Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

(9) Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)

Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)

(tiếp theo)
Trong giới nghệ sĩ Hà Nội, Nguyễn Đình Thi đưa ra hai nhân vật khá độc đáo. Một chàng nhạc sĩ tên Toàn không rõ vì sao mang tâm trạng :
“ Tôi sống trên đất nước tôi mà vẫn là người không có Tổ Quốc . Cho đến nỗi trong âm nhạc, tôi cũng không có quê hương …”
“Lưu đầy và  quê nhà”  là đề tài lớn  cả chục năm sau nhà văn Pháp Albert Camus mới đề cập tới, nhưng “ lưu vong ngay trên Tổ quốc mình” lại  được ông nhà văn cài vào lời lẽ nhạc sĩ Toàn mà không dẫn dắt từ cảnh ngộ nào đưa tới khiến nhân vật cứ như “nhảy dù “ vào truyện để phát ngôn cho tác giả về nghệ thuật Việt Nam :
“ Hàng ngày tôi đánh những bản đàn rất hay , nhưng khong có bản đàn nào mang tâm hồn của quê hương tôi . Tôi muốn viết ra những bản nhạc Việt Nam , nhưng từ ý muốn đến sự thực còn cách xa nhau xa quá. Và trong việc làm này , tôi còn quá lẻ loi, người xung quanh , bạn bè tôi không khuyến khiách mà lại dèm pha tôi nữa. Bao giờ có được một nền nhạc mới của dân tộc tôi…”
“ Một nền nhạc mới” của dân tộc theo ông Nguyễn Đình Thi chắc phải chờ đến sau cách mạng tháng Tám mà thực ra ngay từ 1937 Nguyễn Văn Tuyên đã có “Kiếp hoa” rất Việt Nam, rồi sau đó Nguyễn Văn Thương, Đặng Thế Phhong, Nguyễn Xuât Khoát …đã sáng tác những ca khúc mới rất dân tộc, đã nhanh chóng đi vào và ở lại trong tâm hồn người Việt , có tuổi thọ và miền đất sống không một bài ca cách  mạng nào sau này sánh nổi.Tới đây phải mở ngoặc giá như đảng cộng sản cướp được chính quyền từ năm 1930 thì chắc chắn chúng ta không có nhạc tiền chiến, không có "con thuyền không bến", "Giọt mưa thu", "Đêm đông"....May thay, mãi tới 1945 cách mạng mới thành công và mãi năm 1950 văn nghệ Diên An mới nhập khẩu được vào VN để biến văn học nghệ thuật thành một thứ sản phẩm của...công, nông, binh.
Chàng nhạc sĩ tên Toàn gặp nhà báo già người Pháp viết báo Tương lai Bắc kỳ, đám người làm trong tiệm rượu thường gọi là “Tây quăng”. Ông Tây này gặp được nhạc sĩ  Toàn, chẳng hiểu sao lên cơn “chửi nước Pháp” tàn cơn giá lạnh :
”  Tất cả tụi chúng nó ( Tây quăng khoát tay chỉ những cái ghế không có người ngồi trong tiệm rượu ) , lúc ấy , chúng nó ở đâu , hà, tôi hỏi anh , bấy giờ chúng nó ở đâu ? …Anh tưởng tôi không thể ăn cắp , buôn culi cao su hay là xin cắm đất làm chủ đồn điền  như chúng nó à ? Ai da da…Tong, nước Pháp tong rồi, chúng tôi ở đây cũng tong. Chúng tôi là một nước già rồi , xuống dốc rồi, chúng tôi sướng quá, giàu quá cho nên không thể đánh nhau được…”
Cái lối nhìn nước Pháp “tong “ rồi, “xuống dốc “ rồi …chính là nằm trong “giả thuyết mác xít” về sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản. Chỉ tiếc Nguyễn Đình Thi không còn sống tới bây giờ để chứng kiến nước Pháp đã "xuống dốc” tới đâu ?
Nhạc sĩ Toàn còn một cô bạn nhạc sĩ người Nga Nina lưu lạc từ Nga sang Pháp rồi sang Việt Nam. Cùng cảnh nghèo, cùng kéo đàn trong một tiệm rượu , Toàn và Nina từ tình  bạn dần dà dẫn tới tình yêu . Tìm được một nửa đích thực của mình, lẽ ra hai người có thể tạo dựng hạnh phúc chung một sự nghiệp, chung một mái nhà, tiếc thay  cái “nhân sinh quan cách mạng” của ông nhà văn không để yên cho người ta sống, cho người ta hưởng hạnh phúc lứa đôi, ông “thổi” vào lòng cô Nina  “ngọn lửa của lòng yêu nước” cháy đùng đùng đến độ cô từ bỏ tình yêu, liều mạng “ tìm về Tổ Quốc:
“ Không biết tôi có thể được sống mà về thấy lại mảnh đất thiêng liêng của tôi không ? “ .
Và hạnh phúc của tình yêu chẳng hiểu sao lại chịu thua cái mong ước “cứ nghĩ là một ngày tôi sẽ lại đưọc đặt chân lên đát Nga, được cúi xuông hôn mảnh đất quê hương thế là tôi lại thấy như cái cây khô đang sống lại khi mùa xuân đến…”.
Lòng yêu nước tác giả gán cho cô gái Nga ghê gớm chưa ? Chẳng hiểu sao cái nhà cô Nina này đang yêu và được yêu mà lại như cái cây khô và phải nhờ tới lòng yêu nước mới sống lại. Nhưng liệu cô có biết rằng đất nước Nga lúc đó đang rên xiết dưới chế độ độc tài Staline đã giết chết biết bao nhiêu là văn nghệ sĩ như cô không ? Điều này ông nhà văn biết rõ ; có điều ông phải dấu không cho nhân vật của ông biết để sự tìm về Tổ quốc của cô được hợp lý , nếu không , người ta cười ông  bốc phét…
Qua những gì mà ông NĐT mô tả giới “thượng lưu trí thức Hà Nội”, người ta có thể thấy những người này khó mà “giác ngộ tư tưởng” đi theo cách mạng. Bởi thế , ông cán bộ cộng sản Khắc chỉ có thể rọi ánh sáng của Đảng vào đám dân lao động vốn dĩ chỉ thiết cốt với miếng cơm manh áo hàng ngày.
“Họ từ các làng mạc , các xóm chài chung quanh ven sông, các ngõ phố khu Gia Lạc viên , Hạ Đoan, Máy Tơ, ở một góc ngoại thành lam lũ của Hải Phòng, đêm nay từng nhóm nhỏ, nhóm nọ không biết nhóm kia, nhưng theo một đường dây chỉ có họ biết , cùng kéo nhau ra đây để họp “mét tinh”.
Xưa nay sách động quần chúng xuống đường làm cách mạng nhất trong lúc thoái trào, mật thám tăng cường khủng bố , người cán bộ tuyên truyền thường khoét sâu vào những thiệt thòi, bất công gắn trực tiếp với đời sống hàng ngày dễ thấy – ở đây là chuyên tăng ca, tăng kíp, lương thấp, quỵt lương…để  khơi gợi lòng bất mãn, căm tức mà vùng lên.
Ông cán bộ Khắc không làm được thế , chắc ông chưa đi sâu đi sát vào đời sống công nhân, ông chỉ nói chuyện ngoài xã hội
.”Khắc nói về sưu cao thuế nặng…Ngoài ra , tụi Tây cho bọn tay sai đeo cái mặt nạ “ Pháp Việt bác ái hội” bày ra các chợ phiên, chụp ảnh , đá bóng, lạc quyên ở khắp mọi nơi để làm tiền nhân dân ta…” .
Rồi ông lại tố cáo tội ác của Pháp với người cách mạng :
“Tụi đế quốc Pháp lùng bắt những chiến sĩ cách mạng , chúng nó cấm hết sách báo bênh vực quyền lợi cho nhân dân , chúng nó bắt giải tán các hội ái hữu lao động để giật lại từng quyền tự do nhỏ nhất mà chúng phải nhả ra khi trước…”
Tuyên truyền vận động kiểu này là “đánh chưa trúng vào tâm tư nguyện vọng quần chúng”, bởi lẽ những chuyện “chợ phiên, đá banh, lùng bắt chiến sĩ cách mạng, cấm sách báo…” đâu phải là chuyện thiết cốt sinh tử của những người lao động đang ngồi nghe ông cán bộ diễn thuyết.
Sau cùng , chưa biết những người nghe đã “thấm nhuần” tới đâu, ông cán bộ Khắc đã vội vàng hô hào :
“Không tranh đấu thì chết. Tranh đấu thì may  ra mới sống được. Nếu chúng ta đoàn kết , tổ chức nhau lại thì tranh đấu được . Chúng ta cùng cảnh ngộ , người này tranh đấu thì người kia ủng hộ , xưởng này tranh đấu thì xưởng khác ủng hộ, làng này tranh đấu thì làng khác ủng hộ…”
Ấy thế, cứ hô hào “tranh đấu”,”đoàn kết” chung chung vậy thì rồi quần chúng biết xoay xở ra sao ? “Đấu tranh với ai ?  Đòi cái gì ? Đoàn kết thế nào ?…” – toàn những câu hỏi bức thiết  chưa được trả lời mà đã kêu gọi theo kiểu “vô sản thế giới liên hiệp lại”.
“ Đừng có để cho tụi đế quốc Pháp nó phỉnh phờ , lừa dối, nhồi sọ mình mãi. Đứng có giúp đỡ cho nó một người lính nào , một đồng xu nào . Rồi đây , khi nào thời cơ đến , thì nhân dân ta sẽ vùng lên , quật đổ chúng nó xuống , giải phóng cho đất nước mình giành lại chính quyền về tay mình không làm nô lệ nữa…Ngày ấy rồi sẽ đến…”
Không hiểu trong thực tế những người cộng sản vận động quần chúng ra , nhưng cái kiểu hô hào “chính trị suông “ như Khắc thật khó có người nghe theo ông :” Anh chị em cố đi tìm Đảng , chỗ nào nghe có Đảng thì tìm đến…”. Trong thực tế, khi đảng hứa hẹn nhiều quyền lợi người ta mới tìm tới, còn mới trứng nước, đầy những hiểm nguy thế này thì “ đảng phải tìm tới dân “ chứ.
Với “cán bộ” trong “cơ quan” như chị Gái  ( thường được  nói tắt là xê quy), Khắc thường xuyên dậy chị “ học đọc, học viết, 4 phép tính”  và huấn luyện chính trị :
“ Và cứ những tối chị đi giao thông về cơ quan, thì anh lại giảng chính trị cho chị. Học ra vườn  tối, có khi ra một cái gò giữa đồng , Khắc ngồi trong tối nói lầm rầm cho chị nghe. Anh nói về chủ nghĩa cộng sản , về Mác Lênin, về chủ nghĩa duy vật , thặng dư giá trị về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức của Đảng…”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét