Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

(4) Phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô đến năm 2010

Bài viết cũ của tôi năm 2004:
Phân tích, dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010
5) Hoạt động xuất nhập khẩu
Cũng như đầu tư, xuất khẩu là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo ra bước phát triển kinh tế nhanh trong thời kỳ đổi mới. Xuất khẩu của Việt Nam đã tăng lên rất nhanh từ khi đất nước thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế (năm 1989). Nếu như tổng giá trị xuất khẩu năm 1985 chỉ đạt 698,5 triệu USD và năm 1988 chỉ đạt 1038,4 triệu USD thì sang năm 1989 đã tăng vọt lên 1946 triệu USD, rồi 5448,9 triệu USD năm 1995, 14,4 tỷ USD năm 2000 và khoảng 25 4 tỷ USD năm 2005. Trong thập kỷ 90, nếu loại trừ vai trò của xuất khẩu dầu khí thì có thể thấy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu còn cao hơn nữa.
Số liệu trong bảng dưới đây cho thấy có một quan hệ tỷ lệ thuận giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế: trong những năm nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cũng rất cao và ngược lại.
          Bảng 1: Một số chỉ tiêu chính phản ánh hoạt động xuất nhập khẩu

Giá trị xuất khẩu (triệu usd)
Tăng trưởng XK hàng năm
Tốc độ tăng trưởng GDP
Giá trị nhập khẩu (triệu usd)
Tăng trưởng NK hàng năm
1985
698,5
7,5

1857,4
6,4
1986
789,1
12,9
2,8
2155,1
16,0
1987
854,2
8,2
3,6
2455,1
13,9
1988
1038,4
21,5
6,0
2756,7
12,3
1989
1946,0
87,5
4,7
2565,8
-6,9
1990
2404,0
23,5
5,1
2752,4
7,3
1991
2087,1
-13,2
5,8
2338,1
-15,1
1992
2580,7
23,7
8,7
2540,7
8,7
1993
2985,2
15,7
8,1
3924,0
54,4
1994
4054,3
35,8
8,8
5825,8
48,5
1995
5448,9
34,4
9,5
8155,4
40,0
1996
7255,9
33,2
9,3
11143,6
36,6
1997
9185,0
26,6
8,2
11592,3
4,0
1998
9360,3
1,9
5,8
11499,6
-0,8
1999
11541,4
23,3
4,8
11742,1
2,1
2000
14483,0
25,5
6,8
15636,5
33,2
2001
15029,0
3,8
6,9
16218,0
3,7
2002
16706,1
11,2
7,1
19745,6
21,7
2003
20176,0
20,8
7,3
25226,9
27,8
2004
25000,0
23,9
7,6
30000,0
18,9
Nguồn: Xem chú thích tại đồ thị 1.
Mặt khác, quá trình dịch chuyển cơ cấu xuất khẩu trong nền kinh tế cũng diễn ra khá nhanh. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp trong tổng giá trị xuất khẩu đã liên tục tăng lên rất nhanh trong suốt 2 thập kỷ qua; trong đó xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu là công nghiệp, đang ngày càng trở nên cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế nước ta. Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu hàng nông lâm hải sản đã giảm đi rất nhanh. Đáng chú ý là trong khi tỷ trọng xuất khẩu của hai nhóm hàng nông sản và lâm sản đều có xu hướng giảm xuống thì tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng thuỷ sản có xu hướng tăng lên, nhất là trong những năm gần đây, phản ánh hiệu quả xuất khẩu tăng lên. Nếu tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng nông sản và lâm sản trong tổng giá trị xuất khẩu toàn nền kinh tế vào năm 1990 lần lượt là 32,6% và 5,3% thì đến năm 2004 chỉ còn khoảng 13% và 1%. Ngược lại, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng thuỷ sản đã tương ứng tăng từ 9,9% lên khoảng 13%.
Về nhập khẩu, đồ thị 7 dưới đây cho thấy tốc độ tăng trưởng nhập khẩu có quan hệ khá chặt với xuất khẩu, trừ năm 1989 khi tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đột ngột tăng lên rất cao nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu lại rơi xuống dưới không (âm). Tương tự, đồ thị cũng cho thấy có quan hệ khá chặt giữa tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng nhập khẩu và tăng trưởng GDP. Những quan hệ này cho thấy giữa ba chỉ tiêu tăng trưởng GDP, xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ nhân quả trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau theo chiều nhập để sản xuất và xuất khẩu hoặc xuất để nhập phục vụ sản xuất... Việc tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đột ngột tăng lên rất cao nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu giảm mạnh năm 1989 được lý giải bằng sự kiện cắt giảm viện trợ của khối Liên xô cũ làm nhập khẩu giảm đột ngột trong khi các doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng tìm được thị trường mới - khu vực đồng tiền chuyển đổi - để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.

Đồ thị 7: Quan hệ giữa tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu và GDP (%).
Nguồn số liệu: Xem chú thích tại đồ thị 1. Tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu được đo theo trục trái, tăng trưởng GDP được đo theo trục phải.
6) Tiêu dùng
Mục tiêu của sản xuất là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của toàn xã hội và đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Việc nghiên cứu tiến triển của tiêu dùng cuối cùng trong các mô hình dự báo trung hạn cũng có vai trò rất quan trọng mặc dù không quan trọng bằng trong các mô hình dự báo ngắn hạn. Thực tế tại các nước đang phát triển cho thấy ở tầm trung hạn, các nhân tố đầu vào cho quá trình tăng trưởng như vốn, lao động, vật tư, năng lượng thường đóng vai trò hơn so với các nhân tố cầu; tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn cung vượt cầu đối với nhiều loại hàng hoá thì những biến động của cầu vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới điều chỉnh sản xuất và tạo ra quá trình ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó đảm bảo cho quá trình tăng trưởng trung hạn diễn ra thuận lợi.
Ở nước ta, tiêu dùng là thành phần quan trọng nhất trong tổng cầu vì nó luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng cầu[1]: 50,9% thời kỳ 1996-2000 (tích luỹ tài sản chỉ chiếm 18,6% và xuất khẩu chiếm 30,4%) và 43,6% thời kỳ 2001-2004 (tích luỹ tài sản chiếm 20,7% và xuất khẩu chiếm 35,7%). Do đó, ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng kinh tế rất lớn, nhất là khi xuất hiện tình trạng cung lớn hơn cầu. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng tỷ trọng của tiêu dùng cuối cũng đã giảm dần trong giai đoạn đổi mới: từ chỗ chiếm tỷ trọng 83,7% tổng cầu năm 1986, đến năm 1990 chỉ còn 70,4%, năm 1995 còn 57,7%, năm 2000 còn 46,6% và năm 2004 còn 42,7%; ngược lại, vai trò của xuất khẩu đã tăng vọt, từ 5,7% năm 1986 lên 19,2% năm 1990 và 34,7% năm 2000 và 36,4% năm 2004.

Đồ thị 8: Tốc độ tăng trưởng của GDP và các thành phần của tiêu dùng (%)
Nguồn: Xem chú thích tại đồ thị 1.
            Đồ thị 8 trên đây cho thấy có một quan hệ khá chặt giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tiêu dùng trong suốt 20 năm qua. Theo đồ thị 8, tốc độ tăng trưởng của tổng tiêu dùng xã hội trước năm 1993 tương đối thấp, trung bình khoảng 4%/năm, tương ứng với tốc độ tăng này là tốc độ tăng trưởng GDP cũng thấp. Trong giai đoạn 1992-1997, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tăng lên rất nhanh tương ứng với tốc độ tăng trưởng GDP rất cao. Từ năm 1998 đến năm 2000, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng lại giảm mạnh, chỉ còn 1,8% năm 1999 và 3,75% năm 2000, tức là thấp hơn cả trước năm 1993, tương ứng với quá trình đó là tốc độ tăng trưởng GDP cũng rất thấp. Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong năm 2004, tiêu dùng xã hội tăng lên nhanh đã kèm theo sự tăng lên khá mạnh của tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Về mặt cơ cấu, đáng chú ý là trong suốt giai đoạn từ năm 1987 đến 1995, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ liên tục cao hơn hẳn tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của dân cư, làm cho tỷ trọng tiêu dùng chính phủ trong tổng tiêu dùng xã hội tăng nhanh. Nguyên nhân là trong giai đoạn này, thu ngân sách của chính phủ tăng lên rất nhanh (thể hiện qua tỷ lệ thu ngân sách trên GDP tăng mạnh) cùng với nhiều nguồn viện trợ từ bên ngoài đã cho phép Chính phủ mở rộng nhanh chi tiêu, trong khi lạm phát cao (trước năm 1991) và chính sách thuế của Chính phủ đã hạn chế tốc độ tăng thu nhập của dân cư và hạn chế tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của họ.
Tuy nhiên từ năm 1996 đến năm 1999, đã diễn ra một xu hướng hoàn toàn ngược lại: tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ liên tục thấp hơn tốc độ tăng trưởng tiêu dùng của dân cư. Đặc biệt, tiêu dùng chính phủ năm 1999 giảm so với năm 1998, tức là tốc độ tăng trưởng âm: -5,7%. Nguyên nhân của tình hình này là thu ngân sách của Chính phủ giảm mạnh (xem đồ thị 14). Trước tình hình suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế do cầu trong và ngoài nước đều giảm mạnh, từ giữa năm 1999 Chính phủ đã bắt đầu thực hiện chương trình kích cầu khá toàn diện, bao gồm cả cầu chính phủ và cầu tư nhân, cầu trong nước và cầu nước ngoài. Nhờ đó, từ năm 2000, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ và tiêu dùng tư nhân, tốc độ tăng trưởng cầu trong nước và cầu nước ngoài đều tăng lên rõ rệt, đặc biệt là từ năm 2002 đến nay.
Số liệu trên đồ thị cũng cho thấy ngay trong giai đoạn kích cầu từ năm 2000 đến nay, chính sách vẫn nhằm chủ yếu vào kích cầu tiêu dùng của khu vực tư nhân vì tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ thấp so với tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tư nhân (5,6%/năm so với 5,8%/năm). Nếu tính cả tăng trưởng để bù vào sự sụt giảm năm 1999 thì tốc độ tăng trưởng tiêu dùng chính phủ giai đoạn 1999-2003 chỉ đạt 3,5%/năm trong khi tốc độ tăng trưởng tiêu dùng tư nhân đạt 5%/năm.
Đồ thị 8 cũng cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng tổng tiêu dùng xã hội và tăng trưởng tiêu dùng của riêng các hộ gia đình có quan hệ mật thiết với nhau. Trong các năm 1991-1995 và 1999-2000, chênh lệch về tốc độ tăng trưởng giữa tiêu dùng xã hội và GDP tăng mạnh chứng tỏ hoặc cầu nước ngoài, hoặc cầu tích luỹ hoặc cả hai loại cầu này đều tăng nhanh và do đó thay thế cho tiêu dùng làm nhân tố cơ bản để phát triển. Mục dưới đây sẽ phân tích sâu hơn vai trò của những nhân tố này và chỉ ra rằng tăng trưởng tích luỹ tài sản là nhân tố chính để tạo ra quá trình phát triển trong những năm tăng trưởng cao.
Về mặt kinh tế lượng, kiểm định quan hệ nhân quả theo phương pháp Granger cho thấy chiều quan hệ đi từ tăng trưởng đến tiêu dùng xã hội nói chung và tiêu dùng cá nhân nói riêng rất mạnh trong khi chiều ngược lại rất yếu. Nguyên nhân của hiện tượng này là trong giai đoạn cải cách vừa qua, trong nền kinh tế nước ta, nói chung tổng cung vẫn thấp hơn tổng cầu (trừ những năm gần đây), nên tăng cung kéo theo tăng thu nhập và tăng cầu trong khi chiều ngược lại không đáng kể.
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện trong một số lĩnh vực của nền kinh tế nước ta tình trạng tổng cung lớn hơn tổng cầu thể hiện ở những hiện tượng điển hình như tỷ lệ sử dụng công suất máy móc, thiết bị thấp, khối lượng hàng tồn kho tăng nhanh và liên tục được duy trì ở mức cao, giá cả hàng tiêu dùng không tăng, thậm chí giảm... Tuy nhiên, vì đây là hiện tượng mới diễn ra với chuỗi thời gian quá ngắn nên quan hệ nhân quả đi từ tổng cầu tới tăng trưởng GDP chưa thể hiện trong các kiểm định kinh tế lượng. Để làm rõ hơn vai trò của các yếu tố trong tổng cầu tới tốc độ tăng trưởng kinh tế, dưới đây chúng ta sẽ phân tích đóng góp của từng yếu tố cầu tới quá trình tăng trưởng.



[1] Tng cu gm cu tiêu dùng, cu tích lu và cu xut khu trong cân đối s dng GDP.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét