Chủ Nhật, 17 tháng 12, 2023

Nỗi đau chiến tranh, TQ và VN liên tục cảnh giác lẫn nhau

Nỗi đau chiến tranh khó vượt qua, Trung Quốc và Việt Nam liên tục cảnh giác lẫn nhau
Ngày 12 tháng 12, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm Việt Nam để thúc đẩy "Cộng đồng Trung Quốc-Việt Nam cùng chia sẻ vận mệnh" nhưng bị Việt Nam từ chối mà thay bằng "cùng chia sẻ tương lai"

Ngày 23/02/1979, bộ đội pháo binh Việt Nam chống trả cuộc xâm lược của quân Cộng sản Trung Quốc tại khu vực Lương Sơn. (STR/AFP qua Getty Images)

Sau khi các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Nhật Bản lần lượt đến thăm Việt Nam, lãnh đạo ĐCSTQ vội vã muốn giành chiến thắng ở Việt Nam nhưng giữa hai bên thiếu sự tin tưởng. Việt Nam có quân đội thường trực gần 500.000 người và lực lượng dự bị khoảng 2,5 triệu người, đối thủ tiềm tàng lớn nhất là TQ. 

Bộ Tư lệnh Chiến khu miền Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đóng quân ở biên giới Trung-Việt. Không bên nào có thể quên được cuộc chiến tàn khốc năm 1979 và kéo dài gần chục năm sau đó.

1. Việt Nam lo sợ Trung Quốc

Việt Nam biết mình không phải là một nước lớn nhưng lại có quân đội tại ngũ lên tới 470.000 người, đứng thứ 9 thế giới và có 2,5 triệu quân dự bị, đối thủ tiềm tàng duy nhất mà Việt Nam lo ngại nhất chính là Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Việt Nam giáp biển từ phía Đông và phía Nam, phía Tây giáp Lào và Campuchia, hai nước này tương đối yếu, không gây ra mối đe dọa cho Việt Nam, quân đội Việt Nam từng chiếm đóng Campuchia, còn Lào từng là nước vệ tinh của Việt Nam. Việt Nam giáp Trung Quốc ở phía bắc, với đường biên giới dài 1.281 km, đây cũng là mối đe dọa lớn nhất của Việt Nam. Hơn 40 năm trước, quân đội TQ xâm lược Việt Nam, hai bên đánh nhau ác liệt, VN chiến thắng nhưng Việt Nam vẫn không dám xem nhẹ TQ.

Hà Nội, thủ đô của Việt Nam, cách biên giới phía Bắc không xa, khi Trung Quốc xâm lược năm 1979, chiếm Lạng Sơn và từng tuyên bố trực tiếp chiếm Hà Nội. Khoảng cách đường cao tốc giữa Lạng Sơn và Hà Nội là khoảng 169 km. 

Quân đội Việt Nam đã được chia thành 7 quân khu, ở phía Bắc lấy Hà Nội làm trung tâm, 3 quân khu bị chia cắt sâu sắc.

Quân đội Việt Nam có 4 quân đoàn chủ lực, 2 ở miền Bắc, 1 ở miền Trung và 1 ở miền Nam. Quân đội Việt Nam có hơn 1.300 khẩu pháo tự hành, đứng thứ 6 thế giới; ngoài ra còn có khoảng 650 khẩu pháo kéo, 550 bộ bệ phóng tên lửa đa năng; hơn 1.800 xe tăng các loại, trong đó có xe tăng T-90 của Nga.

Không quân Việt Nam có 3 phi đội tiêm kích Su-30, 2 ở miền Bắc và 1 ở miền Nam; 1 phi đội tiêm kích Su-27 cũng ở miền Bắc; 4 phi đội tiêm kích ném bom Su-22, 3 ở miền Bắc và 1 ở miền Nam. Trung tâm, 6 sư đoàn phòng không, 3 ở miền Bắc, 3 ở miền Trung và Nam.

Một trong hai nhóm quân ở chiến trường phía nam của TQ đã được triển khai tới Vân Nam. Trung Quốc đã triển khai các máy bay chiến đấu J-10 ở Quảng Tây và Vân Nam để phòng không, đồng thời triển khai các máy bay chiến đấu chủ lực J-16 và Su-35 gần biên giới Trung Quốc-Việt Nam. Thiếu lợi thế so với Su-30 và Su-27 của Việt Nam, đồng thời đã phát huy được hạn chế của mình, J-20 cũng đã bắt đầu được triển khai tại đây.

Quân đội Trung Quốc và Việt Nam đang đối đầu nhau ở biên giới và cả hai đều coi đối phương như kẻ thù tưởng tượng. Chiến tranh Trung-Việt đã nhiều thập kỷ trôi qua, bề ngoài hai bên đã hòa giải nhưng thực chất vẫn cảnh giác với nhau.

Việt Nam luôn coi TQ là kẻ thù tưởng tượng và triển khai quân hạng nặng ở phía bắc giáp với TQ, bao gồm cả những máy bay chiến đấu tốt nhất của nước này. Điều tương tự cũng xảy ra với chiến trường phía Nam của TQ, nơi hai bên luôn mâu thuẫn. (Báo cáo sức mạnh quân sự của ĐCSTQ năm 2023)

2. Xung đột nội bộ lớn nhất trong phe xã hội chủ nghĩa

Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Liên Xô từng thuộc phe xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam vào năm 1973, chế độ cộng sản Bắc Việt đã thống nhất Việt Nam vào năm 1975. Vào thời điểm này, Trung Quốc và Liên Xô vốn đã có quan hệ không tốt, và quan hệ Trung-Xô đã rạn nứt vào năm 1972. Việt Nam chọn cách nghiêng về Liên Xô và xa lánh ĐCSTQ, làm nổi bật những rạn nứt trong phe xã hội chủ nghĩa.

Ngày 25/12/1978, quân đội Việt Nam tấn công sang Campuchia và nhanh chóng chiếm đóng Phnom Penh, thủ đô của Campuchia, ngày 7/1/1979, lật đổ chế độ Khmer Đỏ Campuchia do TQ hậu thuẫn. TQ đã nhận được tin tình báo trước, ngày 7 tháng 12 năm 1978, Hoa Quốc Phong, khi đó là Chủ tịch Quân ủy ĐCSTQ, đã chủ trì một cuộc họp và chấp thuận đề xuất xâm lược Việt Nam của Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương và Tổng tham mưu trưởng.

Ngày 8 tháng 12 năm 1978, Quân ủy Đảng Cộng sản Trung Quốc ra lệnh cho quân đội các Quân khu Quảng Châu và Côn Minh tập hợp, hoàn tất việc chuẩn bị tấn công Việt Nam trước ngày 10 tháng 1 năm 1979, nhằm ngăn chặn Việt Nam tấn công Campuchia. Tuy nhiên, ngày 25/12/1978, Việt Nam đã tiến vào Campuchia, ngày 31/12 Quân ủy ĐCSTQ lại họp và quyết định mở rộng quy mô cuộc chiến chống Việt Nam.

Ngày 17/1/1979, quân đội Việt Nam chiếm Phnom Penh nhưng quân đội Cộng sản Trung Quốc vẫn chưa chuẩn bị xong. Ngày 29/1/1979, Đặng Tiểu Bình lần đầu tiên sang thăm Hoa Kỳ với tư cách là Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Đảng Cộng sản Trung Quốc, gặp Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là Carter và tiết lộ kế hoạch tấn công Việt Nam, mong Hoa Kỳ có thể ngăn chặn sự can thiệp của Liên Xô. Carter không đưa ra câu trả lời rõ ràng nhưng đó được coi là sự chấp thuận ngầm với TQ. ĐCSTQ cuối cùng đã quyết định tấn công Việt Nam vào ngày 9 tháng 2.

Để tìm lời bào chữa hợp lý, truyền thông Đảng Cộng sản Trung Quốc quảng bá rằng Việt Nam đã nhiều lần gây rối biên giới, Đảng Cộng sản Trung Quốc buộc phải phát động phản công tự vệ biên giới. Khi đó quân đội Việt Nam đang bận chiến đấu ở Campuchia và biết rằng mình không đủ sức để thách thức TQ.

Bắt đầu từ tháng 1 năm 1979, quân trinh sát của Trung Quốc đã nhiều lần tiến hành trinh sát xuyên biên giới nhưng không khơi dậy được tình trạng cảnh giác cao độ của Việt Nam. Sau chiến tranh, Việt Nam tuyên bố đã lường trước việc TQ có thể phát động chiến tranh nhưng không ngờ nó lại có quy mô lớn như vậy.

Khi đó Việt Nam cảm thấy Liên Xô đang dồn quân ở miền Bắc Trung Quốc, nếu TQ xâm chiếm Việt Nam trên diện rộng thì Liên Xô cũng sẽ nhân cơ hội tấn công. Vì vậy, Việt Cộng tin tưởng cử lực lượng chủ lực của mình đi tiêu diệt Khơ Me Đỏ ở Campuchia. 

Đây là một cuộc chiến tranh hỗn loạn trong phe xã hội chủ nghĩa, Hoa Kỳ và phương Tây đáng lẽ phải vui mừng khi chứng kiến ​​​​sự xung đột nội bộ như vậy, nhưng Liên Xô đã chọn cách đứng yên chống lại TQ.

Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân TQ từ Vân Nam và Quảng Tây xâm lược Việt Nam, ngày 6 tháng 3 chúng chiếm được Lạng Sơn. Lực lượng chủ lực của Việt Nam ở Campuchia nhanh chóng quay trở lại thủ đô Hà Nội để thiết lập phòng thủ với sự hỗ trợ của máy bay vận tải Liên Xô. (Google Maps)

3. Liên Xô viện trợ cho Việt Nam

Liên Xô đang chuẩn bị tiến vào Afghanistan và rõ ràng không có ý định chiến đấu trên hai hoặc ba mặt trận. Năm 1978, chế độ thân Liên Xô ở Afghanistan bị lật đổ, Liên Xô cần khẩn trương giành lại quyền kiểm soát Afghanistan. Chiến tranh Trung-Việt không phải là trọng tâm lớn nhất của Liên Xô. Tuy nhiên, TQ vẫn phải đối mặt với một kẻ thù đáng gờm và ra lệnh cho hơn 500.000 quân ở biên giới Trung-Xô chuẩn bị tác chiến khẩn cấp, vượt xa số lượng quân xâm lược Việt Nam.

Liên Xô không trực tiếp gửi quân nhưng sau khi TQ tham chiến, Liên Xô đã phái một đội tàu vận tải lớn nhanh chóng vận chuyển quân chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về miền Bắc Việt Nam. Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 400 xe tăng và xe bọc thép, 500 súng cối và pháo phòng không, 50 bệ phóng tên lửa BM-21, 400 tên lửa đất đối không di động, 800 tên lửa chống tăng, 20 máy bay chiến đấu và gửi hàng nghìn máy bay chiến đấu. Cử cố vấn quân sự sang Việt Nam. Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô đã triển khai 15 tàu chiến đến bờ biển Việt Nam để theo dõi liên lạc của Quân đội Trung Quốc và chuyển tiếp cho quân đội Việt Nam.

Hải quân Trung Quốc không tham gia chiến tranh. Năng lực phòng không của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, Không quân Cộng sản Trung Quốc chưa tham chiến, chỉ có Quân đội diễn kịch một mình. TQ đã hứa riêng với Liên Xô rằng đây sẽ là một chiến tranh có giới hạn để đổi lấy việc Moscow không can thiệp trực tiếp.

Việt Nam có trang thiết bị do Liên Xô cung cấp cũng như trang bị quân đội Mỹ để lại và có nhiều kinh nghiệm thực chiến hơn so với Quân đội của TQ khiến quân đội của TQ phải trả giá đắt.

Ngày 26 tháng 2 năm 1979, dân quân Việt Nam canh gác các binh sĩ Quân đội Trung Quốc bị bắt ở khu vực Caoping. (Zentralbild/AFP qua Getty Images)

4. Một tình huống thua-thua thiếu ý nghĩa thực tế

Vào ngày 17 tháng 2 năm 1979, đội quân 200.000 quân của Trung Quốc, được hỗ trợ bởi hàng trăm xe tăng cổ của Liên Xô, đã xâm lược Việt Nam từ phía đông và phía tây. Việt Nam thiếu sự chuẩn bị và chỉ có vài sư đoàn quân chính quy ở khu vực phía Bắc, tuyên bố chỉ có khoảng 70.000 quân; TQ cho rằng sức mạnh quân sự thực tế của Việt Nam có thể nhiều hơn gấp đôi; Việt Nam cũng có ít nhất 50.000 dân quân tham gia chiến dịch.

Quân Cộng sản Trung Quốc tiến sâu vào Việt Nam từ 15 đến 20 km và chiếm được Lạng Sơn vào ngày 6 tháng 3. Sau đó, TQ ngừng tấn công và chuẩn bị rút lui nhưng lại tuyên bố đã mở một lối thoát cho Hà Nội. Lúc này chủ lực của quân đội Việt Nam từ Campuchia trở về nhưng không tiến vào tiền tuyến mà triển khai tuyến phòng thủ giữa Lạng Sơn và Hà Nội, tổng cộng khoảng 300.000 người. Quân tiền tuyến của Trung Quốc chủ yếu chống lại quân tiền tuyến tại chỗ của Việt Nam.

Chiến tranh du kích chống Nhật của ĐCSTQ chủ yếu mang tính chất tuyên truyền thiếu ví dụ chiến đấu thực tế. Sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953, Quân đội Cộng sản Trung Quốc đã không tham gia thực chiến trong 26 năm cho đến năm 1979. Quân đội Việt Nam đã thành thạo một số chiến thuật du kích trong nhiều năm thực chiến, và các loại vũ khí cá nhân do Liên Xô và Mỹ sản xuất vượt trội hơn so với vũ khí của TQ.

Phương Tây thường đánh giá hiệu quả hoạt động của quân Việt Nam trên chiến trường tốt hơn quân TQ, tuy chiếm được Lạng Sơn nhưng TQ sẽ chịu tổn thất lớn hơn nhiều nếu tiếp tục tấn công Hà Nội. Mặt khác, TQ lo ngại sự can thiệp của Liên Xô và vấp phải sự lên án rộng rãi của cộng đồng quốc tế nên đã hoàn tất việc rút quân vào ngày 16 tháng 3. Cuộc chiến chỉ kéo dài một tháng và không có cuộc đối đầu quy mô lớn nào giữa quân đội chính quy của hai bên.

Quân đội Trung Quốc sau đó kết luận rằng do lâu ngày không trải qua thực chiến nên một số sĩ quan có kỹ năng yếu và khả năng chỉ huy kém; xe tăng hạng nhẹ Type 59 và Type 62 có khả năng bảo vệ kém và chịu tổn thất lớn; xe tăng Type 56 có khả năng bảo vệ kém. Súng trường bán tự động không mạnh bằng quân đội Việt Nam trong chiến tranh rừng rậm và cận chiến. Sau cái chết của người chỉ huy tiền tuyến, việc thiếu hệ thống quân hàm khiến quân đội mất tổ chức lại và rơi vào tình trạng hỗn loạn. Bộ binh không được xe bọc thép bảo vệ và chỉ có thể bám theo xe tăng như trong Thế chiến thứ hai nên cực kỳ dễ bị tấn công.

Số liệu thống kê về thương vong sau chiến tranh có sự khác biệt rất lớn giữa hai bên. TQ tuyên bố chỉ có 6.954 người chết, trong khi Việt Nam tuyên bố quân đội TQ thương vong hơn 44.000 người. 

Sau đó, khi đại diện quân đội của Trung Quốc gặp phái đoàn quân sự Pháp, họ tiết lộ rằng Việt Nam chịu thương vong 50.000 người và Đảng Cộng sản Trung Quốc chịu thương vong 20.000 người. Theo đánh giá của phương Tây, 26.000 quân Trung Quốc chết và 37.000 người bị thương nặng; 30.000 quân Việt Nam chết và 32.000 người bị thương nặng. Có quá nhiều thương vong trong cuộc chiến kéo dài một tháng, còn tàn khốc hơn cả cuộc chiến Nga-Ukraine rất nhiều.

Vào ngày 22 tháng 2 năm 2007, hai người đàn ông đã đến thăm nghĩa trang liệt sĩ của Quân đội Trung Quốc tại thị trấn Malipo phía Trung Quốc của biên giới Trung Quốc-Việt Nam. (Mark Ralston/AFP qua Getty Images)

Cả hai bên đều bị tổn thất nặng nề nhưng đều tuyên bố chiến thắng. Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trừng phạt Việt Nam, còn tuyên truyền của Việt Nam đã xua đuổi quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cả hai bên đều thu được rất ít từ cuộc chiến này.

Mặc dù việc TQ xâm lược Việt Nam đã buộc quân đội Việt Nam phải trở về từ Campuchia, nhưng TQ đã nhanh chóng rút quân và Việt Nam tiếp tục ủng hộ chế độ bù nhìn Campuchia cho đến khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.

Việt Nam chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc chiến này, cho dù có bao nhiêu binh lính TQ bị giết cũng chẳng thu được gì. Hai bên đều tổn thất, nhiều binh lính chết vô ích.

5. Tổn thất lớn cho cả hai bên

Khi quân Trung Quốc rút lui, họ áp dụng chính sách thiêu đốt, gây thiệt hại nghiêm trọng cơ sở hạ tầng của Việt Nam và cướp phá mọi thiết bị, tài nguyên, kể cả gia súc. Quân đội Trung Quốc gặp khó khăn trong việc phân biệt giữa dân thường và dân quân và đã bắn chết một số lượng lớn thường dân Việt Nam. Việt Nam chịu tổn thất nặng nề và sau đó đã tự thanh lọc các phần tử thân Cộng sản Trung Quốc.

TQ đã chi 3,5 tỷ nhân dân tệ cho cuộc chiến này và kế hoạch kinh tế năm 1979 vẫn chưa hoàn thành. TQ cho rằng họ đang cố gắng làm hài lòng Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ cần phải thu phục TQ và để TQ đối đầu với Liên Xô. Đặng Tiểu Bình tận dụng cơ hội để củng cố sức mạnh quân sự, Hoa Quốc Phong thiếu nền tảng và có thể muốn lợi dụng điều này để thiết lập quyền lực của mình, nhưng ông ta chưa bao giờ chống lại Đặng Tiểu Bình.

Quân Cộng sản Trung Quốc không rút lui hoàn toàn mà tiếp tục chiếm đóng 60 km2 đất tranh chấp do Việt Nam kiểm soát trước đây. Xung đột giữa hai bên kéo dài đến năm 1988, với ít nhất sáu trận đánh quy mô lớn, pháo kích liên tục và các trận chiến tranh giành chiến hào lặp đi lặp lại, giống như cuộc chiến tranh tiêu hao Nga-Ukraine hiện nay.

Điều này buộc Việt Nam phải duy trì quân đội đông đảo trong thời gian dài, tiêu tốn nhiều tài nguyên, các quân khu của TQ thay nhau ra trận. Việt Nam công bố 4.000 người chết và 9.000 người bị thương từ năm 1984 đến năm 1989; Trung Quốc công bố một số thương vong

Nhiều thập kỷ sau, cả Đảng Cộng sản Trung Quốc lẫn Đảng Cộng sản Việt Nam đều không muốn nhắc đến cuộc chiến vô nghĩa này. Tuy nhiên, lịch sử đã quay lại và TQ đã quay trở lại con đường đối đầu với Mỹ. 

Trong khi đó, Hoa Kỳ coi Việt Nam là bước đột phá để kiềm chế TQ, TQ nhanh chóng hô vang “Cộng đồng Trung-Việt cùng chung vận mệnh”, nhưng Việt Nam đã không chấp nhận nó. Nhìn bề ngoài thì hai bên đều ổn, nhưng họ vẫn đang chiến đấu ở biên giới, nỗi đau chiến tranh vẫn khó nguôi ngoai.

Nguồn: Trên mạng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét