Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Ai hưởng lợi từ giá lúa gạo?

Ai hưởng lợi từ giá lúa gạo?
Phân tích của nhiều chuyên gia và điều tra thực tế của TTCT đăng tải trước đây đã liệt kê những gánh nặng thuế, phí, tình trạng đói vốn sản xuất triền miên của nông dân và sự loay hoay của chiến lược xuất khẩu gạo...
Chuyên đề kỳ này là một cái nhìn cận cảnh hơn vào những chi phí đầu vào của sản xuất lúa gạo, sự hưởng lợi của khâu trung gian và việc thiếu vắng tiếng nói của nông dân trong quá trình ban hành chính sách liên quan.

Phát hiện lúa bị lem lét hạt, ông Trương Văn Thước, xã Định An, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) chạy vạy quanh xóm mượn tiền để mua thuốc. Đến đại lý vật tư nông nghiệp, ông hỏi mua mấy chai Amistar Top, mỗi chai giá 285.000 đồng.

Dù người bán khuyên ruộng mới nhiễm bệnh thì chỉ nên dùng loại thuốc khác có giá mỗi chai 130.000 đồng cho đỡ tốn kém, bởi hai loại thuốc đều cùng thành phần, hàm lượng hóa học, nhưng giải thích thế nào ông Thước vẫn nhất quyết chọn mua Amistar Top. “Lâu nay cánh nông dân tụi tui quen xài nó rồi, loại thuốc khác chưa từng xài qua chưa biết thế nào” - ông Thước nói.

Xài “hàng hiệu”

Tương tự, lúa bị bệnh đạo ôn dù được chỉ dẫn chỉ cần dùng thuốc Beam của Công ty TNHH Á Châu với giá 38.000 đồng/thẻ, nhưng bà Lê Thị Bích (xã Vĩnh Nhuận, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang) vẫn mua chục thẻ thuốc Beam của Công ty Dupont (Mỹ) giá tới 90.000 đồng/thẻ kèm vài thứ thuốc khác cùng phòng trị bệnh này. Bà bảo lúa nhiễm bệnh thì đằng nào cũng tốn tiền, thà xài “hàng hiệu” và kèm thêm vài thứ thuốc nữa cho chắc ăn.

“Nông dân tụi tui thấy trên đài nói nhiều về lúa bị bệnh nào thì sử dụng thuốc gì nên cứ nghe theo đó mà mua thôi” - bà Bích chân chất giải thích.

Nhiều cán bộ khuyến nông cho biết hiện nay kinh nghiệm và kiến thức của nông dân đủ khả năng xác định đúng lúa đang bị nhiễm loại sâu bệnh nào, nhưng điều trị và cách sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) thì vẫn rất mù mờ. Phần lớn bà con không để ý phân biệt thành phần hóa học trong sản phẩm, thường tự chọn mua sản phẩm nào quảng cáo nhiều trên các đài phát thanh, truyền hình hay được giới thiệu qua các tờ rơi, tài liệu quảng cáo.

Vấn đề là các công ty lớn thì quảng bá sản phẩm thuốc BVTV của họ trên các phương tiện truyền thông ra rả hằng ngày, liên tục tổ chức hội thảo hướng dẫn sử dụng thuốc của đơn vị mình sản xuất, thậm chí còn đưa nhân viên xuống tận đồng ruộng tiếp thị bán hàng.

Qua nhiều năm, thói quen xài “hàng hiệu” theo quảng cáo đã ăn sâu, dù “hàng ngoại” luôn có giá bán cao hơn nhiều so với sản phẩm có cùng thành phần/chức năng của những công ty “thường thường bậc trung” trong nước sản xuất.

Không nhiều đại lý vật tư nông nghiệp “có lòng” tư vấn thiệt thà như chủ đại lý mà ông Thước đến mua, tại nhiều đại lý thường thấy chuyện người bán mạnh tay “bốc” những thứ thuốc BVTV của những công ty lớn có tên tuổi. Ngay cả khi lúa mới nhiễm một loại bệnh thông thường, họ cũng nài bà con xài sản phẩm khá mắc tiền của mấy đơn vị này.

Một số cán bộ nông nghiệp tiết lộ sở dĩ như vậy là vì ngoài tâm lý nông dân xài theo quảng cáo thì các đại lý cố gắng đẩy hàng ra cho đạt chỉ tiêu doanh số đã đăng ký với các công ty.

“Tỉ lệ chiết khấu hoa hồng tùy theo doanh số, doanh số cao thì được hưởng chiết khấu cao hơn. Vì áp lực đó, lỡ đã ôm hàng vô, buộc đại lý phải cố bán cho hết, nên cách duy nhất là dụ bà con xài những loại thuốc mắc tiền” - ông Châu Văn Thi, trưởng Phòng NN&PTNT huyện Châu Thành (An Giang), giải thích.

Chỉ có những chủ đại lý vật tư nông nghiệp có trồng lúa diện tích lớn mới thấu hiểu chuyện này. Nhiều người cho hay trước kia thường bán và sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp tên tuổi, nhưng khi bán những sản phẩm của công ty “thường thường bậc trung” trong nước, họ đều sử dụng khảo nghiệm trên ruộng nhà. Thấy các loại thuốc này điều trị bệnh hiệu quả, chi phí thấp nên họ chỉ dẫn cho nông dân dùng.

“Nếu nắm vững kỹ thuật, biết sử dụng thuốc có chất lượng do những công ty trong nước sản xuất sẽ giảm được 40% chi phí về thuốc BVTV, nhưng phần lớn nông dân chưa biết được điều này mà cứ thấy hàng nào quảng cáo nhiều trên tivi, đài là dùng” - ông Lê Văn Nghiêm, chủ đại lý ở Bình Mỹ, Châu Phú (An Giang), nói.

Phân phối lợi nhuận giữa các tác nhân của chuỗi giá trị xuất khẩu năm 2012:
Tác nhân
Tổng chi phí VND/kg
Chi phí gia tăng VND/kg (%)
Giá bán VND/kg
Lợi nhuận VND/kg (%)
Lượng trung bình (tấn)
Tổng lợi nhuận 000/VND
Nông dân
3.800
3.800
63%
4.850
1.05
55%
26
27.300
Thương lái
4.900
1.100
18%
5.500
600
32%
500
300.000
DN xuất khẩu
6000
1.100
18%
6.250
250
13%
100.000
25.000.000


Mua thuốc, gánh luôn... chi phí quảng cáo

Trong những năm như 2008, 2011, 2012, khi giá lúa gạo ở mức cao nhất, các tính toán cụ thể cho thấy nông dân lại hưởng lợi ít nhất. Phân tích của nhiều chuyên gia và điều tra thực tế của TTCT đăng tải trước đây đã liệt kê những gánh nặng thuế, phí, tình trạng đói vốn sản xuất triền miên của nông dân và sự loay hoay của chiến lược xuất khẩu gạo... Chuyên đề kỳ này là một cái nhìn cận cảnh hơn vào những chi phí đầu vào của sản xuất lúa gạo, sự hưởng lợi của khâu trung gian và việc thiếu vắng tiếng nói của nông dân trong quá trình ban hành chính sách liên quan.
Nhiều nông dân kể cách đây bốn năm giá lúa thường trên 5.000 đồng/kg, giá phân bón trung bình ngoài 200.000 đồng/bao nên trồng lúa có lợi nhuận từ 3 triệu đồng mỗi công (1.000m2). 

Mấy năm gần đây, giá lúa nhiều lần xuống dưới 4.000 đồng/kg nhưng giá phân bón thường trên 500.000 đồng/bao, bên cạnh đó giá thuốc BVTV, dầu, điện đều tăng cao làm chi phí trong sản xuất, thu hoạch đều đội lên khiến thu nhập của họ giảm mạnh, nhiều vụ lúa rớt giá khiến nông dân gánh chịu thua lỗ.

Theo TS Lê Văn Bảnh - viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, để đảm bảo an ninh lương thực và để có lượng lớn gạo phục vụ xuất khẩu, việc phát triển trồng lúa ở ĐBSCL tập trung theo hướng tăng năng suất, sản lượng nên cần phải sử dụng nhiều phân bón, thuốc BVTV.

Gần đây do tăng vụ, gối vụ khiến cỏ dại và sâu bệnh có điều kiện phát triển, nông dân phải tăng lượng phân bón, thuốc đáng kể. Dùng càng nhiều phân bón, thuốc hóa học, càng kích thích sâu bệnh phát triển, dẫn tới càng phải dùng lượng thuốc BVTV nhiều hơn.

“Trong đà tăng giá các loại vật tư nông nghiệp liên tục, nông dân kẹt cứng trong cái vòng luẩn quẩn ấy” - ông Bảnh nhận định.

Chính việc dùng nhiều thuốc BVTV không đúng chỉ định cũng làm tăng giá thành trong sản xuất lúa. Theo một số kỹ sư nông nghiệp, để phòng trị mỗi thứ bệnh, thị trường có rất nhiều sản phẩm thuốc BVTV của các công ty khác nhau với giá bán chênh lệch khá xa. Các sản phẩm ấy có cùng nguồn gốc nguyên liệu nhập khẩu, các công ty chỉ gia công sang chiết đóng gói, vô chai để làm ra từng loại thành phẩm có thành phần, hàm lượng hóa chất giống nhau nên chất lượng, công hiệu hơn kém nhau chẳng bao nhiêu.

Những công ty trong nước nhập nguyên liệu trực tiếp để sản xuất rồi bán hàng thẳng xuống đại lý luôn có giá bán rẻ hơn, tuy nhiên do khâu quảng cáo tiếp thị hạn chế nên nông dân chưa sử dụng sản phẩm của họ rộng rãi. Trong khi đó những công ty tên tuổi luôn mạnh tay chi cho việc phát triển thị trường nên chiếm được thị phần lớn.

“Có thể nói các doanh nghiệp tầm cỡ chi cho khâu quảng cáo, tiếp thị rất lớn và nông dân mình mua sản phẩm giá cao bởi gánh luôn khoản chi phí này”- ông Huỳnh Văn Gần, giám đốc Sở Công thương Kiên Giang, nhận định.

Cả nước hiện có khoảng 300 công ty cung ứng, sản xuất, phân phối thuốc BVTV với trên 3.500 tên thuốc thương mại được lưu hành. Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT), có tới 99% thuốc BVTV (gồm nguyên liệu và thành phẩm) sử dụng trong nước được nhập khẩu từ nước ngoài, mà phần lớn từ Trung Quốc. Chỉ riêng trong năm 2012, số lượng nhập khẩu hơn 103.000 tấn với giá trị khoảng 700 triệu USD.

Thường doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu về để gia công sang chiết, đóng gói thành những chai gói nhỏ rồi gắn tên thương mại của đơn vị mình để đưa ra thị trường, bán cho nông dân sử dụng. Từ đó giá sản phẩm hoàn toàn do các công ty định đoạt, mặc sức thao túng, khó có thể kiểm soát.

Giá thuốc BVTV cao còn vì công ty lớn lấy lý do phải mua quyền phát minh sáng chế hoạt chất của nhà cung cấp nguyên liệu. Đơn cử, trước kia sản phẩm Chess trị rầy của Syngenta (do Công ty BVTV An Giang phân phối) đăng ký bảo hộ độc quyền năm năm nên lúc đầu đưa ra thị trường giá tới 36.000 đồng/thẻ. Lợi dụng việc “một mình một chợ” này, vào những lúc có dịch bệnh, nhà phân phối cung ứng hàng nhỏ giọt tạo ra những đợt hút hàng.

Nhiều đại lý kể để mua được thuốc, họ bị ép phải mua kèm vài thứ thuốc khác, chẳng hạn mua năm thùng Chess phải mua kèm một thùng Cruiser (dùng ngâm lúa giống) và một thùng Sofit (trừ cỏ dại). Từ đó giá bán sản phẩm bị đẩy gấp đôi. Sau năm năm, các công ty khác cũng mua được hoạt chất này để làm ra nhiều sản phẩm tương tự, giá bán của Chess xuống còn 22.000 đồng/thẻ.

“Ông thầy ăn một, bà cốt ăn hai”


Tại huyện Tân Hiệp (Kiên Giang), thu hoạch xong lúa vụ thu đông, chờ mãi mà không thấy thương lái đến mua, nông dân đành phải thuê xe công nông chở lúa về nhà phơi rồi trữ lại, hơn nửa tháng sau mới bán được cho hàng xáo với giá lúa khô 4.400 đồng/kg. Mức giá này đã không có lãi, nếu trừ thêm các khoản hao hụt, chi phí chuyên chở về nhà thì hoàn toàn lỗ.

Còn ở những cánh đồng vừa thu hoạch mới đây, nhằm lúc giá lúa tăng trở lại, nông dân may mắn kêu được bạn hàng xuống mua lúa tươi ngay tận ruộng lúc vừa gặt xong, được giá 4.500 đồng/kg.

“Từ hồi nào đến giờ dân trồng lúa tụi tui bán lúa chỉ biết trông mỗi vào cánh thương lái thôi, giá cả bao nhiêu đều do họ đưa ra, giá thấp thua lỗ cũng phải bán. Mình làm ra hạt lúa nhưng mọi thứ đều do người khác định đoạt” - bà Bùi Thị Hoài, xã Đông Thạnh A, nói.

Lúa mua ở những cánh đồng trên địa bàn huyện Tân Hiệp, thương lái thường đưa về xay ở những nhà máy xay xát nằm dọc bờ kênh Cái Sắn, loại gạo xô thu được lại đem bán cho doanh nghiệp chế biến ở huyện Vĩnh Thạnh (Cần Thơ). Tại đây, gạo xô qua công đoạn chà, lau bóng để thành gạo thành phẩm rồi phân loại, cho vô bao 50kg đem lưu kho một thời gian, sau đó chuyển lên sà lan giao cho đơn vị xuất khẩu gạo ở TP.HCM.

“Những doanh nghiệp chế biến như chúng tôi chỉ làm trung gian, đảm nhận khâu gia công cho đầu mối xuất khẩu” - ông Lê Văn Thành, chủ doanh nghiệp chế biến lương thực ở xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, nói.

Cánh thương lái thì lại nói tuy họ mua lúa trực tiếp từ nông dân nhưng giá cả vẫn do các doanh nghiệp quyết định. Quy trình thu mua được họ khái quát như sau: sau khi có hợp đồng xuất khẩu, gần đến đợt giao hàng, đơn vị xuất khẩu hợp đồng với một số doanh nghiệp chế biến lương thực cung ứng gạo thành phẩm cho họ.

Căn cứ số lượng và mức giá từ đơn vị xuất khẩu đưa ra, nhóm doanh nghiệp chế biến đặt hàng một số cơ sở xay xát cung cấp gạo xô (gạo nguyên liệu), sau đó những cơ sở này lại đặt hàng với thương lái. Cuối cùng, các hàng xáo rảo đi thu mua lúa khắp nơi đem về xay xát để giao gạo xô cho họ. Dựa vào mức giá gạo xô do cơ sở gia công đưa ra, sau khi trừ các khoản chi phí đi lại, vận chuyển, bốc vác..., hàng xáo đưa ra giá thu mua lúa của nông dân tại ruộng.

Trong chuỗi thu mua ấy, mỗi công đoạn thu mua chế biến đều hưởng lợi một khoản đáng kể. Cụ thể lúc này tại đồng bằng sông Cửu Long, giá mỗi ký gạo thành phẩm chưa vô bao tại mạn loại 5% tấm là 7.950 đồng, loại 15% tấm là 7.600 đồng, loại 25% tấm là 7.400 đồng; còn giá gạo xô loại làm ra gạo 5% tấm là 7.150 đồng, loại làm gạo 25% tấm giá từ 6.900-7.000 đồng.

Từ mức giá này nếu quy ra giá lúa khô sẽ từ 6.000 đồng/kg, nhưng thực tế giá thu mua lúa khô tại một số tỉnh trong vùng chỉ khoảng 5.000 đồng/kg, còn lúa tươi tại ruộng chỉ 4.400-4.500 đồng/kg. Như vậy, khâu trung gian đã hưởng trên mỗi ký lúa gần 1.000 đồng, trong khi cả một mùa vụ ròng rã hơn ba tháng làm lụng vất vả, nông dân chỉ lãi vài trăm đồng.

Mà “đó là nhằm lúc lúa được giá, lúc tiêu thụ khó khăn mức lãi của nông dân thấp hơn nhiều, thua lỗ cũng nhiều” - ông Nguyễn Minh Nghĩa, phó Phòng NN&PTNT huyện Tân Hiệp, Kiên Giang, cho hay.

“Trong chuỗi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo, phần được hưởng lợi nhiều nhất thuộc về những đơn vị cung ứng phân phối phân bón, thuốc BVTV, tiếp đến là đầu mối xuất khẩu gạo, sau đó là các doanh nghiệp thu mua chế biến và thương lái. Họ chỉ kinh doanh đã kiếm lời trên 70%, còn nông dân được hưởng lợi thường không tới 30%” - GS.TS Võ Tòng Xuân đúc kết.

ĐỨC VỊNH
(VnEconomy)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét