MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG QUÝ
4) Tỷ giá, lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế
Tỷ giá cũng là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô rất quan trọng vì nó nối khu vực kinh tế trong nước với khu vực kinh tế đối ngoại. Tiến triển của tỷ giá thường ảnh hưởng mạnh tới giá cả, hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế.
a) Tỷ giá và lạm phát
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá và lạm phát thường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát của các nước bạn hàng thì thường xuất hiện những đợt phá giá tự phát để lập lại cân bằng tỷ giá thực và sức cạnh tranh của nền kinh tế, giảm các áp lực suy thoái kinh tế do thâm hụt ngoại thương tăng lên.
Có thể nói, trong khoảng hai chục năm trở lại đây, trong tâm lý của người Việt nam, tỷ giá danh nghĩa của đồng đô la Mỹ so với đồng tiền Việt nam luôn luôn có xu hướng tăng lên, do đó giữ đô la được coi là hình thức tiết kiệm an toàn nhất đối với không chỉ người dân mà cả các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế từ khi cải cách 1989 đến nay, tình hình diễn ra không hoàn toàn như vậy. Về tỷ giá danh nghĩa, đồng đô la Mỹ chỉ lên giá so với đồng tiền Việt nam trong năm 1991 và từ năm 1997 đến nay, nhưng mức độ lên giá hàng năm không cao. Ngược lại, trong năm 1990 và suốt một khoảng thời gian dài từ năm 1992 đến 1996, tỷ lệ lạm phát cao hơn hẳn tỷ lệ phá giá. Kết quả là khoảng cách giữa giá và tỷ giá bị doãng ra khá nhanh như đồ thị dưới đây đã chỉ ra. Đặc biệt, đã có một số năm, do lượng ngoại tệ bên ngoài đổ vào Việt nam nhiều, đồng đô la bị mất giá nghiêm trọng nên Ngân hàng Nhà nước đã phải can thiệp mạnh mẽ để hỗ trợ đồng đô la. Tỷ giá danh nghĩa của đồng đô la so với tiền việt cuối năm 1991 đã lên tới 14500 đồng / USD nhưng đến giữa tháng 8/2001, tỷ giá này cũng chỉ dừng ở mức 15000 đồng / USD trong khi cùng thời gian đó, giá tiêu dùng đã tăng 87,6%. Tính chung từ năm 1989 đến cuối năm 2000, đồng đô la Mỹ đã mất giá 39,2% so với đồng tiền Việt, hay đồng tiền Việt đã lên giá 64,4% so với đồng đô la Mỹ.
Về tỷ giá thực (real exchange rate), tức là tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh theo biến động giá tiêu dùng trong nước và quốc tế, theo tính toán của chúng tôi, nếu lấy năm 1992 làm mốc, (khi đó, tỷ giá đồng đô la so với đồng tiền Việt nam xuống đến mức thấp nhất là 10500 đồng / USD sau khi đã lên tới 14500 đồng / USD vào cuối năm 1991), thì từ năm 1995 tới nay đồng tiền nước ta liên tục bị đánh giá cao khoảng 10-17% so với các đồng tiền của 18 bạn hàng lớn nhất[1]. Đến cuối năm 2000, đồng tiền nước ta đã lên giá khoảng 17%, cao đáng kể so với mức lên giá vào năm 1996 (9,8%). Tốc độ lên giá của đồng tiền nước ta đặc biệt nhanh từ sau khủng hoảng tiền tệ châu á năm 1997. Nếu so với năm 1989 (khi bắt đầu những cải cách kinh tế toàn diện) thì hiện nay đồng tiền nước ta đã lên giá khoảng 40-45%.
Đồ thị 11: Tiến triển của tỷ giá và giá tiêu dùng (năm 1989 = 100%)
Về mặt lý thuyết, đồng tiền nội địa lên giá sẽ làm giảm lãi thu được tính theo tiền nội địa của các hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu so với giá thành sản xuất ra chúng, cũng như làm giảm giá hàng nhập so với giá hàng hoá sản xuất trong nước, dẫn đến làm giảm lợi nhuận của người sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu trong khi lại làm tăng lợi nhuận cho người kinh doanh nhập khẩu, kéo theo hiện tượng co hẹp xuất khẩu, tăng nhanh nhập khẩu và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng phục vụ thị trường nội địa. Những hậu quả lớn nhất của việc đánh giá cao nội tệ là làm giảm tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu, kích thích nhập khẩu, hạn chế sự phát triển của nông nghiệp (khu vực làm hàng xuất khẩu quan trọng đối với các nước đang phát triển), giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng hàng rào bảo hộ mậu dịch, tạo ra những mất ổn định trong thu ngân sách và thường kéo theo khủng hoảng nợ, và sẽ dẫn tới phá giá đồng tiền, kéo theo những áp lực lạm phát và phát triển nhiều loại tiêu cực, bất công trong xã hội[2].
b) Tỷ giá và xuất khẩu
Kinh nghiệm ở nước ta từ khi đổi mới cho thấy tồn tại một quan hệ đáng tin cậy giữa tỷ giá và tăng trưởng xuất khẩu. Theo các số liệu trong bảng 8, khi tỷ giá thực (do chỉ tiêu này chưa được sử dụng rộng rãi ở nước ta nên báo cáo này tạm lấy chênh lệch giữa tăng trưởng tỷ giá danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát làm đại diện, mặc dù chỉ tiêu này không phản ánh chính xác tỷ giá thực) lên giá mạnh năm 1986, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu mỏ 2 năm 1987, 1988 tụt xuống chỉ còn khoảng 10%/ năm. Nhưng khi tỷ giá thực bị phá giá mạnh trong hai năm 1987, 1988 và nhẹ trong năm 1989, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu thô đã tăng lên ngay trong năm 1988, rồi tăng vọt tới 82,1% năm 1989 và 15,3% năm 1990. Có được thành tích xuất khẩu gạo những năm đầu cải cách chủ yếu là nhờ phá giá cao đi kèm với tự do hoá kinh tế vì tự do hoá kinh tế đã mở ra hàng loạt những cơ hội đầu tư mới trong khi phá giá cao cho phép giảm đáng kể giá thành sản xuất tính theo ngoại tệ, làm tăng nhanh sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Kết quả tăng trưởng xuất khẩu đầy ấn tượng này còn bị che phủ bởi biến mất thị trường xuất khẩu truyền thống là Liên xô và khối Đông âu, và diễn ra trong bối cảnh tỷ lệ tăng trưởng kinh tế còn thấp do nền kinh tế vừa mới bắt đầu thực sự chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Nếu chỉ tính phần giá trị xuất khẩu bằng đô la, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu đã tăng vọt từ 4,6% năm 1987 lên 22,2% năm 1988, 154,2% năm 1989 và còn ở mức 18,8% năm 1990. Cũng theo bảng trên, trong giai đoạn này, phá giá có ảnh hưởng tới xuất khẩu trễ khoảng 1 năm so với thời điểm phá giá. Ngoài ra, các số liệu cũng cho thấy phá giá tỷ giá thực năm 1988 không còn phát huy tác dụng đáng kể ngay từ năm 1990. Thậm chí, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu năm 1991 tụt xuống âm: -25,1%.
Bảng 8: Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của một số chỉ tiêu (%)
GDP
|
Xuất khẩu
|
Xuất khẩu không kể dầu mỏ
|
Nhập khẩu
|
Tỷ giá[3]
|
Lạm phát
|
Chênh lệch phá giá - lạm phát[4]
| |
1986
|
2,8
|
12,9
|
12,9
|
16,0
|
185,7
|
774,7
|
-67,3
|
1987
|
3,6
|
8,2
|
8,2
|
13,9
|
360
|
223,1
|
42,4
|
1988
|
6,0
|
21,5
|
12,3
|
12,3
|
715,2
|
393,8
|
65,1
|
1989
|
4,7
|
87,5
|
82,1
|
-6,9
|
43,3
|
34,7
|
6,4
|
1990
|
5,1
|
23,5
|
15,3
|
7,3
|
58,1
|
67,4
|
-5,6
|
1991
|
5,8
|
-13,2
|
-25,1
|
-15,1
|
103,1
|
67,6
|
21,2
|
1992
|
8,7
|
23,7
|
20,7
|
8,7
|
-25,8
|
17,5
|
-36,9
|
1993
|
8,1
|
15,7
|
17,8
|
54,4
|
0,3
|
5,2
|
-4,7
|
1994
|
8,8
|
35,8
|
48,7
|
48,5
|
1,7
|
14,4
|
-11,1
|
1995
|
9,5
|
34,4
|
38,9
|
40,0
|
-0,6
|
12,7
|
-11,8
|
1996
|
9,3
|
33,2
|
33,5
|
36,6
|
1,2
|
4,5
|
-3,2
|
1997
|
8,2
|
26,6
|
31,4
|
4,0
|
14,2
|
3,6
|
10,2
|
1998
|
5,8
|
1,9
|
4,6
|
-0,8
|
9,6
|
9,2
|
0,4
|
1999
|
4,8
|
23,3
|
16,3
|
1,1
|
1,1
|
0,1
|
1,0
|
2000
|
6,75
|
25,0
|
14,3
|
34,0
|
3,4
|
-0,6
|
4,0
|
Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê "Tình hình kinh tế - xã hội Việt nam 10 năm 1991-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội tháng 2/2001.
Đợt điều chỉnh tỷ giá thứ hai kể từ khi đổi mới đã diễn ra vào năm 1991. Phá giá mạnh 103,1% năm 1991 trong bối cảnh nền kinh tế chưa thoát ra khỏi khủng hoảng tiền tệ, tín dụng năm 1990, đã đẩy tỷ lệ lạm phát lên 67,6%, làm cho mức độ phá giá tỷ giá thực chỉ còn 21,2%. Tuy nhiên, nhờ tỷ lệ phá giá thực này, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu năm 1992-1993 đã tăng trở lại khoảng 20%. Trong các năm 1994-1997, mặc dù tỷ giá ổn định và nội tệ bị đánh giá cao nhưng tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu nước ta vẫn liên tục được duy trì nhờ 2 nhân tố chính: Một là tốc độ tăng năng suất lao động những năm này rất cao, đủ bù lại những thiệt hại do tỷ giá bị đánh giá cao; và hai là luồng ngoại tệ chảy vào Việt nam nhiều kéo theo tăng trưởng kinh tế nhanh, cho phép xuất khẩu ngày một nhiều dù hiệu quả tăng trưởng và xuất khẩu có xu hướng giảm mạnh. Tuy nhiên, một hậu quả rõ ràng của việc đánh giá cao tỷ giá thực là tỷ lệ thâm hụt ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai tăng vọt (xem phân tích chi tiết trong phần tiếp theo dưới đây).
Đợt điều chỉnh tỷ giá thứ ba bắt đầu từ năm 1997 và kéo dài đến thời điểm hiện nay. Đặc điểm của phá giá trong giai đoạn này là tỷ lệ phá giá thấp, diễn ra làm nhiều vòng, qua các tuần, các tháng, dưới sự quản lý rất chặt của Ngân hàng Nhà nước. Bước phá giá lớn nhất trong giai đoạn này là hai lần phá giá 5% năm 1997 và 1 lần phá giá 7% năm 1998. Tỷ lệ phá giá danh nghĩa tích luỹ của hai năm 1997, 1998 là 25,2% trong khi tỷ lệ lạm phát tích luỹ là 13,1%, tạo ra một mức phá giá thực 10,7%. Tỷ giá thực còn bị phá giá nhẹ trong năm 2000 nhờ phá giá danh nghĩa và ổn định giá tiêu dùng. Những đợt phá giá này đã có tác dụng hạn chế tốc độ suy giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta so với các đối tác kinh tế trong khu vực, nhờ đó, tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu không kể dầu thô năm 1999-2000 được duy trì ở mức khoảng 15%/ năm và tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu toàn nền kinh tế đạt khoảng 24%/năm.
Vai trò của tỷ giá tới xuất khẩu thời kỳ 1986-2000 được khảng định về mặt kinh tế lượng: Chiều quan hệ nhân quả đi từ phá giá tới tăng trưởng xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu thô hoặc không kể xuất khẩu dầu thô) rất mạnh; các phương trình kinh tế lượng cho thấy phá giá từ năm 1991 đến nay có tác động trực tiếp tới xuất khẩu ngay trong năm và khi tỷ giá tăng 10% thì xuất khẩu tăng 6,2%[5].
c) Tỷ giá và cán cân thanh toán quốc tế
Biến động của tỷ giá không chỉ ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu (hoạt động thương mại) mà còn có tác động mạnh tới cán cân thanh toán quốc tế, trước hết là cán cân thanh toán vãng lai vì tỷ giá là một trong những nhân tố cơ bản xác định sức cạnh tranh của mỗi nền kinh tế trên thị trường hàng hoá và dịch vụ quốc tế. Đồ thị 12 minh họa tác động này; trong đồ thị, trục tung bên trái phản ánh giá trị của chênh lệch phá giá - lạm phát (số liệu lấy từ bảng 8) và tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai trên GDP (nguồn số liệu: Quỹ Tiền tệ quốc tế); trục tung bên trái phản ánh biến động của tỷ giá danh nghĩa. Nhận xét đầu tiên rút ra từ đồ thị là tồn tại một quan hệ chặt chẽ giữa tiến triển của hai chỉ tiêu tỷ giá và chênh lệch phá giá - lạm phát; điều này có nghĩa là phá giá danh nghĩa có tác động tích cực tạo ra phá giá thực.
Đồ thị 12: So sánh tiến triển của tỷ giá và cán cân thanh toán vãng lai
Nhận xét thứ hai là phá giá có tác dụng làm giảm tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai trên GDP. Thực vậy, trước năm 1987, do theo đuổi chính sách tỷ giá cố định, tỷ lệ phá giá liên tục thấp hơn tỷ lệ lạm phát nên nội tệ bị đánh giá cao; hậu quả là tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai trên GDP rất cao. Trong giai đoạn 1987-1991, khi tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh cao hơn tỷ lệ lạm phát, nội tệ được đánh giá thấp nên sức cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước tăng; kết quả là tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai trên GDP đã giảm liên tục, thậm chí Việt nam đã đạt thặng dư thương mại và hầu như cân bằng cán cân vãng lai vào năm 1992. Tuy nhiên, sang giai đoạn 1992-1996, tỷ giá danh nghĩa ổn định trong khi tỷ lệ lạm phát cao, nên tỷ giá thực lại bị đánh giá cao; kết quả là tỷ lệ thâm hụt ngoại thương và cán cân thanh toán vãng lai trên GDP đã tăng lên rất mạnh, trung bình tới 10,4%. Chỉ từ năm 1997, khi tỷ giá danh nghĩa bị phá giá 14,2% ngay trong năm và tiếp tục được phá giá trong các năm tiếp theo thì tình hình cán cân thanh toán vãng lai mới được cải thiện: tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai giảm từ 9,9% năm 1996 xuống 6,2% năm 1997, 3,9% năm 1998 và trở lên thặng dư 4,5% và 2,1% trong hai năm 1999-2000.
Tuy nhiên tỷ giá chỉ là một nhân tố xác định biến động của cán cân thanh toán vãng lai. Nhân tố thứ hai không kém phần quan trọng là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế: trong những giai đoạn tăng trưởng nhanh, tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai có xu hướng tăng lên do cầu nhập khẩu tăng lên, và ngược lại trong những giai đoạn tăng trưởng chậm, tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai có xu hướng giảm do cầu nhập khẩu giảm.
Đồ thị 13: Quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và
tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (%)
Quan hệ âm giữa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai được khảng định trong nền kinh tế Việt nam qua đồ thị dưới đây. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh (1992-1997), tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai liên tục ở những mức rất cao như trong thời kỳ trước cải cách, khi nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào viện trợ của khối Liên xô cũ. Ngược lại, trong những năm kinh tế tăng trưởng thấp (1989-1991 và từ năm 1998 đến nay), tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai được cải thiện nhanh chóng. Tình hình càng rõ nét trong những năm gần đây khi việc điều hành tỷ giá của ngân hàng trung ương tỏ ra mềm dẻo hơn; tỷ giá ngày càng phản ánh đúng hơn tình trạng cân đối hàng hoá và dịch vụ trong và ngoài nước. Khi những phi cân bằng trong quan hệ kinh tế đối ngoại (thể hiện bằng tỷ lệ thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai) tăng lên, thì tỷ giá sẽ bị điều chỉnh để khôi phục lại sức cạnh tranh của hàng hoá và cân bằng lại cán cân thanh toán quốc tế.
MỤC 3: KẾT LUẬN CHUNG CỦA CHƯƠNG I -
CƠ SỞ ĐỂ XÂY DỰNG MÔ HÌNH DỰ BÁO NGẮN HẠN
Trong chương I, chúng ta đã phân tích tiến triển của nền kinh tế nước ta và một số quan hệ kinh tế vĩ mô cơ bản trong giai đoạn đổi mới kinh tế từ năm 1986, nhất là từ năm 1989 đến nay, theo quan điểm mô hình hoá. Những phân tích tiến triển của khu vực thực cho thấy nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ trong hơn một thập kỷ qua, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và thay đổi cơ cấu kinh tế khá toàn diện, mang tính chất dài hạn. Qua phân tích, có thể thấy nguồn gốc chính của những thành tựu kinh tế vĩ mô trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh là tăng trưởng đầu tư, trong đó đầu tư vừa đóng vai trò nhân tố cung, vừa đóng vai trò nhân tố cầu; tuy nhiên, những nhân tố cầu như tiêu dùng và xuất khẩu cũng đóng vai trò khá quan trọng. Trong những năm gần đây, vai trò của những nhân tố cầu đã tăng lên rất mạnh do nền kinh tế rơi vào tình trạng cung lớn hơn cầu. Căn cứ vào đặc điểm trên, để xây dựng các mô hình dự báo ngắn hạn cho giai đoạn hiện nay, cần phải đi theo tiếp cận của mô hình cầu.
Tiếp theo, trong chương 1, chúng ta đã phân tích tiến triển của khu vực thực trong mối quan hệ với các chỉ tiêu tài chính, tiền tệ - những biến quan trọng của chính sách điều chỉnh kinh tế và là đầu vào quan trọng nhất của các mô hình dự báo ngắn hạn. Những lập luận lô gíc cho thấy tiến triển của khu vực thực có quan hệ mật thiết với tiến triển của khu vực tài chính, tiền tệ: Tiến triển của lãi suất thực có ảnh hưởng lớn tới đầu tư trong khi những thay đổi của tổng cung tiền tệ có ảnh hưởng mạnh tới tỷ lệ lạm phát và qua đó tác động tới môi trường đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng kinh tế dường như không mạnh vì tăng trưởng tiền tệ và tăng trưởng tín dụng không đi đôi với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu là do tín dụng ngân hàng chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn nền kinh tế; trong khi tỷ trọng vốn nhập khẩu bên ngoài và vốn tự có của tư nhân và các doanh nghiệp (kể cả các doanh nghiệp Nhà nước) rất cao. Hơn nữa, mục tiêu chính của chính sách tiền tệ trong giai đoạn này là chống lạm phát và ổn định kinh tế chứ không phải là động viên tăng trưởng; thể hiện ở một chính sách tiền tệ khá chặt kéo dài trong hầu hết thời gian của thập kỷ 90. Đồ thị 8 cho thấy chỉ từ năm 1999, chính sách tiền tệ mới thực sự tập trung vào mục tiêu tăng trưởng.
Ngược lại với chính sách tiền tệ, chính sách tài chính đã tỏ ra có tác động mạnh tới tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều này là hoàn toàn hợp lý vì một mặt, chính phủ đã không dùng biện pháp phát hành tiền tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách; mặt khác, đã tích cực sử dụng công cụ phát hành trái phiếu, tín phiếu (trước đây hầu như không làm) để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân vào mục tiêu tăng trưởng. Thực tế, giảm tỷ lệ động viên vào ngân sách và tăng tỷ lệ thu ngân sách đều có tác dụng tích cực làm tăng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế mặc dù quá trình này có thể trễ 6 tháng đến 1 năm. Ngoài ra, mặc dù những biến động của tỷ giá không đi đôi với thay đổi tương ứng của tỷ lệ lạm phát nhưng chúng có ảnh hưởng rất quan trọng tới hoạt động xuất nhập khẩu và điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế. Những quan hệ nhân quả nêu trên đều đã được kiểm định bằng kỹ thuật kinh tế lượng (theo phương pháp Granger); do đó, có thể được đưa vào mô hình kinh tế lượng xây dựng trong chương II dưới đây.
[1] Đó là các nước Malaixia, Inđônêxia, Philipin, Singapo, Thái lan, Đài loan, Hồng kông, Hàn quốc, Nhật Bản, Trung quốc, Nga, Anh, Đức, Hà lan, Pháp, Thuỵ sĩ, Mỹ và Australia.
[2] Xem những phân tích chi tiết về hậu quả tiêu cực của hiện tượng trên trong bài: "Hiện tượng đánh giá cao nội tệ và những hậu quả tiêu cực", Lê Việt Đức, Tạp chí Ngân hàng số 12-1994, trang 36-40.
[3] Các số liệu về phá giá trong bài được hiểu là phá giá tiền Việt so với đô la Mỹ. Trước năm 1989, do còn tồn tại tỷ giá giữa đồng Việt nam và đồng rúp chuyển nhượng nên còn có loại phá giá tiền Việt so với đồng rúp chuyển nhượng.
[4] Chênh lệch (phá giá - lạm phát) = (tỷ lệ phá giá + 100)/(tỷ lệ lạm phát + 100) -1) * 100
[5] Về mặt kinh tế lượng, với chuỗi số liệu năm từ năm 1991 đến năm 2000, quan hệ xuất khẩu - phá giá được ước lượng như sau :
log(EXUS) = - 19,06 + 0,620 * log(EXRAT * EXPRI / PRICE)
(-22,25) (5,692)
+ 5,544 log(QE) + 0,180 D1992
(44,648) (4,051)
R2 = 0,998 ; R2 adj = 0,997 ; SE = 3,56% ; DW = 1,945 ; F - St = 1071,19
trong đó EXUS là giá trị xuất khẩu tính bằng đô la Mỹ; EXRAT là chỉ số tỷ giá, năm 1995 = 100%; EXPRI là chỉ số giá xuất khẩu tính theo ngoại tệ; PRICE là chỉ số giá tiêu dùng; QE là chỉ số tăng trưởng GDP trung bình trọng số của 18 nước bạn hàng chính; D1992 là biến sốc phản ảnh việc biến động xuất khẩu năm 1992 không giải thích được qua mô hình. Các số liệu trong ngoặc dưới mỗi hệ số phản ảnh sai số chuẩn của từng hệ số. Nhìn vào phương trình trên, chúng ta thấy kết quả ước lượng rất phù hợp với phân tích lý thuyết và thực tế. Các hệ số trong phương trình đều có ý nghĩa tới 99,9%; tức là các biến vế phải đều có ý nghĩa giải thích rất tốt cho biến vế trái (giá trị xuất khẩu). Các số liệu thống kê đều cho thấy chất lượng phương trình rất tốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét