CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
D) Dự báo cán cân thanh toán quốc tế:
1)
Các điểm cần lưu ý trước khi dự báo
Dự báo cán cân thanh toán quốc tế là
một công việc rất khó khăn, đòi hỏi không chỉ phải sử dụng các kỹ thuật dự báo
tinh vi mà còn phải có kiến thực rất tốt và khả năng phân tích chuyên sâu về
lĩnh vực phức tạp này. mục tiêu của phần này là nghiên cứu một số phương pháp
dự báo các thành phần của cán cân thanh toán quốc tế.
Một cách chung nhất, có thể định nghĩa
cân bằng cán cân thanh toán quốc tế theo phương trình sau:
DAENt
= Xbt - Mbt + SNt + TRNt + DKNt
trong đó:
DAENt
là thay đổi của tài sản ngoại tệ ròng trong thời kỳ t;
Xbt là khối lượng xuất khẩu
hàng hoá trong thời kỳ t;
Mbt là khối lượng nhập khẩu
hàng hoá trong thời kỳ t;
SNt là xuất khẩu dịch vụ
ròng trong thời kỳ t;
TRNt là chuyển tiền thường
xuyên ròng trong thời kỳ t;
DKNt là chuyển vốn ròng trong thời kỳ t.
Dự
báo cán cân thanh toán quốc tế chính là dự báo các biến bên vế phải của phương
trình và từ đó tính ra thay đổi của tài sản ngoại tệ ròng trong kỳ. Các yếu tố
làm cơ sở cho dự báo có thể là các quan hệ tỷ lệ, các hệ số co dãn hay các quan
hệ hàm số toán học.
Quá
trình dự báo này có thể xem như đi ngược
với quá trình xây dựng các chương trình tài chính, vì theo phương pháp
chuẩn, quá trình xây dựng các chương trình tài chính xuất phát từ các mục tiêu
của cán cân thanh toán quốc tế, như thâm hụt hay bội chi của cán cân tổng thể
là bao nhiêu, hoặc thâm hụt hay bội chi của cán cân vãng lai là bao nhiêu, rồi
đi tiếp tới xác định giá trị cần thiết của các biến khác trong phương trình cân
bằng cán cân thanh toán quốc tế để đạt được các mục tiêu đề ra. Việc xác định
các biến cuối cùng này cần dựa trên các kịch bản về chính sách kinh tế cần
triển khai thực hiện.
Để
có thể dự báo cán cân thanh toán quốc tế, cần có một số yếu tố sau:
- Nguồn thông tin chi tiết và được cập nhật,
cả về tình hình kinh tế quốc gia (sản xuất, tiêu dùng, đầu tư, giá cả...) và
tình hình kinh tế của các nước bạn hàng và các nước khác (cầu nội địa của
các nước bạn hàng, cầu tiềm năng của thị
trường quốc tế, giá nguyên liệu đầu vào, lãi suất thế giới...);
-
Các đánh giá về ảnh hưởng của các nhân tố
tình hình trên tới các thành phần chính của cán cân thanh toán quốc tế để
trên cơ sở đó có thể xây dựng được các quan
hệ có ý nghĩa giữa các nhân tố này và các thành phần của cán cân thanh toán
quốc tế.
Ví
dụ khi xây dựng quan hệ giữa nhập khẩu và cầu nội địa của một nước hoặc giữa
nhập khẩu và giá hàng nhập khẩu, người ta phải cố gắng chọn quan hệ tốt nhất
theo giá trị và theo khối lượng, với các chỉ tiêu được tính theo mức tuyệt đối
hay mức thay đổi, có thời gian trễ hoặc không có thời gian trễ.
Dự
báo các thành phần của cán cân thanh toán quốc tế có thể được thực hiện theo nhiều cấp độ gộp khác nhau. Ví dụ người
ta có thể chọn cách thực hiện các dự báo về tổng kim ngạch xuất khẩu hoặc dự
báo chia ra cho từng thành phần của xuất khẩu, như xuất khẩu năng lượng, xuất
khẩu nông sản, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến..., thậm chí có thể chi
tiết hơn nữa.
Người
ta cũng có thể chọn cách dự báo xuất khẩu dịch vụ ròng theo các mức độ gộp hoặc
phân rã chi tiết hơn theo các thành phần, gồm dịch vụ có và dịch vụ nợ, bằng
cách nhận dạng các nhân tố trong từng thành phần (thu nhập từ lãi tiền gửi nước
ngoài, thu nhập từ du lịch...). Dự báo chuyển tiền cũng có thể được tách làm
nhiều khoản nhỏ hơn như nguồn vào và nguồn ra, giữa khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân. Dự báo các tài khoản vốn cũng có thể được chia thành dự báo luồng vốn
vào và dự báo luồng vốn ra, vốn ngắn hạn và vốn trung và dài hạn, vốn nhà nước
và vốn tư nhân...
Việc chọn mức độ gộp hoặc mức độ phân chia trong dự báo các thành phần của cán
cân thanh toán quốc tế phụ thuộc vào:
-
Tính sẵn có của số liệu và chất lượng các số liệu. Các chuỗi số chi tiết phải
đủ dài và khớp nhau...
-
Tính ổn định của các quan hệ được xây dựng giữa các thành phần của cán cân
thanh toán quốc tế và các nhân tố ảnh hưởng đến các thành phần này. Ở đây, cần
phân tích kỹ xem các quan hệ đó có đủ ổn định để dùng trong dự báo cán cân
thanh toán quốc tế không ?
-
Đặc trưng của các thành phần cần dự báo của cán cân thanh toán quốc tế. Ví dụ
có những thành phần biến động mạnh trong ngắn hạn, song ổn định về dài hạn, có
những thành phần ngược lại...
Dự
báo cán cân thanh toán quốc tế có thể được thực hiện theo các đồng tiền khác nhau, hoặc theo đơn vị tiền tệ quốc gia, hoặc
bằng đô la Mỹ, hoặc bằng đơn vị tiền tệ của Quỹ Tiền tệ quốc tế. Việc lựa chọn
đồng tiền nào phụ thuộc vào các biến ảnh hưởng tới các thành phần của cán cân
thanh toán quốc tế. Tại nhiều nước, kết quả dự báo cán cân thanh toán quốc tế
được thể hiện qua hai đơn vị tiền tệ, chủ yếu là đồng nội tệ và đồng đô la Mỹ.
Dự
báo một số thành phần của cán cân thanh toán quốc tế, đặc biệt là dự báo kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá và dự báo kim ngạch nhập khẩu hàng hoá, thường được
tách ra làm 2 phần, gồm dự báo giá và dự
báo khối lượng.
Chúng
ta biết rằng:
Vt = qt
. pt
trong
đó Vt là giá trị danh nghĩa của biến nghiên cứu trong thời kỳ t;
qt
là khối lượng của biến và pt là giá đơn vị của biến.
Khi
đó:
Vt = qt
. pt . pt-1 / pt-1
hay:
Vt = qt
. pt-1 . pt / pt-1
=
Qt . pt / pt-1
trong
đó Qt là khối lượng thời kỳ t tính theo giá thời kỳ trước (thời kỳ
gốc); pt / pt-1 là mức độ tăng giá trong thời kỳ t.
Người
ta cũng có thể phân rã một chỉ tiêu gộp
dạng giá trị thành chỉ tiêu gộp dạng khối lượng (theo chỉ số hoặc theo giá cố
định) và chỉ tiêu biến động của giá (hoặc chỉ số biến động). Việc phân rã
này sẽ cho phép tính đến những dự báo thay đổi giá và những giả thuyết thay đổi
về lượng. Các giả thuyết về giá quốc tế trong tương lai đối với các sản phẩm
xuất nhập khẩu chính thường có sẵn trong các sách của các tổ chức tài chính quốc tế (ví dụ như sách triển vọng
kinh tế thế giới công bố hàng năm của IMF, các tạp chí định kỳ về giá quốc
tế...).
2) Dự báo xuất khẩu:
a)
Giả thuyết về một nước nhỏ, mở cửa:
Dự
báo xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá có quan hệ mật thiết với giả thuyết về một
nước nhỏ mở cửa. Về nhập khẩu, giả thuyết này cho rằng một quốc gia như vậy sẽ
có vai trò đủ nhỏ trên thị trường thế giới đối với 1 sản phẩm nào đó nếu như
mọi biến động của cầu của nước đó đối với sản phẩm này đều không ảnh hưởng đến
giá của sản phẩm tính bằng ngoại tệ.
Nói
cách khác, trong trường hợp này, cung sản phẩm này có hệ số co dãn vô hạn, tức
là cầu không hề ảnh hưởng đến cung.
Trong
trường hợp xuất khẩu, giả thuyết này cho rằng một quốc gia như vậy sẽ có vai
trò đủ nhỏ trên thị trường thế giới đối với 1 sản phẩm xuất khẩu nào đó nếu như
mọi biến động của cung của nước đó đối với sản phẩm này đều không ảnh hưởng đến
giá của sản phẩm tính bằng ngoại tệ.
Nói
cách khác, trong trường hợp này, dù nước đó có bán bao nhiêu hàng hoá này ra
thị trường quốc tế thì cũng không làm thay đổi giá thị trường quốc tế. Như vậy,
cầu sản phẩm này có hệ số co dãn vô hạn, tức là cung không hề ảnh hưởng đến
cầu.
Khái
niệm một nước nhỏ mở cửa chỉ có quan hệ rất ít với khái niệm quy mô hay sức
mạnh kinh tế của một nước. Một nước dù quy mô kinh tế của nó được xem là lớn
song cũng vẫn có thể bị xếp vào hàng nước nhỏ khi nói về nhập khẩu (hoặc xuất
khẩu) một sản phẩm nào đó nếu nước đó chỉ nhập khẩu hoặc xuất khẩu rất ít so
với quy mô của thị trường thế giới về sản phẩm đó.
b)
Dự báo xuất khẩu:
Dự
báo giá trị xuất khẩu thường được tách ra làm hai loại dự báo: dự báo khối
lượng xuất khẩu và dự báo giá xuất khẩu. Dự báo giá xuất khẩu rất khó khăn vì
phụ thuộc vào những biến động trên thị trường quốc tế mà chúng ta không có đủ
thông tin. Do đó, việc này nên để dành cho những cơ quan chuyên trách trong
lĩnh vực ngoại thương. Trong mục này, chúng
ta chỉ xem xét một số mô hình dự báo khối lượng xuất khẩu.
(1) Dự báo theo quan hệ cung:
-
Phương trình: Nói
chung, người ta cho rằng khối lượng xuất khẩu của một nước đang phát triển phụ
thuộc vào khả năng sản xuất của quốc gia đó và giá tương đối giữa sản phẩm
trong nước và trên thị trường quốc tế, đại diện bằng tỷ lệ giữa giá trong nước
so với giá xuất khẩu. Phương trình xác định như sau:
XQ
= f (y, pr)
trong đó XQ là khối lượng xuất khẩu, y
là khả năng sản xuất (giá cố định), pr là giá tương đối của giá
trong nước (chỉ số giá GDP) và giá xuất khẩu ra nước ngoài (chỉ số giá xuất
khẩu), tính theo cùng đơn vị tiền tệ. Dự kiến hệ số của y dương, của pr
âm.
Cũng tồn tại một số biến giải thích
liên quan tới cung hàng xuất khẩu như cầu nội địa đối với những sản phẩm xuất
khẩu, sự phong phú của tín dụng ngân hàng...
Giả thuyết cơ bản trong cách tiếp cận
này là một nước nhỏ, mở cửa, có thể xuất khẩu bao nhiêu sản phẩm cũng được theo
giá trên thị trường quốc tế. Trong trường hợp này, người ta chú trọng phân tích
những nhân tố ảnh hưởng tới cung xuất khẩu vì chính chúng tác động đến khả năng
sản xuất, từ đó tác động đến khối lượng xuất khẩu.
-
Dấu của các quan hệ:
+ Quan hệ giữa khối lượng xuất khẩu và
khả năng sản xuất có dấu dương vì sản xuất một phần là để xuất khẩu; khả năng
sản xuất càng cao thì khả năng xuất khẩu càng lớn.
+ Quan hệ giữa khối lượng xuất khẩu và
giá tương đối có dấu âm vì khi giá nội địa tăng nhanh hơn giá xuất khẩu, người
có hàng sẽ tập trung bán hàng trong nước mà ít quan tâm đến xuất khẩu; người
xuất khẩu cũng sẽ không mua được hàng để xuất khẩu. Do đó tốc độ tăng trưởng
khối lượng xuất khẩu sẽ giảm xuống.
-
Ý nghĩa của quan hệ này trong xây dựng chính sách kinh tế:
-
Những hạn chế của quan hệ này:
Độ tin cậy của quan hệ cung trong xuất
khẩu phụ thuộc trước hết vào độ tin cậy của giả thuyết co dãn hoàn hảo của cầu
các sản phẩm xuất khẩu. Nó cũng phụ thuộc vào các giới hạn ngẫu nhiên đối với
xuất khẩu như hạn chế trong xuất khẩu gạo do phải đảm bảo an ninh lương thực,
hoặc phụ thuộc và trợ cấp của chính phủ cho xuất khẩu.
Quan hệ cung cũng phải phản ánh đúng
thực trạng là mọi thay đổi của giá xuất khẩu hoặc tỷ giá đều không được phản
hồi tới giá trả cho người sản xuất, và do vậy không tạo ra các kích thích đối
với người xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Trường hợp này thường xảy ra khi
trong nước có một quỹ bình ổn giá để hạn chế những biến động quá bất thường của
giá cả trên thị trường thế giới. Ngoài ra, trong một số khu vực, thời gian phản
ứng của cung cũng có thể dài, ví dụ trong lĩnh vực nông nghiệp, thời gian cần
thiết để các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất ca cao khi chính phủ quyết định sẽ
tăng xuất khẩu ca cao là 5 năm; điều này cũng tương đương với việc điều chỉnh
tỷ giá chỉ làm cho xuất khẩu tăng từ năm thứ 5 trở đi.
(2) Dự báo theo quan hệ cầu:
Đối với nhiều sản phẩm xuất khẩu,
trong khi sản xuất có thể đáp ứng dễ dàng thì việc xuất khẩu rất khó khăn do
phụ thuộc vào nhu cầu của thế giới. Khi đó, những biến chính giải thích khối
lượng xuất khẩu sẽ là cầu thực của các nước bạn hàng và giá tương đối:
XQ
= f (ye, pr)
trong đó ye là tổng GDP của
các nước bạn hàng hay đối tác kinh tế lớn nhất tính theo giá cố định.
Cần ghi nhận là quan hệ này giả thiết
xuất khẩu thay đổi theo sản phẩm và theo các nước khác nhau, do đó có tính đa
dạng cao. Hiệu quả tăng trưởng trong
mô hình có nghĩa là mọi việc tăng cầu thực của một nước bạn hàng sẽ kéo theo
việc tăng khối lượng xuất khẩu đến nước này.
Hiệu quả cạnh tranh, được thể hiện qua
ảnh hưởng của thay đổi giá tương đối tới khối lượng xuất khẩu, sẽ được đo bằng
quan hệ giữa giá thị trường quốc tê (chứ không phải giá trên thị trường các
nước bạn hàng) và giá quốc gia đối với các mặt hàng xuất khẩu, và có khi tính
cả những thay đổi của tỷ giá.
Khi giá thế giới một mặt hàng nào đó
tăng lên so với giá quốc gia đối với mặt hàng xuất khẩu đó, khối lượng xuất
khẩu mặt hàng đó sẽ tăng lên. Ngược lại, khi giá thế giới một mặt hàng nào đó
giảm xuống so với giá quốc gia đối với mặt hàng xuất khẩu đó, khối lượng xuất
khẩu mặt hàng đó sẽ giảm xuống.
Tương tự, phá giá tỷ giá cũng sẽ là
tăng giá quốc tế so với giá quốc gia đối với các mặt hàng xuất khẩu, do đó cũng
sẽ có tác dụng làm tăng khối lượng xuất khẩu.
(3) Một số ví dụ:
Ví dụ trường hợp một nước xuất khẩu
mặt hàng chính là phân bón và nơi xuất là sang châu Âu. Khả năng xuất khẩu rất
lớn, giá rẻ do nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và việc khai thác dễ
dàng... Tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu phân bị hạn chế. Trong trường hợp này,
chúng ta dự báo theo cầu: Cầu xuất khẩu phụ thuộc vào cầu nhập khẩu phân bón
của nước bạn hàng, trong khi cầu nhập khẩu phân bón lại phụ thuộc vào thu nhập
của người nông dân châu Âu. o thu nhập của người nông dân châu Âu lại phụ thuộc
tiếp vào kết quả vụ thu hoạch năm trước...
Nếu các phân tích cho thấy khối lượng
xuất khẩu được đặt hàng cao hơn sản xuất thì phải dự báo theo mô hình cung;
trong đó các khả năng sản xuất là ràng buộc của khối lượng xuất khẩu.
....
Một số hàm xuất khẩu điển hình như
sau:
-
Phương trình thứ nhất:
log(xreel)
= 0,571 log(xreel(-1)) + 0,825 log(indwgdp)
(3,789) (2,754)
-
0,224 log(ipx/indgdpprice.tdc) + 0,665
(-3,418) (1,478)
Tổng bình phương sai số: 0,3102
R2 = 0,971
DW = 1,783...
Phương pháp ước lượng: Bình phương cực
tiểu nguyên gốc.
trong đó:
-
xreel là khối lượng xuất khẩu hàng hoá (xuất khẩu theo giá cố định);
-
indwgdp là chỉ số GDP thế giới;
-
ipx là chỉ số giá xuất;
- indgdpprice chỉ số giá thế giới
- tdc là tỷ giá giữa nội tệ và ngoại tệ
- Phương trình thứ hai:
log(xnr) = 0,413 log(tdc.defcee/ipx) + 1,360
log(gdpceesr) - 1,832
(7,219) (6,547) (-1,211)
....
trong
đó:
- xnr là xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ phi
nhân tố theo giá cố định;
- defcee là chỉ số giá GDP của Cộng đồng châu
Âu;
- gdpceesr là chỉ số GDP của Cộng đồng châu Âu
theo giá cố định.
Nhận
xét: Các phương trình trên đều có dấu mong đợi. Trong cả hai phương tình, hệ số
co dãn xuất khẩu của biến cầu thế giới đều cao hơn 1 rõ rệt (0,83 đối với ngắn
hạn, nhưng 1,9 đối với dài hạn trong phương trình 1 và 1,36 đối với dài hạn
trong phương trình 2).
3) Dự báo nhập khẩu:
Tương
tự như trong trường hợp dự báo xuất khẩu, trong dự báo nhập khẩu, chúng ta chỉ
quan tâm tới dự báo khối lượng nhập khẩu; còn giá nhập khẩu sẽ được lấy từ dự
báo của các tổ chức chuyên môn sâu khác.
- Phương trình dự báo:
Nhập
khẩu hầu như đều được nhất trí là được dự báo theo quan hệ cầu. Các biến chính
giải thích tăng khối lượng nhập khẩu là cầu nội địa hoặc quy mô nền kinh tế
hoặc thu nhập, và giá tương đối, trong đó giá tương đối là tỷ lệ giữa giá bên
ngoài và giá trong nước. Phương trình nhập khẩu cơ bản như sau:
MQ = f (Y, pr)
trong
đó MQ là khối lượng nhập khẩu (nhập khẩu tính theo giá cố định), Y là khả năng
sản xuất hay GDP (giá cố định) phản ảnh tác động của tăng trưởng; pr
là giá tương đối hay tỷ lệ giữa giá nhập khẩu đối với hàng nhập từ nước ngoài
(chỉ số giá nhập khẩu) và giá trong nước (chỉ số giá GDP), tính theo cùng đơn
vị tiền tệ, tức là:
pr = Giá hàng nhập tính theo ngoại
tê * Tỷ giá danh nghĩa / Giá nội địa
Dự
kiến hệ số của y dương, của pr âm.
Trong
một số trường hợp, có thể bổ sung những biến giải thích khác như khối lượng đầu
tư (khi chủ yếu nhập hàng hoá nhằm phục vụ đầu tư), nguồn tín dụng sẵn có, mức
dự trữ ngoại tệ...
Ngoài
ra, có thể tách GDP theo các thành phần và xem xét quan hệ giữa các thành phần
của nhập khẩu với các thành phần của GDP tuỳ theo mục đích của các loại nhập
khẩu.
Giả
thuyết cơ bản trong mô hình này là giả thuyết một nước nhỏ mở cửa, trong đó cầu
nhập khẩu của nước xem xét không đủ lớn để tác động tới giá các sản phẩm cần
nhập (cung các sản phẩm nhập khẩu có hệ số co dãn vô hạn).
- Ý nghĩa của quan hệ:
Có
thể minh hoạ hai biến giải thích chính trong phương trình xác định cầu nhập
khẩu nêu trên như sau:
+ Tác động của tăng trưởng: Quan hệ giữa
MQ và Y là dương; do vậy, nếu trình độ của cầu thực, của hoạt động và thu nhập
thực (thường được thể hiện qua GDP thực) tăng lên, thì sẽ kéo theo tăng khối
lượng nhập khẩu. Quan hệ này được gọi là tác
động của tăng trưởng. Như vậy, việc tăng cầu cuối cùng có thể phản ánh tác
động trực tiếp của tăng khối lượng
sản phẩm nhập khẩu hoặc tác động gián
tiếp của tăng sản xuất cuối cùng, tương ứng với hàng hoá trung gian được nhập
khẩu.
+ Tác động của cạnh tranh: Quan hệ giữa
MQ và pr là âm. Do vậy, khi giá tương đối thay đổi sẽ kéo theo khối
lượng nhập khẩu cũng thay đổi. Ví dụ giá tương đối tăng lên (tức là giá nhập
khẩu tăng nhanh hơn giá nội địa) sẽ kéo theo giảm nhập khẩu và khuyến khích
tiêu dùng các sản phẩm sản xuất trong nước vì các sản phẩm này sẽ trở nên rẻ
hơn so với hàng nhập khẩu. Tác động thay thế giữa hàng nhập khẩu và hàng sản
xuất trong nước do giá tương đối thay đổi được gọi là tác động cạnh tranh.
Cần
lưu ý là biến động của giá tương đối của một hàng hoá nhập khẩu (được đo bằng cùng một đơn vị tiền tệ quốc
gia) sẽ phản ánh đồng thời hai hiện tượng: (i) Biến động của giá các sản phẩm
theo loại tiền tương ứng; (ii) Biến động của tỷ giá.
Ví
dụ một người mua quyết định sẽ mua một sản phẩm có thể được sản xuất trong nước
hoặc có thể được nhập khẩu; khi đó anh ta sẽ so sánh giá của hàng trong nước và
hàng nhập cùng được tính bằng tiền trong nước. Nếu tỷ giá bị phá giá, giá hàng
nhập sẽ tăng lên trong khi giá hàng sản xuất trong nước hầu như giữ nguyên.
Điều này sẽ khuyến khích anh ta mua hàng sản xuất trong nước chứ không mua hàng
nhập khẩu. Tình hình ngược lại khi giá trong nước tăng lên (lạm phát) trong khi
tỷ giá ổn định hoặc nội tệ lên giá so với ngoại tệ.
Người
ta có thể phân rã biến giá tương đối theo phương thức sau:
pr = pmn
/ pyn
và:
pr = pm$
/ (pyn . TCn/$)
trong
đó pmn là giá nhập khẩu tính bằng nội tệ
pm$ là giá nhập khẩu tính bằng đô la Mỹ;
pyn là giá nội địa đo bằng
chỉ số giá GDP tính theo tiền quốc gia
TCn/$ tỷ giá của tiền
quốc gia theo đô la Mỹ.
- Ý nghĩa của quan hệ này trong xây dựng chính sách
kinh tế:
Thứ
nhất, người ta có thể phân tích ảnh hưởng
của từng thành phần của GDP hay tổng cầu tới nhập khẩu, từ đó tới thâm hụt
các cân xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế để có biện pháp xử lý.
Trong nhiều trường hợp, khi thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế quá lớn, việc
phân tích trên sẽ cho thấy cần giảm bớt các thành phần nào của tổng cầu để giảm
dần tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
Thứ
hai, quan hệ trên cũng chỉ ra ảnh hưởng
của tỷ lệ lạm phát nội địa so với tỷ lệ lạm phát thế giới tới khối lượng nhập
khẩu. Nếu tỷ lệ lạm phát nội địa thấp so với tỷ lệ lạm phát thế giới, chúng
ta gọi là hiện tượng giảm phát cạnh tranh (competitive desinflation), tức là
lạm phát trong nước thấp sẽ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và
thay thế nhập khẩu của đất nước. Trong trường hợp ngược lại, chúng ta thấy nền
kinh tế sẽ bị giảm sức cạnh tranh. Do vậy, về chính sách kinh tế, nên duy trì
tỷ lệ lạm phát trong nước thấp hơn tỷ lệ lạm phát thế giới
Thứ
ba, tỷ giá cũng có ảnh hưởng quan trọng
tới khối lượng nhập khẩu. Khi tỷ giá bị đánh giá cao, khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế sẽ giảm, làm cho xuất khẩu giảm đồng thời nhu cầu nhập khẩu
tăng; hậu quả là cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt
nghiêm trọng. Trong trường hợp ngược lại, khi tỷ giá được đánh giá thấp hoặc bị
phá giá, sức cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng, làm cho cán cân thanh toán
quốc tế có xu hướng được cải thiện. Vì vậy, về mặt chính sách, nên nghiên cứu
kỹ ảnh hưởng của tỷ giá tới cân bằng cán cân thanh toán quốc tế để lựa chọn
chính sách tỷ giá thích hợp.
-
Hạn chế của quan hệ này:
Khi
xây dựng quan hệ cầu để dự báo nhập khẩu, ngoài các nhân tố nêu trên như sản
xuất, đầu tư, tín dụng, khả năng sẵn có ngoại tệ..., còn có một số nhân tố khác
cũng rất quan trọng nhưng khó đưa vào mô hình như các ràng buộc định lượng
(quota) đối với hàng nhập khẩu, thuế hải quan...
Ngoài
ra, trong một số trường hợp, có thể cầu nhập khẩu không được thoả mãn ngay khi
xuất hiện mà phải trễ một số tháng, quý... do việc đặt hàng, chuyên chở, thủ
tục nhập cảnh mất thời gian. Vì vậy, có thể đưa vào yếu tố phản ánh chênh lệch
về thời gian giữa cầu nhập khẩu xảy ra và thời điểm nó được thoả mãn.
Cuối
cùng, trong mô hình trên chúng ta chỉ xem xét toàn bộ nhập khẩu chỉ là 1 sản
phẩm chung, tức là chưa phân tách nhập khẩu làm nhiều thành phần. Do vậy, chúng
ta chưa thể đưa thêm nhiều biến vào giải thích tiến triển của nhập khẩu. Để mô
hình phản ánh đúng hơn và phân tích được ảnh hưởng của nhiều biến khác tới nhập
khẩu, cần phải phân rã nhập khẩu theo các thành phần chi tiết hơn, như nhập
khẩu lương thực thực phẩm, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, nhập khẩu máy móc
thiết bị, nhập khẩu hàng tiêu dùng, nhập khẩu năng lượng, trong đó riêng dầu
mỏ...
Ví
dự về một hàm nhập khẩu điển hình như sau:
log(mreel) = 0,557 log(cr) + 0,544 log(fir)
(2,523) (4,123)
-
0,299 log(diecu/defcee/gdpd) - 5,565
(-2,418) (-4,122)
+
0,535 log(xreel)
(6,082)
Phương pháp ước lượng: Bình phương cực
tiểu nguyên gốc.
Nhập khẩu thực được xác định căn cứ
vào cầu gồm tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu, ngoài ra còn có một biến khác là
biến giá tương đối của nhập khẩu. Hệ số co dãn nhập khẩu đối với tiêu dùng, đầu
tư và xuất khẩu lần lượt là 0,56 ; 0,54 và 0,54. Vì các hệ số co dãn này cơ bản
không khác nhau nên có thể thay thế chúng bằng biến GDP là xấp xỉ tổng của
chúng.
Việc đưa biến xuất khẩu vào phương
trình giải thích nhập khẩu phản ánh hiện tượng một phần quan trọng nhập khẩu
của nền kinh tế này đã được tái xuất sau khi đã qua khâu chế biến.
Trong các mô hình kinh tế lượng giống
như phương trình 1 nêu trên, người ta đưa vào biến tự hồi quy để giải thích
tính động. Ví dụ trong trường hợp xuất nhập khẩu, người ta có thể cho rằng tồn
tại các hợp đồng có thời gian giao hàng hoặc thanh toán tiền trễ đáng kể so với
dự kiến...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét