập của cầu tiền tệ;
- a2'
là hệ số nửa co dãn lãi suất thực của cầu tiền tệ;
- a0'
là hằng số.
Chuỗi
các lãi suất thực có thể bao gồm các giá trị âm, tức là không lấy logarit được.
Trong trường hợp như vậy, người ta không thể ước lượng được hệ số co dãn mà chỉ
ước lượng được hệ số nửa co dãn, tức là hệ số a2' phản ánh khi lãi
suất thực tăng, giảm 1 điểm phần trăm thì thu nhập tiền tệ thực tăng bao nhiêu
phần trăm.
Nhìn
chung, người ta còn phải biến đổi các phương trình nêu trên để tính đến một số
đặc trưng cơ cấu xuất hiện khi bổ sung chi phí thông tin và chi phí giao dịch
khá cao. Do chi phí cao nên có thể các tác nhân kinh tế phải giảm tốc độ điều
chỉnh tài sản của mình theo nhu cầu mong muốn. Điều này có nghĩa là, lúc đầu,
sẽ có thể xảy ra tình trạng mất cân bằng giữa khối lượng tiền tệ gộp mong muốn
và khối lượng quan sát được. Hai chỉ tiêu này sẽ chỉ tiến lại gần nhau trong
thời kỳ trung hạn. Ví dụ mô hình điều chỉnh từng phần thường sử dụng đã đặt ra
giả thuyết là điều chỉnh trong một thời kỳ đã cho bằng một tỷ lệ B nào đó của
mức điều chỉnh mong muốn.
Do
vậy, sử dụng mô hình chữa sai số (error correction model) sẽ cho phép tính đến
thời gian chậm trong điều chỉnh của thị trường tiền tệ.
Nếu gọi MOD là khối lượng mong muốn, MO là khối lượng quan sát thực tế của chỉ tiêu gộp tiền tệ tính theo giá trị danh nghĩa, thì chúng ta sẽ thu được phương trình quan hệ sau:
trong
đó 0 < B £ 1
Phương
trình này cũng tương đương với phương trình sau:
Nếu thay log(MOD/P) được định nghĩa trong phương trình nêu ở đầu mục vào phương trình này thì ta có:
Để quá trình ước lượng hồi quy thuận lợi, người ta thường đưa về dạng sau:
trong đó b0=Ba0'
; b1=B a1' ; b2 = Ba2' ; b3 = 1 - B.
Sau khi ước lượng được các hệ số b0,
b1, b2, b3 trong phương trình này, người ta sẽ
thay trở lại để giải ra các hệ số B, a0', a1', a2',
a3'... Ví dụ vì b3 = 1 - B nên sau khi ước lượng phương
tình, có thể tính được B = 1 - b3 ...
Như vậy, với các kết quả ước lượng,
chúng ta có các phương trình, trên cơ sở đó có thể dự báo được các chỉ tiêu gộp
tiền tệ cần dự báo.
Trước khi sử dụng các ước lượng hàm
cầu tiền tệ để dự báo các chỉ tiêu gộp tiền tệ của một nước cụ thể, điều cần
thiết và không thể bỏ qua là phải đánh giá tính ổn định theo thời gian của các
mối liên hệ tồn tại giữa các chỉ tiêu gộp tiền tệ này và các biến giải thích
chúng. Mặt khác, cũng cần xây dựng các dự báo liên quan đến các biến giải thích
giữ lại trong phương trình, như tổng sản phẩm trong nước, lãi suất, tỷ lệ lạm
phát...
Việc chọn chỉ tiêu gộp tiền tệ theo
định nghĩa nào thường gắn với chỉ tiêu có mối quan hệ ổn định nhất với các biến
giải thích. Ngoài ra, còn có một số phương pháp khác tinh vi hơn, trong đó chú
ý đến những sự kiện gần nhất hoặc chú ý đến thay đổi cơ cấu nhanh hơn. Một
trong các phương pháp loại này là phương pháp trượt hồi quy, cho phép chữa các
kết quả thu được trên cơ sở đưa vào những thông tin mới.
Để chọn chỉ tiêu gộp, cần xuất phát từ
nguyên tắc theo đó cầu tiền tệ theo định nghĩa đã chọn phải ổn định vì các tác
nhân kinh tế luôn cho rằng tài sản hợp thành chỉ tiêu gộp tiền tệ có thể được
chuyển đổi dễ dàng từ loại này sang loại khác, tuy nhiên không chuyển sang các
loại tài sản tài chính khác.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu gộp tiền tệ có
thể gồm tài sản tài chính của nước khác. Ví dụ nếu giá trị tương lai của đồng
tiền quốc gia không chắc chắn có lợi, các tác nhân kinh tế có thể giữ tiết kiệm
của mình bằng ngoại tệ. Nếu giữ bằng tiền Mỹ, thì đó có thể được coi là tài sản
của Mỹ. Hiện tượng thay thế tiền tệ như vậy được gọi là ngoại tệ hoá hay đô la
hóa.
Trong trường hợp thông thường, chúng
ta cần ước lượng hàm cầu tiền tệ (tức là tổng thể các cam kết của hệ thống ngân
hàng đối với khu vực tư nhân) theo định nghĩa khối lượng tiền tệ theo nghĩa
rộng, mặc dù có thể cầu tiền tệ theo định nghĩa này không chắc chắn ổn định
nhất. Lý do quan trọng là phải đảm bảo sự khới nhau giữa nợ của hệ thống ngân
hàng (M2) nợ của tài sản ngoại tệ ròng (xác định qua dự báo), tín dụng cho nhà
nước (xác định qua dự báo tài chính công) và tín dụng cho khu vực tư nhân. Nếu
không thể xây dựng được phương trình kinh tế lượng cho chỉ tiêu gộp tiền tệ M2
thì có thể xây dựng phương trình kinh tế lượng cho M1, còn dùng các phương pháp
khác để dự báo khối lượng tiền gần như tiền, phần còn lại của M2 sau khi trừ
M1.
c) Phương pháp dự báo cầu tiền tệ dựa
trên tốc độ lưu thông tiền tệ
Trong nhiều trường hợp, chúng ta không
thể ước lượng được hàm cầu tiền tệ theo phương pháp kinh tế lượng do tính không
ổn định quá cao. Trong một số nước, các chuỗi số liệu cần thiết thậm chứ còn
chưa có, hoặc nếu có, thì cũng không đầy đủ và đáng tin cậy. Ngoài ra, trong
một số trường hợp, người ta có thể có những bằng chứng cho thấy quan hệ ổn định
trong quá khứ sẽ không thể được áp dụng cho tương lai.
Ví dụ các cải cách dẫn tới thay đổi cơ
cấu nhanh có thể sẽ ảnh hưởng tới mối liên hệ (các hệ số) giữa các chỉ tiêu gộp
tiền tệ và các biến giải thích chúng trong phương trình xác định cầu tiền tệ.
Tình huống không ổn định này đặc biệt dễ xuất hiện trong trường hợp có các cải
cách tài chính, hoặc khi xuất hiện các công nghệ, phát minh tài chính mới, khi
tăng cường hoặc tháo dỡ quá nhanh các ràng buộc, quy tắc áp dụng cho các thị
trường tài chính, hoặc khi quốc tế hoá quá nhanh các giao dịch tài chính...
Trong phần lớn các trường hợp, chỉ có những thông tin gần nhất là có giá trị sử
dụng để dự báo; các thông tin liên cũ hơn quan đến hành vi của các tác nhân
kinh tế đều lạc hậu và chỉ có thể được sử dụng rất hạn chế.
Chính vì vậy, một kỹ thuật dự báo được
sử dụng rất rộng rãi trong các tổ chức tài chính quốc tế và các nước mới nổi
lên là dự báo dựa trên phân tích tập trung vào các xu hướng gần nhất và dựa
trên đánh giá tiến triển có thể của mối liên hệ định lượng giữa các chỉ tiêu
gộp tiền tệ và các biến ảnh hưởng tới hành vi của các tác nhân kinh tế, như
tăng trưởng GDP, thu nhập, lãi suất, tỷ lệ lạm phát... Khi đó, các giá trị của
các chỉ tiêu gộp tiền tệ sẽ được ước lượng từ các giá trị dự báo hoặc các giá
trị mục tiêu của các biến lựa chọn và các giá trị ước tính từ các mối liên hệ
giữa hai loại chỉ tiêu này.
Trên thực tế, tiếp cận này thường được
xây dựng dựa trên đánh giá tiến triển của
tốc độ lưu thông tiền tệ. Trong trường hợp sử dụng khái niệm tiền tệ theo
nghĩa rộng (M2), tốc độ lưu thông tiền tệ (v) có thể được tính toán theo tổng
sản phẩm trong nước như sau:
v =
GDP / M2
Nếu tốc độ lưu thông tiền tệ hầu như
ổn định trong những năm cuối của thời kỳ quan sát, hoặc nó tiến triển theo một
xu hướng ổn định, hoặc thay đổi một cách hệ thống dưới tác động của thay đổi
lãi suất thực hoặc tỷ lệ lạm phát, người ta có thể dựa trên các quan sát này để
ước lượng giá trị của v trong thời kỳ dự báo. Từ đây có thể dự báo được M2 theo
công thức sau:
M2 =
GDP / v
Bản thân M2 cũng có thể được giải thíc
như là phần thu nhập mà các tác nhân kinh tế muốn giữ dưới dạng tiền tệ. Ngoài
dự báo, người ta cũng có thể đặt ra các giả thuyết về v để dự báo tổng cầu tiền tệ M2 với điều kiện
đã biết giá trị của GDP danh nghĩa trong thời kỳ dự báo.
Trong thực tế, người ta thường xác
định M2 theo công thức này. Tuy nhiên, nếu các quan sát gần nhất đều hợp lý và
cơ cấu tài chính của đất nước cũng khảng định điều này, thì chúng ta cũng có
thể sử dụng phương pháp trên để dự báo cho M1.
2)
Dự báo các mục khác của tình hình tiền tệ
a) Dự báo tài sản ngoại tệ ròng:
Dự báo tài sản ngoại tệ ròng được thực
hiện gắn liền với dự báo cán cân thanh toán quốc tế (xem phương pháp dự báo
trong mục dự báo cán cân thanh toán quốc tế). Theo định nghĩa, thay đổi của dự
báo tài sản ngoại tệ ròng bằng thay đổi dự trữ quốc tế trong cán cân thanh toán
quốc tế với một số sai số nào đó (sẽ được bàn dưới đây).
Các sai số thường liên quan tới đánh
giá lại dự trữ tài sản; chúng gắn liền với những thay đổi của tỷ giá vì cán cân
thanh toán quốc tế ghi chép các luồng tiền vào ra trong kỳ bằng tỷ giá tại thời
điểm cụ thể, trong khi tích luỹ tài sản và các cam kết với nước ngoài trong
bảng tình hình tiền tệ được đánh giá theo tỷ giá cuối kỳ.
Các sai số cũng có thể do một phần tài
sản và cam kết với nước ngoài do các ngân hàng thương mại giữ được thống kê
trong tình hình tiền tệ có thể không được xem nhe dự trữ hoặc khoản có chính
thức trong cán cân thanh toán quốc tế.
b) Dự báo tín dụng nội địa
Tín dụng nội địa bằng tổng của tín
dụng ròng dành cho nhà nước và tín dụng cho nền kinh tế. Dự báo tín dụng ròng
cho Nhà nước trực tiếp gắn với dự báo nhu cầu tài chính ngân hàng cho tài chính
công (xem phần dự báo tài chính công). Do vậy, nói chung tín dụng cho nền kinh
tế là chỉ tiêu cuối cùng phải dự báo trong cân đối tiền tệ. Do vậy, nó được
tính bằng cách giải từ phương trình cân đối chung sau khi đã dự báo tất cả các
chỉ tiêu thành phần, cụ thể như sau:
CSP
= M2 - (AEN + CNE - APN)
Nếu dự báo tín dụng nội địa theo phương
pháp này thì phải kiểm tra xem tín dụng dành cho khu vực phi chính phủ có tương
thích với các giả thuyết hoặc dự báo về biến động giá cả và tăng trưởng sản
xuất của khu vực này không. Thông thường ít khi có sự khớp nhau ngay; do đó sẽ
phải dự báo lại các chỉ tiêu thành phần và lại kiểm tra lại tính tương thích...
Quá trình cứ lặp lại đến khi thu được kịch bản khớp nhau và hợp lý.
c) Dự báo mục các tiền tệ khác ròng:
Dự báo mục các tiền tệ khác ròng
thường khá khó khăn vì như chính tên gọi của nó cho thấy, mục này gộp tất cả
những tài sản còn lại của hệ thống ngân hàng ngoài những mục đã có tên rõ ràng
trong bảng tình hình tiền tệ nên tính đa dạng cao và không có quy luật rõ ràng.
Nhìn chung, mục này gồm tài khoản vốn, bất động sản, lỗ và lãi, điều chỉnh và
đánh giá lại và các tài khoản khác.
Vì không xác định được công cụ tài
chính ảnh hưởng trực tiếp đến mục các tiền tệ khác ròng này nên người ta thường
dự báo nó theo một số cách đơn giản như: dùng ngay giá trị của năm cuối cùng đã
biết, hoặc nếu thấy quy luật tiến triển tương đối ổn định thì ngoại suy theo xu
thế...
Thực tế có thể chấp nhận sai số dự báo
mục này lớn vì một mặt giá trị của mục này không lớn, mặt khác, mục này thường
biến động mạnh khi tỷ giá danh nghĩa thay đổi, hoặc do việc tái cấu trúc lại hệ
thống ngân hàng, hoặc xuất hiện một khoản trợ cấp từ bên ngoài...
3)
Dự báo tài khoản của Ngân hàng Trung ương
Như chúng ta đã thấy trong mô tả các
cân đối tiền tệ ở trên, các chỉ tiêu gộp của bảng tình hình tiền tệ của toàn hệ
thống ngân hàng khá giống với cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, do đó
có thể dễ dàng suy ra một số mục trong cân đối tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
từ cân đối tiền tệ chung như AEN, CNE, APN bằng cách tách ra phần thuộc hệ
thống ngân hàng thương mại và phần thuộc Ngân hàng Trung ương.
Về cơ sở tiền tệ, người ta có thể sử
dụng phương pháp nhân tử tiền tệ để
dự báo căn cứ vào khối lượng tiền tệ dự kiến.
Người ta có thể chia khối lượng tiền
tệ thành tích của cơ sở tiền tệ (BM) và nhân tử tiền tệ (mr). Cơ sở tiền tệ lại
bao gồm các thành phần là tiền mặt đang lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng (MF)
và dự trữ ngân hàng (R). Tiền dự trữ ngân hàng gồm tiền mặt của các ngân hàng
và các khoản tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương.
Trong chế độ tỷ giá mềm (linh hoạt),
các biến động của khu vực ngoại thương được thể hiện qua các biến động của tỷ
giá chứ không phải qua các biến động của dự trữ quốc tế. Do vậy, Ngân hàng
Trung ương có thể kiểm soát cơ sở tiền tệ. Ngược lại, do tính đến bắt buộc phải
dự trữ, giá trị của nhân tử sẽ được xác định một phần bởi phần còn lại của hệ
thống tài chính, trong đó hệ thống tài chính tự xác định tỷ lệ giữa phần nằm
trong dự trữ của mình và phần cam kết (nợ) đối với công chúng. Giá trị của nhân
tử cũng sẽ được xác định một phần bởi công chúng, đối tượng có thể phân chia
tài sản của mình để giữ bằng tiền lưu thông hay bằng các loại tiền gửi khác
nhau.
Để ví dụ, chúng ta hãy xem xét trường
hợp cung tiền tệ định nghĩa theo nghĩa rộng (M2), gồm tiền mặt lưu thông ngoài
hệ thống ngân hàng (MF) và tiền gửi trong các ngân hàng (DB). Các cam kết gần
như tiền của các ngân hàng (QM) cũng được đưa vào trong định nghĩa tổng khối
lượng tiền tệ. Nhân tử tiền tệ mr được tính bằng cách chia khối lượng tiền tệ
M2 cho cơ sở tiền tệ BM, cụ thể là:
mr
= M2 / BM = (MF+DB) / (MF + R)
Nếu chúng ta chia tất cả cho DB thì
thu được:
trong đó:
- c là tỷ lệ giữa tiền mặt đang lưu
thông và tiền gửi tại hệ thống ngân hàng, do công chúng quyết định;
- rs là hệ số dự trữ, do hệ thống tài
chính và các nhà lãnh đạo tiền tệ quyết định, trong đó các nhà lãnh đạo tiền tệ
quyết định thông qua chính sách dự trữ bắt buộc.
Mỗi một thành phần xác định của nhân tử,
tức là các hệ số c và rs, đều là hàm của một số biến, như lãi suất, tổng sản
phẩm trong nước thực, phân phối thu nhập... Có thể phân rã hệ số dự trữ thành
hai phần, gồm hệ số dự trữ bắt buộc r0 và hệ số dự trữ vượt mức re.
Các dự báo cung tiền tệ do vậy sẽ dựa
trên dự báo từng thành phần của nó trong khi dự báo các thành phần lại dựa trên
dự báo các nhân tố xác định chúng. Về phần mình, các nhân tố này phụ thuộc vào
cơ sở tiền tệ.
Phương trình cuối cùng ở trênchỉ ra
rằng nhân tử phản ánh hành vi của Ngân hàng Trung ương (người xác định r0),
hành vi của các ngân hàng thương mại (người xác định re) và công
chúng (người xác định c).
Theo công thức trên, nếu biết rs và c
thì sẽ tính được mr. Mặt khác, nếu dự báo được cơ sở tiền tệ BM theo các thành
phần của nó thì có thể tính được M2 theo công thức M2 = mr . BM.
Ngoài phương pháp trên, có thể dự báo
M2 theo phương pháp của lý thuyết số lượng tiền tệ:
gM2
= gGDP + gP - gV
Chú ý: Tiền tăng thêm của Ngân hàng
Trung ương được sử dụng cho 3 mục đích: Cấp tín dụng cho nền kinh tế thông qua
hệ thống các ngân hàng thương mại, mua ngoại tệ để tăng dự trữ, cho Chính phủ
vay.
4)
Một số kinh nghiệm khi dự báo khối lượng tiền tệ
Trong các phân tích dự báo khối lượng
tiền tệ trên, chúng ta chưa đề cập tới vai trò của chính sách tỷ giá. Mục này
sẽ bàn về một số kinh nghiệm dự báo khối lượng tiền tệ trong các chế độ tỷ giá
khác nhau.
Trong trường hợp chế độ tỷ giá cố định
hoặc gần như cố định, giá trị danh nghĩa (hoặc thực) của khối lượng tiền tệ chủ
yếu phụ thuộc vào cầu của các tác nhân kinh tế. Hoạt động của Ngân hàng Trung
ương hoặc các ngân hàng thương mại là nhằm ảnh hưởng tới các thành phần trong
đối trọng của tổng lượng tiền tệ (dự trữ quốc tế và tín dụng nội địa) chứ không
phải lên khối lượng tiền tệ này.
Ngược lại, trong trường hợp chế độ tỷ
giá thả lỏng, giá trị danh nghĩa của khối lượng tiền tệ chủ yếu phụ thuộc vào
cung tiền tệ. Chính các tác nhân kinh tế là người xác định tổng khối lượng tiền
tệ thực của nền kinh tế; nếu các chỉ tiêu gộp tiền tệ tăng lên kéo theo sự bành
trướng của khối lượng tiền tệ, thì sẽ dẫn tới tăng giá nội địa và tỷ giá (giá
nội tệ của tiền nước ngoài).
Nhiều nước đang áp dụng chế độ tỷ giá
trung gian giữa hai thái cực trên, tức là theo đuổi chính sách thả nổi có quản
lý. Trong trường hợp này, khối lượng tiền tệ thực luôn luôn được xác định bởi
nhu cầu; tuy nhiên, Ngân hàng Trung ương vẫn có thể, trong một chừng mực nào
đó, tác động lên giá trị danh nghĩa của các chỉ tiêu gộp tiền tệ bằng cách can
thiệp vào thị trường ngoại hối (xem chi tiết dưới đây).
Mặc dù khối lượng tiền tệ không phải
là một công cụ của chính sách tiền tệ, nó vẫn có thể được coi là một mục tiêu
trung gian của chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung ương không trực tiếp kiểm
tra mục tiêu này, song vì mục tiêu này gắn liền với các mục tiêu cuối cùng
(tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, dự trữ ngoại tệ...) đồng thời Ngân hàng
Trung ương có thể tác động lên nó thông qua các công cụ tiền tệ trực tiếp và
gián tiếp.
Một số công cụ quan trọng của Ngân
hàng Trung ương là hạn ngạch tín dụng, kiểm tra trực tiếp cơ cấu tiền của các
ngân hàng thương mại, lãi suất chiết khấu và cho vay của Ngân hàng Trung ương,
can thiệp trên thị trường mở, kiểm tra dự trữ ngoại hối...
Trong trường hợp một nền kinh tế đóng,
khi đã biết mục tiêu lạm phát, các mục tiêu cố định đối với khối lượng tiền tệ
danh nghĩa có thể đạt được thông qua dự báo cầu tiền tệ với các kỹ thuật nêu
trên.
Trong trường hợp một nền kinh tế mở và
đồng tiền đã có tính chuyển đổi (đây là trường hợp phổ biến nhất), dự báo khối
lượng tiền tệ trở nên phức tạp hơn vì cần phải tính đến không chỉ các dự báo
hoặc các mục tiêu liên quan tới cán cân thanh toán quốc tế, mà còn phải tính
đến cơ chế xác định tỷ giá, nhất là yếu tố thể chế liên quan đến quản lý ngoại
hối.
a) Trường hợp chế độ tỷ giá cố định
Trong hệ thống kinh tế với đồng tiền
có tính chuyển đổi và tỷ giá cố định, ảnh hưởng của chính sách tiền tệ tới khối
lượng tiền tệ tương đối thấp ở tầm trung và dài hạn vì cung tiền tệ phải đáp
ứng một cách bị động các nhu cầu tiền tệ để ổn định tỷ giá. Trong trường hợp
này, chính cầu tiền tệ là nhân tố xác định cung tiền tệ và các chỉ tiêu gộp
tiền tệ của nền kinh tế.
Thực vậy, các tác nhân kinh tế có thể
điều chỉnh tổng lượng tiền danh nghĩa đang nắm giữ của mình bằng cách xuất hoặc
nhập tiền thông qua thặng dư hoặc thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế: Tất cả
các hiện tượng cầu ngoại tệ vượt cung đều buộc Ngân hàng Trung ương phải can
thiệp trên thị trường ngoại hối để ngăn chặn tình trạng phá giá tỷ giá, bằng
cách bán ngoại tệ ra và mua nội tệ vào. Ngược lại, mỗi khi xảy ra tình trạng
cung vượt cầu thì Ngân hàng Trung ương phải bán nội tệ ra và mua ngoại tệ vào
để tránh hiện tượng đánh giá cao tỷ giá thực.
Hơn nữa, nếu chúng ta giả thiết rằng
nước nghiên cứu là một "nước nhỏ" (tức là nước đó không có ảnh hưởng
gì tới giá cả thị trường thế giới của các sản phẩm nước đó xuất hoặc nhập),
đồng thời cũng là nước mở cửa với thị trường thế giới. Khi đó, giá trong nước
sẽ chủ yếu được xác định bởi giá quốc tế. Với giả thiết này, có thể dự báo khối
lượng tiền tệ dễ hơn nhiều.
Tuy nhiên, trong phần lớn các nước
trên thế giới, mặt bằng giá không phải bao giờ cũng được xác định bởi giá thế
giới, ngay cả khi thực hiện chế độ tỷ giá cố định. Trong thời kỳ ngắn hoặc
trung hạn, một phần của cung hoặc cầu nội tệ thừa có thể có ảnh hưởng tới mức
chi tiêu nội địa dành cho hàng hoá và dịch vụ không trao đổi quốc tế được, và
do vậy ảnh hưởng tới giá của các loại hàng hoá và dịch vụ này. Cũng do vậy,
trong thời kỳ ngắn hoặc trung hạn, tỷ lệ lạm phát trong nước có thể khác với tỷ
lệ lạm phát thế giới.
b) Trường hợp chế độ tỷ giá thả lỏng
Trong chế độ tỷ giá thả lỏng, các nhà
lãnh đạo tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng tiền tệ: Vì không thể can
thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ sức mua của nội tệ, Ngân hàng Trung
ương có thể dùng biện pháp kiểm tra trực tiếp hơn các thành phần của cung tiền
tệ.
Hai trường hợp ngoại lệ cần chú ý: (i)
Trường hợp một số nước như Mỹ, EU trong đó nội tệ lưu thông tự do với khối
lượng lớn ở ngoài lãnh thổ; khi đó đồng tiền nước đó được coi như đồng tiền dự
trữ quốc tế; (ii) Trường hợp các nước tại đó khối lượng tiền tệ bao gồm cả
ngoại tệ, tức là có hiện tượng thay thế tiền hay ngoại tệ hoá nền kinh tế.
Khi sử dụng các biện pháp kiểm tra
trực tiếp các thành phần của cung tiền tệ, Ngân hàng Trung ương có thể xem xét
xem các điều kiện hiện hành trong trường hợp chế độ tỷ giá thả lỏng có gần sát
với các điều kiện của nền kinh tế đóng, theo nghĩa khu vực công không thể tạo
ra và cũng không thể phá bỏ các tài sản tiền tệ bằng cách ép buộc Ngân hàng
Trung ương can thiệp vào thị trường ngoại hối và khu vực công phải giữ khối
lượng tiền tệ danh nghĩa do hệ thống tài chính cung cấp.
Tuy nhiên, giống như trong các nền
kinh tế đóng, người ta có thể điều chỉnh cung tiền tệ danh nghĩa theo cầu thực
bằng cách tác động lên giá. Đồng thời, người ta cũng có thể tác động đến cơ cấu
(các thành phần) của khối lượng tiền tệ, và có thể làm biến đổi tỷ lệ phân chia
tài sản giữa tiền lưu thông và tiền gửi không kỳ hạn, hoặc giữa tiền gửi không
kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn...
Nếu Ngân hàng Trung ương không kiểm
tra trực tiếp khối lượng tín dụng tăng thêm của hệ thống ngân hàng theo từng
ngân hàng, thì sẽ có ngay ba thành phần
xác định trực tiếp cung tiền tệ là cơ
sở tiền tệ, do Ngân hàng Trung ương quyết định, hệ số dự trữ do các thể chế tài chính quyết định (bao gồm cả dự trữ bắt
buộc do Ngân hàng Trung ương quy định) và tiền mặt trong khối lượng tiền tệ do
các tác nhân kinh tế quyết định, có tính đến thói quen thanh toán và cơ cấu lãi
suất.
c) Trường hợp chế độ tỷ giá thay đổi
song không hoàn toàn thả nổi
Có nhiều nước không áp dụng chế độ tỷ
giá cố định, cũng không theo đuổi chính sách tỷ giá thả lỏng, mà thực hiện
chính sách điều chỉnh tỷ giá tuỳ thời kỳ theo phương thức rời rạc. Do vậy, việc
chọn lựa phương pháp dự báo các chỉ tiêu gộp tiền tệ danh nghĩa sẽ biến động
tuỳ theo chế độ tỷ giá của quốc gia đó có xu hướng gần với chế độ tỷ giá cố
định hay chế độ tỷ giá thả lỏng.
Các biến chính sẽ được điều chỉnh tuỳ
theo tình hình phi cân bằng trên thị trường tiền tệ là mức dự trữ quốc tế
(trong chế độ tỷ giá cố định), mức giá nội địa (trong chế độ tỷ giá thả lỏng).
Do vậy, nếu tỷ lệ lạm phát tương đối ổn định, điều đó có nghĩa là Ngân hàng
Trung ương đã thực hiện các biện pháp quản lý tỷ giá và đang sẵn sàng tác động
vào tín dụng nội địa hoặc sử dụng dự trữ quốc tế để quản lý tỷ giá này. Như
vậy, chúng ta thấy tình hình diễn ra gần giống như trong trường hợp chế độ tỷ
giá cố định.
Ngược lại, nếu mặt bằng giá biến động
rất mạnh; điều này có nghĩa là Ngân hàng Trung ương cho rằng các mục tiêu cố
định về mở rộng tín dụng hay mức dự trữ quốc tế ròng đã quan trọng hơn sự ổn
định của tỷ giá và giá cả. Trong trường hợp này, chúng ta thấy tình hình diễn
ra gần giống như trong trường hợp chế độ tỷ giá thả nổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét