Chủ Nhật, 21 tháng 2, 2016

Mỹ - Trung và chiếc bẫy Thucydides

Mỹ - Trung và chiếc bẫy Thucydides
Việc Mỹ tuyên bố đưa tàu chiến tiếp cận sâu vào khu vực các đảo Biển Đông mà Trung Quốc cho rằng thuộc “chủ quyền” mình đã dẫn đến câu hỏi rằng, liệu có khả năng xảy ra xung đột quân sự giữa hai bên? Thật ra căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Trung không chỉ là Biển Đông và tự do hàng hải, mà nó nằm trong lý thuyết chiến tranh mà sử gia Thucydides từng đúc kết trước Công nguyên.
Lịch sử chỉ ra rằng…
Như Graham Allison, Giám đốc Trung tâm Belfer về khoa học và các vấn đề quốc tế thuộc Trường Harvard Kennedy, viết trên The Atlantic (24-9-2015), 12 trong 16 trường hợp trong 500 năm qua, trong đó một sức mạnh đang lên đối đầu một sức mạnh đang trị vì, đều có kết quả dẫn đến chiến tranh thảm khốc. Điều này đã được sử gia Thucydides thống kê một cách khoa học hàng ngàn năm trước đó.

Dựa vào dữ liệu cụ thể trong quan hệ hai nước Mỹ - Trung hiện nay, đặc biệt kinh tế, thật khó hình dung chiến tranh xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc. Cụ thể, mậu dịch Mỹ - Trung đạt khoảng 600 tỉ USD/năm. Các công ty Trung Quốc đầu tư vào Mỹ gần 12 tỉ USD năm 2014, so với không đến 700 triệu USD trước đó 5 năm. Hơn 80.000 người Mỹ hiện làm việc cho công ty Trung Quốc so với không đến 15.000 người cách đây 5 năm. Công ty Trung Quốc hiện có mặt tại 340 trong 435 khu vực bầu cử dân biểu tại Mỹ… Tuy nhiên, căn cứ vào sử liệu, việc xảy ra xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Mỹ không phải không có khả năng.

Cách đây hơn 2.400 năm, sử gia thành Athens Thucydides nhận xét: “Nếu sự trỗi dậy của Athens và nỗi sợ này lan truyền ở Sparta thì việc dẫn đến chiến tranh là không thể tránh khỏi”. Thucydides đã chỉ ra những động lực chủ yếu: Một bên thể hiện ham muốn khẳng định sức mạnh và luôn cảm thấy tầm vóc quan trọng trong vị thế mới của mình; trong khi bên kia là nỗi sợ bị giành mất quyền lực và sự quyết tâm bảo vệ vị trí đang có.

Trong trường hợp Thucydides ghi nhận vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, Athens, trong nửa thế kỷ, bắt đầu trỗi dậy dữ dội với sự bùng nổ triết học, sử học, kiến trúc, mô hình chính trị dân chủ và sức mạnh hải quân. Điều đó khiến Sparta, trong suốt cả thế kỷ là sức mạnh vô địch trên bán đảo Peloponnese, cảm thấy bất an. Thucydides cũng nói đến chiến lược xây dựng đồng minh của hai bên vào thời điểm đó. Cuối cùng, khi xung đột xảy ra giữa đồng minh hai bên (Corinth và Corcyra), Sparta cảm thấy cần thiết phải bảo vệ Corinth; khiến Athens cũng xuất binh che chở đồng minh mình. Thế là cuộc chiến Peloponnese nổ ra. Khi nó kết thúc vào 30 năm sau, Sparta chiến thắng. Tuy nhiên, cả hai bên đều tổn thất nặng nề…

Lịch sử luôn cho thấy một khi lợi ích chính trị bị đe dọa thật sự, người ta vẫn có thể hy sinh quyền lợi kinh tế và sẵn sàng dùng nắm đấm phân biệt hơn thua. Trước Thế chiến thứ nhất, Anh và Đức là hai đối tác thương mại chính của nhau. Tuy nhiên, điều đó vẫn khiến giới chính trị chóp bu London xem sức mạnh đang lên của Đức là mối đe dọa cho vị trí đế quốc thực dân của họ cũng như sự ổn định chính trị châu Âu nói riêng về lâu dài. Và dù quan hệ mậu dịch gắn kết với Anh vẫn tăng đều, Đức vẫn đi đến kết luận rằng, Anh đang tìm cách khống chế, cố tình ngăn cản và “trù dập” sự lớn mạnh của họ.

Ngày 6-5-1910, Vua vương quốc Anh Edward VII từ trần. Dự đám tang ông, có người kế nhiệm, Vua George V; Hoàng đế Đức Wilhelm; cùng cựu Tổng thống Theodore Roosevelt đại diện nước Mỹ. Trong buổi gặp, Roosevelt hỏi Wilhelm rằng liệu ông có thể xem xét việc ngưng chạy đua vũ trang hải quân giữa Đức với Anh không. Ông hoàng Đức trả lời, Đức không thể dừng kế hoạch hiện đại hóa hải quân nhưng chuyện chiến tranh giữa Đức và Anh, ông khẳng định, là phi thực tế; vì “tôi được nuôi dạy chủ yếu ở Anh; tôi cảm thấy một phần trong mình là người Anh. Ngoài nước Đức, tôi quan tâm đến Anh hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Tôi yêu nước Anh!”. Dù vậy, cuối cùng, bất chấp quyền lợi kinh tế song phương, bất chấp quan hệ huyết thống, chính trị hai nước xấu dần và chiến tranh xảy ra. Trường hợp Anh - Đức đã cho thấy sự lệ thuộc kinh tế chưa chắc là yếu tố giúp củng cố tình bạn thêm bền vững mà thậm chí, chính nó lại là nguyên nhân chủ yếu cho những bất ổn, mâu thuẫn và xung đột.

Chiếc bẫy Thucydides thế kỷ XXI

Lịch sử đang lặp lại, dưới dạng thức mới, thể hiện trong mối quan hệ Mỹ và Trung Quốc, khi mà Trung Quốc không chỉ ngoi lên như một cường quốc kinh tế mà còn là một sức mạnh quân sự đe dọa quyền lợi Mỹ - như dự báo của Tổng thống Theodore Roosevelt (nhiệm kỳ 1901-1909) cách đây hơn 100 năm, khi cho rằng: “Lịch sử tương lai của chúng ta sẽ được quyết định bởi vị trí của chúng ta ở Thái Bình Dương đối mặt với Trung Quốc hơn là vị trí của chúng ta ở Đại Tây Dương trực diện với châu Âu”. Cho nên, điều mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, vốn là người thân Trung Quốc, một “tình nhân vĩ đại” trong lịch sử quan hệ Washington - Bắc Kinh, kết luận trong quyển On China của mình - về việc nên tạo một “cộng đồng Thái Bình Dương” trong đó Mỹ, Trung Quốc và tất cả các nước trong khu vực đều cùng sống chung và phát triển trong hòa bình - hoàn toàn là một ảo tưởng phi thực tế chính trị.

Vấn đề của thế giới ngày nay không phải là lực lượng khủng bố ISIS; không phải các cuộc tranh giành thể hiện vị thế chính trị tại những nước như Ukraine hay Syria mà là thách thức địa chính trị, như một kết quả tất yếu của sự trỗi dậy Trung Quốc, trở thành mối đe dọa lớn nhất vai trò Hoa Kỳ kể từ sau Thế chiến thứ hai

Ông Lý Quang Diệu từng nhận xét: “Kích cỡ sự xoán chỗ yếu tố cân bằng thế giới của Trung Quốc dữ dội đến mức thế giới buộc phải tìm kiếm một sự cân bằng mới”. 

Cựu Tổng thống Czech Vaclav Havel nhấn mạnh thêm: “Tất cả điều này xảy ra nhanh đến mức chúng ta không có thời gian để kịp ngạc nhiên”. Phải thừa nhận rằng, Trung Quốc đi quá nhanh. Năm 1980, GDP Trung Quốc chỉ bằng 7% so với Mỹ; xuất khẩu bằng 6%; dự trữ ngoại tệ bằng 1/6… Đến năm 2014, dự trữ ngoại tệ Trung Quốc lớn gấp 28 lần so với Mỹ. Năm 1980, giá trị nền kinh tế Trung Quốc còn nhỏ hơn Hà Lan. Năm 2014, tỷ lệ tăng trưởng GDP Trung Quốc tương đương toàn bộ nền kinh tế Hà Lan. Sự phát triển kinh tế đã kéo theo sự cao ngạo trong chính sách đối ngoại rồi sự ngang ngược trong chính sách quân sự. Chiếc bẫy Thucydides ngày càng to, không chỉ bởi ảnh hưởng từ chính sách đối ngoại của Mỹ và Trung Quốc mà còn từ giới phân tích chính trị.

Trung Quốc, không như thời Đặng Tiểu Bình với phương châm “Thao quang dưỡng hối” (Ẩn mình để không lộ thực lực), bây giờ luôn sẵn sàng phô diễn sức mạnh quân sự và không che đậy tham vọng “tranh bá đồ vương”. Sự phô bày những con tàu chiến mang tính đe dọa để bảo vệ luận điểm “đường lưỡi bò” của họ tại Biển Đông là một cụ thể. Từ cuối năm 2010, James Kraska - nguyên cố vấn chính sách của giám đốc Cục Hoạch định chính sách chiến lược thuộc Bộ Tổng tham mưu lục quân Hoa Kỳ và hiện là giáo sư luật Đại học Chiến tranh Hải quân Mỹ - từng hình dung rằng, vào năm 2015, sự thống trị hàng thập niên của Mỹ về khả năng hải chiến có thể kết thúc bằng vụ chiếc hàng không mẫu hạm trị giá 9 tỉ USD USS George Washington (chạy bằng hạt nhân) bị Trung Quốc đánh chìm tại Biển Đông!

Trong một bài viết, cây bút người Mỹ gốc Do Thái Robert D. Kaplan nhấn mạnh việc Mỹ bỏ lỏng khu vực Biển Đông khiến Trung Quốc có cơ hội trỗi dậy, rằng “66 chiếc tàu ngầm của Trung Quốc hiện hơn gấp đôi số tàu chiến của toàn bộ lực lượng Hải quân Hoàng gia Anh”; và nếu kinh tế Mỹ tiếp tục trì trệ trong khi kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng giúp ngân sách quốc phòng nước này tăng ổn định trung bình gần 10%/năm, cán cân sức mạnh hải quân giữa Mỹ và Trung Quốc chắc chắn thay đổi.

Kaplan nhắc lại rằng trung tâm địa chính trị về cuộc chiến cạnh tranh “sức mạnh cứng” với Trung Quốc sẽ là Biển Đông, nơi luân chuyển 1/3 tất cả giao dịch thương mại hàng hải thế giới. Đó là vùng biển mà Bắc Kinh có thể tiếp cận Ấn Độ Dương qua eo Malacca; và từ đó tiến đến toàn bộ vòng cung Hồi giáo, từ Tây Phi đến Đông Nam Á. Ông đã viết rằng “anh bạn đế quốc này đang được xây và phát triển ngay trên lưng chúng ta (Mỹ)”, Kaplan nói thêm, tương tự việc Mỹ thống trị Caribê khi con kênh Panama được đào để trong suốt thời gian dài sau đó, Mỹ làm trùm khu vực Tây bán cầu, Trung Quốc cũng đang muốn thống trị khu vực Biển Đông để trong tương lai gần, họ làm trùm khu vực Đông bán cầu...

Trong khi đó, dầu liên tục được đổ vào lửa, từ Trung Quốc. Giới học thuyết quân sự Trung Quốc tin rằng Trung Quốc ngày nay chẳng cần phải e dè và che giấu việc biểu dương sức mạnh quân sự và đó là hành động cần làm để khẳng định sức mạnh nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là bảo vệ lợi ích kinh tế. Tướng Trương Triệu Ngân nói rằng, quân đội Trung Quốc phải bỏ ngay thứ học thuyết cũ rích lỗi thời về việc “xây dựng một quân đội hướng đến mục tiêu hòa bình trong thời bình” và rằng “việc chuẩn bị chiến tranh và thắng trận phải luôn là nhiệm vụ cơ bản thiết yếu của quân đội”. Cây bút bình luận của tờ “Giải phóng quân báo” Hoàng Côn Lôn thậm chí còn đưa ra khái niệm mới về “biên giới lợi ích quốc gia” trong đó lợi ích quốc gia Trung Quốc nằm ngoài khuôn khổ lãnh thổ, đất đai, hải phận và không phận mà nó phải hàm chứa cả những vùng rộng lớn, chẳng hạn đại dương nơi ghi dấu các cuộc hải hành của những con tàu dầu Trung Quốc và thậm chí không gian.

“Bất cứ nơi nào quyền lợi quốc gia của chúng ta mở rộng, sứ mạng quân đội chúng ta phải đi theo” - họ Hoàng viết - “Xét đến sứ mạng lịch sử mới của chúng ta, quân đội (Trung Quốc) bây giờ không chỉ phải bảo vệ biên cương mà còn phải bảo vệ cả “những đường biên giới lợi ích quốc gia”. Một phần trong “những đường biên giới lợi ích quốc gia” của Trung Quốc có thể hiểu là khu vực Biển Đông, nơi một “đường lưỡi bò” đang thèm liếm vào 100 tỉ thùng dầu và 210 tỉ m3khí đốt, nơi 80% dầu nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển qua eo biển Malacca. Tháng 9-2009, giới phân tích chính trị và báo chí Ấn Độ đã một phen lo ngại khi xuất hiện bài báo của nhà phân tích Trung Quốc Lý Thu Lâm với nội dung kêu gọi quân đội Trung Quốc mở rộng phạm vi hoạt động bằng cách hiện diện quân sự tại Nam Á.

Chính sách bá quyền lộ rõ thêm trong cái gọi là “giấc mơ Trung Quốc” của Tập Cận Bình, người đang muốn viết lại lịch sử nhưng không hiểu rằng lịch sử không chỉ là những ghi chép quá khứ mà còn là những bài học trong đó bài học chiến tranh luôn bị trả giá đắt nhất.


Mạnh Kim
Nguồn: Năng lượng Mới 467

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét