MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG QUÝ
CHƯƠNG II
MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG VĨ MÔ QUÝ MÔ TẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
MỤC 1: MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG LÝ THUYẾT MÔ TẢ HOẠT ĐỘNG NGẮN HẠN CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
Như đã phân tích trong chương I, nền kinh tế Việt nam từ sau cải cách 1989, về cơ bản đã hoạt động theo các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đặc biệt, những phân tích chi tiết hơn cho thấy trong những năm gần đây nền kinh tế Việt nam liên tục ở trong tình trạng cung lớn hơn cầu, sản xuất chậm lại và giá cả trì trệ; phản ánh một sự thật là vai trò của các nhân tố cầu đang càng ngày càng đóng vai trò quyết định với quá trình tăng trưởng ngắn hạn của nền kinh tế Việt nam. Điều này cũng có nghĩa là các hoạt động của nền kinh tế đã và đang đi theo lập luận kinh tế của lý thuyết Keynes. Do đó mô hình kinh tế lượng xây dựng cho nền kinh tế Việt nam nhằm mục tiêu phân tích kinh tế, mô phỏng chính sách và dự báo ngắn hạn sẽ là mô hình kiểu Keynes, tức là yếu tố cầu đóng vai trò trung tâm trong mô hình. Ngoài ra, kinh nghiệm thực tế cho thấy trong các khoảng thời gian ngắn hạn (ví dụ ba tháng đến 1 năm), vốn đầu tư mới thường chưa kịp phát huy ảnh hưởng, hoặc tạo ra những ảnh hưởng rất thấp tới tốc độ tăng trưởng kinh tế, nên việc chọn mô hình cầu theo kiểu Keynes là rất thích hợp đối với mục tiêu phân tích và dự báo ngắn hạn.
Trên cơ sở mục tiêu đề ra là phân tích và dự báo khoảng 20-30 chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chính trên cơ sở khai thác tối đa những nguồn thông tin, số liệu quý tin cậy có thể thu thập được, mô hình sẽ gồm các khối sau:
- Khối thực để xác định các chỉ tiêu vĩ mô của khu vực thực;
- Khối tài chính, tiền tệ và giá cả để xác định các chỉ tiêu của khu vực tài chính;
- Khối ngoại thương để xác định các chỉ tiêu xuất nhập khẩu và quan hệ kinh tế quốc tế.
Quan hệ giữa các khối cũng như giữa các biến trong từng phương trình của mô hình về cơ bản được xác định trên cơ sở những phân tích vĩ mô nêu trong chương I. Tuy nhiên những quan hệ vĩ mô trong chương I chỉ là những quan hệ đơn giữa hai biến kinh tế trong khi đối với cùng một hiện tượng kinh tế xảy ra, có thể còn nhiều biến khác tác động tới và giải thích quá trình diễn ra của nó. Do vậy, khi xây dựng các phương trình trong mô hình dưới đây, bên cạnh biến giải thích chính, sẽ có nhiều biến khác cũng được tham gia vào giải thích biến động của biến cần giải thích trong mỗi phương trình.
Dưới đây là nội dung các phương trình lý thuyết trong mô hình kinh tế lượng dự kiến.
I- KHỐI THỰC
Khối thực bao gồm các chỉ tiêu tín dụng, đầu tư, sản xuất và tiêu dùng. Căn cứ theo kinh nghiệm xây dựng các mô hình kinh tế lượng dựa trên quan điểm Keynes và căn cứ vào các quan hệ cơ bản trong nền kinh tế Việt nam như đã được phân tích trong chương I, các biến trong khối thực được xác định như sau:
1) Tín dụng cho nền kinh tế:
(1) Tổng vốn tín dụng nội địa CREDO:
Về nguồn, vốn tín dụng nội địa được hình thành từ hai nguồn chính: một là tín dụng của các ngân hàng thương mại và hai là tín dụng trực tiếp của Ngân hàng trung ương. Trên thực tế, trong các nền kinh tế thị trường, nguồn vốn thứ hai thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Đối với nước ta, trước cải cách 1989, nguồn vốn tín dụng trực tiếp của Ngân hàng trung ương đã đóng vai trò rất quan trọng để bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ và cấp trực tiếp cho các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, sau năm 1989, khi hệ thống ngân hàng hai cấp được thành lập (12/1988) và các Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Các tổ chức tín dụng được áp dụng (6/1990), tỷ trọng của nguồn tín dụng này giảm rất nhanh. Đến tháng 12/1998, nguồn vốn tín dụng này chỉ còn chiếm 8% trong khi tín dụng của các ngân hàng thương mại chiếm tới 92% tổng tín dụng nội địa. Đặc biệt, từ năm 1993 đến nay, toàn bộ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (không kể phần tín dụng cấp cho các ngân hàng thương mại để cho vay lại) đều được dành để phục vụ hoạt động ngân sách dưới dạng tạm ứng, không cấp trực tiếp cho khu vực doanh nghiệp.
Về sử dụng, nguồn vốn tín dụng nội địa được sử dụng để tài trợ cho hoạt động của khu vực công cộng (gồm Chính phủ và các DNNN) và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ở tầm dài hạn, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tổng cung tín dụng, nhưng ở tầm ngắn hạn, việc xác định tổng giá trị tín dụng nội địa thường rất khác nhau do đặc điểm kinh tế trong mỗi thời kỳ. Nếu như nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, nhu cầu tín dụng cao, thì tổng cung tín dụng sẽ là chiếc van điều tiết tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, và đây chính là vai trò tác động của chính sách tiền tệ. Quan hệ nhân quả đi từ tổng cung tín dụng đến tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế trì trệ, nhu cầu tín dụng của nền kinh tế sẽ thấp; quan hệ nhân quả sẽ đi theo chiều từ tăng trưởng kinh tế đến cầu tín dụng, tức là cầu tín dụng là hàm của tăng trưởng kinh tế.
Ở nước ta, trong những năm gần đây, do nền kinh tế phát triển chậm lại, dẫn tới tổng cầu tín dụng tăng trưởng thấp so với tổng cung; hiện tượng ứ đọng vốn tín dụng đã và đang tiếp tục phát triển phổ biến tại các ngân hàng thương mại. Vì vậy tổng khối lượng tín dụng nội địa được xác định căn cứ vào nhu cầu vay của nền kinh tế trong khi nhu cầu vay của nền kinh tế phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế.
Mặt khác, theo kinh nghiệm thế giới, trong các nền kinh tế thị trường phát triển, hàm cầu tín dụng thường được xây dựng dựa theo tiếp cận tân Keynes, trong đó các quyết định đầu tư, tiêu dùng và vay nợ được xác định đồng thời qua lời giải của bài toán cực đại hoá hàm lợi ích cuả từng tác nhân kinh tế. Đối với các doanh nghiệp, giá trị tổng tài sản quốc gia tích luỹ thường được xem là năng lực chính của các doanh nghiệp. Trong điều kiện nước ta, vì tổng tài sản quốc gia nhỏ và chúng ta chưa có những số liệu thống kê điều tra về tổng tài sản quốc gia nên tạm thời nên sử dụng chỉ tiêu thu nhập hàng năm (đại diện bằng GDP) làm ràng buộc chính đối với các doanh nghiệp khi muốn mở rộng sản xuất. Tăng thu nhập sẽ làm tăng cầu đầu tư qua đó sẽ làm tăng nhu cầu vay tín dụng ngân hàng. Do vậy, phương trình tín dụng cho nền kinh tế nước ta được dự kiến như sau:
CREDO = f (GDP, PRICE)
trong đó GDP là tổng sản phẩm trong nước, tính theo giá cố định; PRICE là chỉ số giá tiêu dùng. Các biến GDP và PRICE có thể được thay bằng biến GDP tính theo giá hiện hành, viết tắt là GDPCU.
(2) Tín dụng cho khu vực công cộng CREPU:
Tín dụng cho khu vực công cộng gồm tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước và tín dụng cho Chính phủ. Trên thực tế, việc phân bổ tổng nguồn vốn tín dụng cho các thành phần kinh tế phụ thuộc rất lớn vào chính sách tín dụng của chính phủ. Trong thập kỷ 90, khoảng 80% nguồn vốn tín dụng quốc gia được thực hiện bởi các ngân hàng thương mại quốc doanh, trong khi Ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý nhà nước thường có những chính sách, cơ chế tác động mạnh tới cơ cấu cho vay của các ngân hàng này. Vì vậy, trong mô hình, việc phân bổ vốn tín dụng cho các đối tượng kinh tế được thực hiện qua hệ số chính sách (1-alfa) như sau:
CREPU = (1 - alfa) * CREDO
trong đó CREPU là tín dụng ngân hàng dành cho khu vực công cộng, tính theo giá hiện hành; alfa là tỷ trong vốn tín dụng dành cho khu vực ngoài quốc doanh. Việc sử dụng hệ số alfa trong phương trình trên sẽ cho phép đánh giá hiệu quả của chính sách can thiệp thông qua tín dụng ngân hàng cũng như ảnh hưởng của việc thay đổi cơ cấu tín dụng giữa các thành phần kinh tế tới các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Trên thực tế, trong thập kỷ 90, tỷ trọng tín dụng ngân hàng dành cho khu vực công cộng đã giảm khá nhanh, từ 90% vào cuối năm 1991 xuống còn khoảng 45% năm 2000. Tuy nhiên, quá trình này không phải đã diễn ra liên tục, tỷ trọng tín dụng trong khu vực công cộng đã tăng lên qua các quý trong suốt năm 1998 và quý 1 năm 1999 do nền kinh tế phát triển chậm lại dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á.
(3) Tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh CREPRI:
Trong thập kỷ 90, do những tồn tại của cơ chế cũ còn khá nặng nề và đặc trưng của quá trình chuyển đổi theo định hướng XHCN nên nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn thường được ưu tiên trước hết để thoả mãn nhu cầu của Chính phủ và khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhằm đảm bảo định hướng phát triển dài hạn của nền kinh tế. Phần còn lại mới được dành cho khu vực ngoài quốc doanh (tư nhân và đầu tư nước ngoài). Do vậy, phương trình xác định vốn cho khu vực ngoài quốc doanh như sau:
CREPRI = alfa * CREDO
trong đó CREPRI là tín dụng ngân hàng dành cho khu vực ngoài quốc doanh, tính theo giá hiện hành.
2) Đầu tư:
Theo phân loại trong các Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê, đầu tư ở nước ta bao gồm ba thành phần: đầu tư của khu vực nhà nước, đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, do trong cách phân loại tín dụng nêu trên, nguồn vốn tín dụng ngoài quốc doanh được hiểu là bao gồm tín dụng cho khu vực tư nhân và cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên ở đây, chúng tôi thay tên phần đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh thành đầu tư của khu vực tư nhân. Các thành phần đầu tư lần lượt được xác định như sau:
(4) Đầu tư của khu vực tư nhân IP:
Theo lý thuyết gia tăng đầu tư trong học thuyết cầu của Keynes, đầu tư của khu vực tư nhân phụ thuộc chủ yếu vào tình hình sản xuất (GDP), nhưng đồng thời trong mỗi thời kỳ cũng có thể phụ thuộc vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng, vào lãi suất tín dụng và vào sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô (đại diện bằng tỷ lệ lạm phát). Những biến thường được đưa vào mô hình xác định đầu tư tư nhân của các nước đang phát triển là thu nhập của dân cư (đại diện bằng GDP, hoặc GDP trừ đi thuế nộp chính phủ), tín dụng ngân hàng (dành cho khu vực tư nhân), lãi suất, và tỷ suất lợi nhuận. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm một số biến khác như chênh lệch tăng trưởng GDP so với xu thế hoặc biến đầu tư của khu vực công cộng nếu đầu tư của khu vực công cộng có tác dụng lôi cuốn đầu tư tư nhân thông qua phát triển cơ sở hạ tầng và những ngành kinh tế mà khu vực tư nhân không đảm đương được.
Theo quan điểm Keynes, những thay đổi trong tổng cung tiền tệ thường ảnh hưởng tới tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thông qua kênh trung gian là lãi suất và chi tiêu của khu vực tư nhân cho đầu tư. Chính vì vậy, trong mô hình vĩ mô, chúng ta không thấy rõ vai trò trực tiếp của chính sách tiền tệ tới tổng cung và tổng cầu, mà qua biến trung gian là lãi suất. Trong chương I, chúng ta đã phân tích và chỉ ra một quan hệ khá rõ giữa lãi suất và đầu tư trong nền kinh tế nước ta. Do vậy, kết hợp với phân tích ở trên, phương trình đầu tư dự kiến được đưa vào mô hình lý thuyết như sau:
IP = f (GDP, PRICE, INTEOUT, CREPRI)
trong đó IP là giá trị vốn đầu tư của khu vực tư nhân; INTEOUT là lãi suất cho vay ngắn hạn kỳ hạn 3 tháng.
Đầu tư của khu vực Nhà nước, ký hiệu là IG, gồm đầu tư chính phủ (vốn ngân sách và vốn tín dụng nhà nước) và đầu tư từ nguồn vốn tự có của các doanh nghiệp Nhà nước; trong đó đầu tư chính phủ chiếm tới trên 70% tổng giá trị đầu tư của khu vực Nhà nước năm 1999. Đặc trưng của nguồn vốn này là phụ thuộc rất lớn vào chính sách của Nhà nước vì một mặt, chính phủ (trung ương và các chính quyền địa phương) vẫn giữ quyền tự quyết định các dự án đầu tư dựa trên các nguồn vốn ngân sách và tín dụng chính phủ, và mặt khác, chính phủ còn có quyền can thiệp khá mạnh tới các dự án đầu tư lớn của các DNNN. Do đó đầu tư của khu vực Nhà nước có thể được xem là biến ngoại sinh trong mô hình. Điều này càng đặc biệt rõ trong các năm từ 1999 đến nay, vì đây là giai đoạn chính phủ đã chủ động triển khai những chương trình kích cầu đầu tư rộng lớn trên cơ sở chấp nhận tăng tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP nhằm chống suy thoái và kích thích tăng trưởng kinh tế.
(5) Đầu tư của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDICU:
Việc dự báo nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thường khó khăn vì biến này không chỉ phụ thuộc vào môi trường đầu tư tại nước ta mà còn phụ thuộc vào các nhân tố quốc tế; trong đó nhóm nhân tố thứ hai thường đóng vai trò quyết định. Do đó, đối với giá trị vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tính bằng ngoại tệ (thống nhất quy đổi sang đô la Mỹ), trong mô hình, dự kiến dự báo theo một trong hai cách sau:
- Vốn đầu tư FDI thực hiện (FDIREA) là hàm của vốn đầu tư FDI đăng ký, trong đó vốn FDI đăng ký tăng trưởng theo một tỷ lệ tăng trưởng ngoại sinh hoặc kịch bản.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tăng trưởng theo tỷ lệ tăng trưởng ngoại sinh, tức là:
FDIREA(t) = FDIREA(-4) * (1+f(t))
trong đó FDIREA(-4) là vốn đầu tư FDI thực hiện của quý 4 năm trước; f(t) là tỷ lệ tăng trưởng của vốn đầu tư FDI thực hiện so với cùng quý năm trước.
Quy đổi ra tiền nội tệ, chúng ta xác định tổng vốn đầu tư nước ngoài tính theo giá hiện hành (FDICU) như sau:
FDICU = FDIREA * EXRAT
trong đó EXRAT là tỷ giá danh nghĩa giữa đồng tiền Việt nam với đồng đô la Mỹ theo nghĩa 1 USD tương ứng với EXRAT đồng Việt nam.
(6) Tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế (đầu tư xã hội) INVES:
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn nền kinh tế là tổng đầu tư của ba khu vực Nhà nước, tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài, do đó chúng ta có phương trình định nghĩa sau:
INVES = IG + IP + FDICU
3) Sản xuất:
(7) Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành GDPCU:
Theo các phân tích trong chương I, từ nhiều năm nay, sản xuất ở nước ta đã được xác định bởi nhu cầu vì một mặt trong các kinh tế thị trường, thông thường nhu cầu dẫn dắt cung (vì vậy lý thuyết Keynes đã được áp dụng phổ biến trên thế giới) và mặt khác nền kinh tế nước ta đã thường xuyên ở trong tình trạng cung lớn hơn cầu. Do đó theo cân đối tài khoản quốc gia, tổng sản phẩm trong nước được tính từ phương trình cân bằng tổng quát sau:
GDPCU = CONSO + INVES + EXPOR - IMPOR
trong đó GDPCU là tổng sản phẩm trong nước, CONSO là tổng tiêu dùng toàn xã hội (tiêu dùng cuối cùng), EXPOR và IMPOR lần lượt là giá trị xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong quý. Các chỉ tiêu này đều được tính theo giá hiện hành. Phương trình (7) phản ánh điều kiện cân bằng trên thị trường: Tổng cung hàng hoá và dịch vụ do nền kinh tế sản xuất ra phải cân đối với tổng cầu dự báo hay kế hoạch hoá trước. Điều này có nghĩa là căn cứ vào các loại nhu cầu khác nhau tạo nên tổng cầu thì các doanh nghiệp mới tiến hành sản xuất để đáp ứng.
(8) Tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh:
Tổng sản phẩm theo giá so sánh (cố định) được xác định bằng cách chia tổng sản phẩm theo giá hiện hành cho chỉ số giá GDP (GDP deflator); đây là phương trình định nghĩa, tức là:
GDP = GDPCU / DEFGDP * 100
trong đó DEFGDP là chỉ số giá GDP; năm 1994 = 100%.
(9) Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng GDP) so với cùng kỳ năm trước:
Đây cũng là phương trình định nghĩa, công thức như sau:
GGDP = (GDP / GDP(-4) -1) * 100
trong đó GGDP là tỷ lệ tăng trưởng GDP tính theo năm (quý hiện tại so với cùng quý năm trước).
Đối với sản xuất của các ngành, dự kiến sẽ xác định sản xuất của các ngành theo phương pháp đơn giản sau: sản xuất của các ngành được dự báo trên cơ sở quan hệ tỷ lệ với sản xuất chung của toàn nền kinh tế. Thực tế, có thể chấp nhận phương pháp này vì một mặt, quan hệ giữa GDP nói chung và giá trị gia tăng của các ngành không phải là quan hệ nhân quả mà chỉ đơn thuần là một quan hệ kế toán: tổng giá trị gia tăng của các ngành hợp thành tổng sản phẩm trong nước. Mặt khác, trong giai đoạn thử nghiệm xây dựng mô hình, chúng ta chỉ muốn tập trung vào những quan hệ kinh tế quan trọng nhất, không muốn mở rộng quy mô của mô hình bằng cách bổ xung các biến cung hoặc cầu để giải thích tiến triển của các chỉ tiêu giá trị gia tăng của các ngành. Ngoài ra, có thể thấy việc mở rộng mô hình như vậy sẽ rất khó khăn do không có đủ những thông tin quý cần thiết. Hơn nữa, trong dự báo ngắn hạn, việc thay đổi cơ cấu kinh tế thường rất thấp, nên việc phương pháp dự báo phát triển ngành nêu trên cũng có ý nghĩa tương tự như dự báo thông qua cơ cấu.
Các phương trình để dự báo giá trị gia tăng của các ngành như sau:
(10) Giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp:
GDPCN = f (GDP)
(11) Giá trị gia tăng của khu vực dịch vụ:
GDPDV = f (GDP)
(12) Giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp:
Sau khi dự báo giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp và dịch vụ (hai ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất), sẽ lấy tổng sản phẩm trong nước trừ đi tổng giá trị gia tăng của hai ngành này để có giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp.
4) Tiêu dùng cuối cùng:
Tiêu dùng cuối cùng gồm hai bộ phân cấu thành: tiêu dùng của Nhà nước và tiêu dùng cá nhân. Phương thức xác định các loại tiêu dùng này rất khác nhau: trong khi tiêu dùng cuối cùng của các cá nhân bao giờ cũng được xem là biến nội sinh thì tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ hầu như luôn luôn được coi là biến ngoại sinh, cụ thể như sau:
(13) Tiêu dùng cuối cùng cá nhân:
Phân tích hành vi của tiêu dùng cuối cùng cá nhân (tiêu dùng cá nhân) ở tầm kinh tế vĩ mô thường dựa vào học thuyết cầu của Keynes, trong đó tiêu dùng cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập sẵn có hiện tại; về mặt toán học điều này có nghĩa là:
CONPRI = a + b * RNDrp
trong đó CONPRI là tiêu dùng cuối cùng của khu vực tư nhân (hộ gia đình); RNDrp là thu nhập sẵn có của khu vực cá nhân. Trong phương trình trên, luôn luôn có giả định: a > 0 và 0 < b < 1
Tiết kiệm tư nhân Srp được xác định như sau:
Srp = RNDrp - CONPRI
Bằng cách thay CONPRI trong phương trình trên vào, chúng ta có:
Srp = RNDrp - (a + b RNDrp) = (1-b) * RNDrp - a
Phương trình nguyên gốc trên thường được sử dụng trong các mô hình kinh tế vĩ mô rất gộp. Đối với những mô hình chi tiết hơn, nó đã được biến đổi cho phù hợp với những phân tích, nghiên cứu thực nghiệm về tiêu dùng và sự phát triển gần đây của lý thuyết về hành vi của tiêu dùng và tiết kiệm tư nhân. Hai lý thuyết chính có tác động lớn tới phương trình dự báo tiêu dùng tư nhân là lý thuyết chu kỳ sống và lý thuyết thu nhập thường xuyên. Theo các lý thuyết này, tăng tiêu dùng sẽ ảnh hưởng tới tiết kiệm tư nhân, từ đó ảnh hưởng tới tiêu dùng tương lai. Phương trình của lý thuyết chu kỳ sống do Modigliani, Brumberg và Ando đưa ra như sau:
CONPRI = a * RNDrp + b * PATrp
trong đó PATrp là giá trị của tổng tài sản của khu vực tư nhân. Theo lý thuyết này, người dân luôn luôn muốn ổn định chi tiêu trong toàn bộ cuộc đời, kể cả khi về hưu, do đó tiêu dùng tư nhân không chỉ phụ thuộc vào thu nhập hiện tại mà còn vào cả tổng giá trị tài sản tích luỹ của họ.
Lý thuyết thu nhập thường xuyên do Milton Friedman khởi xướng lại cho rằng gia đình có mong muốn tiêu dùng ổn định, nhưng thu nhập không ổn định. Hậu quả là tiêu dùng không chỉ là hàm của thu nhập hiện tại mà còn là hàm của thu nhập trung bình mong đợi trên một khoảng thời gian dài; chỉ tiêu đại diện cho thu nhập này là thu nhập thường xuyên. Căn cứ vào quá trình thích nghi trong dự báo kinh tế, có thể thấy thu nhập thường xuyên là trung bình trọng số của thu nhập sẵn có quá khứ với trọng số giảm dần. Sau một số phép tính, chúng ta sẽ đi đến mô hình sau:
CONPRI(t) = a * RNDrp(t) + b * CONPRI(t-1)
trong đó CONPRI(t-1) là tiêu dùng tư nhân của năm trước. Hệ số a là giá trị cận biên của tiêu dùng ngắn hạn; còn a/(1-b) là giá trị cận biên của tiêu dùng dài hạn.
Ngoài 2 phương trình trên, còn một phương trình dạng khác cũng được sử dụng khá phổ biến, được xây dựng theo cách đơn giản hoá từ phân tích thuế và thoả mãn một phần những đòi hỏi của hai lý thuyết trên. Đó là:
CONPRI(t) = a * (GDP - TAX)
trong đó TAX là thuế nộp vào ngân sách nhà nước. Theo tiếp cận này, sẽ không phải tính thu nhập thường xuyên hoặc hiện tại, cho phép đơn giản hoá quá trình tính toán vì việc thu thập số liệu tính hai chỉ tiêu này thường rất khó khăn.
Đối với trường hợp mô hình VQEM ở đây, chúng ta sẽ đi theo tiếp cận của Keynes, trong đó tiêu dùng cá nhân được xác định từ thu nhập và thuế. Tuy nhiên, vì các số liệu thống kê về thu nhập của ta còn chưa rõ ràng và đủ độ tin cậy nên ở đây sẽ sử dụng chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước đã trừ đi phần đóng thuế cho chính phủ làm chỉ tiêu thay thế. Cách làm này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển trong xây dựng các mô hình gộp lớn như trường hợp mô hình đang xây dựng ở đây. Do đó chúng ta sử dụng phương trình sau trong mô hình:
CONPRI = f (GDPCU - REVGO)
trong đó CONPRI là tiêu dùng cá nhân, tính theo giá hiện hành; REVGO là tổng thu ngân sách của chính phủ. Phương trình (13) thể hiện quan điểm của lý thuyết Keynes cho rằng tiêu dùng của các hộ gia đình thuộc khu vực tư nhân được xác định bởi thu nhập sẵn có của họ, tức là từ tổng GDP trừ đi phần thuế đã nộp cho Nhà nước. Trong trường hợp các nước công nghiệp, người ta còn bổ sung các biến đại diện cho tín dụng tiêu dùng, nghĩa là các ngân hàng ứng trước tiền cho khu vực tư nhân để người dân tiêu dùng.
Như vậy, trong mô hình VQEM, khi nền kinh tế chưa sử dụng hết khả năng sản xuất, tổng cầu sẽ xác định mức sản xuất trong khi sản xuất xác định mức đầu tư và tạo ra thu nhập sẵn có của dân cư. Đến lượt mình, thu nhập sẽ xác định tiêu dùng cá nhân, và đây chính là một trong những thành phần quan trọng nhất của tổng cầu. Chính quan hệ chu trình này là nguồn gốc của khái niệm nhân tử trong học thuyết trọng cầu của Keynes.
(14) Tổng quỹ tiêu dùng cuối cùng:
Trong các mô hình Keynes, tiêu dùng chính phủ bao giờ cũng là biến ngoại sinh vì đây là một công cụ chính sách vào loại quan trọng nhất của Chính phủ để tác động vào nền kinh tế. Theo lập luận của Keynes, do nắm trong tay chính sách tiền tệ và chính sách ngân sách, chính phủ có thể quyết định mức chi tiêu ngân sách cho đầu tư và tiêu dùng căn cứ vào dự báo những biến động của tình hình kinh tế nhằm đưa nền kinh tế trở về thế phát triển ổn định, bền vững và phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Vì vậy, các chính sách tiền tệ và tài khoá còn được gọi là những chính sách điều chỉnh kinh tế ngắn hạn, có tác dụng rất mạnh trong việc chống tính chu kỳ nóng, lạnh của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong mô hình ở đây, do đi theo nguyên tắc mô hình cầu của Keynes, chúng ta sẽ để tiêu dùng chính phủ là biến ngoại sinh. Điều này cũng phù hợp với phương thức quản lý kinh tế của Nhà nước ta. Với việc để biến tiêu dùng chính phủ làm biến ngoại sinh, chúng ta có thể mô phỏng và đánh giá được vai trò của chính sách kích cầu của chính phủ trong những năm gần đây.
Vì tiêu dùng chính phủ là biến ngoại sinh, quỹ tiêu dùng cuối cùng toàn xã hội sẽ được xác định trực tiếp từ tính tổng tiêu dùng cuối cùng cá nhân và tiêu dùng cuối cùng của chính phủ:
CONSO = CONPRI + CONGO
trong đó CONGO là tiêu dùng cuối cùng của chính phủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét