NHỮNG NHÂN TỐ CHÍNH TÁC ĐỘNG TỚI KIM NGẠCH NHẬP KHẨU CỦA VN GIAI ĐOẠN 2000-2019
Mục tiêu của chương này là xây dựng và ước lượng mô hình xác định những nhân tố chính giải thích biến động của kim ngạch nhập khẩu hàng hóa nước ta giai đoạn đất nước mở cửa và hội nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới 2000-2019.
Lý thuyết giải thích nguyên nhân biến động của nhập khẩu khá phong phú, song nhìn chung đối với các nước đang phát triển, có hai trường phái giải thích chính và thực tiễn cho thấy đến nay chúng đang rất thành công. Trường phái thứ nhất giải thích tiến triển nhập khẩu theo lý thuyết thương mại quốc tế, căn cứ vào nguyên lý lợi thế tuyệt đối (A. Smith), lợi thế so sánh (D. Ricardo), lợi thế so sánh với các nguồn lực sản xuất vốn có (Hecksher và Ohlin) và những phát triển cao hơn của lý thuyết này trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc gần đây. Có thể gọi đây là trường phái lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại.
Trường phái thứ
hai giải thích nguyên nhân biến động của nhập khẩu căn cứ vào xu hướng phân
công, hợp tác vô cùng sâu sắc giữa các quốc gia hiện nay trong mô hình của lý
thuyết chuỗi giá trị toàn cầu và hội nhập kinh tế toàn diện. Theo lý thuyết
này, mỗi quốc gia nắm một công đoạn của quá trình sản xuất toàn cầu nên đều
phải có xuất và có nhập khẩu. Trước hết là nhập khẩu các công nghệ, máy móc
thiết bị và các linh kiện, chi tiết; sau đó bổ sung, hoàn thiện rồi xuất khẩu
lấy ngoại tệ. Có ngoại tệ từ xuất khẩu, quốc gia đó lại tiếp tục quá trình tái
sản xuất lần 2 là nhập khẩu đầu vào để xuất khẩu đầu ra. Quá trình cứ tuần hoàn
như vậy. Do đó, theo lý thuyết chuỗi giá trị toàn cầu và hội nhập kinh tế toàn diện,
xuất khẩu là một nhân tố quan trọng xác định nhập khẩu. Không có xuất khẩu thì
sẽ không có ngoại tệ để nhập khẩu, đồng thời xuất khẩu và nhập khẩu là quá
trình nối tiếp, tuần hoàn của chu trình chuỗi giá trị toàn cầu.
Thực tiễn cho
thấy các nghiên cứu về thương mại quốc tế, trong đó có nhập khẩu, ở Việt Nam
cũng chủ yếu đi theo cách tiếp cận của hai trường phái này. Một số kết quả
nghiên cứu định tính và nhân quả trong giai đoạn gần đây đều cho thấy nhập khẩu
ngày càng cao ở nước ta trong những năm 2000-2019 vừa có tính chất của lý
thuyết thương mại quốc tế hiện đại, vừa có tính của lý thuyết chuỗi giá trị
toàn cầu.
Do vậy, trong
nghiên cứu này, chúng tôi sẽ kiểm chứng lại các nhân tố chính giải thích biến
động của kim ngạch nhập khẩu hàng hóa nước ta giai đoạn mở cửa và hội nhập mạnh
mẽ 2000-2019 theo hai trường phái lý thuyết trên. Quá trình thực hiện diễn ra
qua hai bước: (i) Xây dựng mô hình lý thuyết; (ii) Ước lượng kinh tế lượng và
giải thích các kết quả thu được.
i- Mô Hình LÝ THUYẾT XÁC ĐỊNH NHỮNG NHÂN TỐ CHÍNH TÁC
ĐỘNG TỚI KIM NGẠCH NHẬP KHẨU Ở NƯỚC TA
1.1
Các lý thuyết xác định những nhân tố chính tác động tới kim ngạch nhập khẩu
1.1.1. Lý thuyết thương
mại quốc tế từ cổ điển đến hiện đại
Mô hình chuẩn
xác định các nhân tố chính tác động tới kim ngạch nhập khẩu của các quốc gia
được xây dựng từ lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại được phát triển trong
những năm 1980 của thế kỷ trước.
Đây là mô hình
được phát triển từ những mô hình lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương
đối (lợi thế so sánh) do các nhà kinh tế học cổ điển người Anh Adam Smith và David
Ricardo đã đưa ra trong nửa cuối thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 nhằm giải thích
tổng quát, chính xác hơn về sự xuất hiện lợi ích trong trao đổi thương mại quốc
tế, tiếp đến được hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển: Eli Hecksher (1879-1852) và
B.Ohlin(1899-1979) trong tác phẩm: “Thương mại liên khu vực và quốc tế”, xuất
bản năm 1933 đã phát triển thêm một bước bằng việc đưa ra mô hình H-O (tên viết
tắt của hai ông) để trình bày lý thuyết ưu đãi về các nguồn lực sản xuất vốn có
(hay lý thuyết H-O). Lý thuyết H-O đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế,
trong đó có nhập khẩu, là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng
tới chuyên môn hoá các ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất
đối với nước đó là thuận lợi nhất đồng thời xuất khẩu những sản phẩm có lợi thế
so sánh này và nhập khẩu những sản phẩm bất lợi thế so sánh..
Nói cách khác,
theo lý thuyết H-O, một số nước bất lợi thế so sánh trong việc sản xuất một số
sản phẩm hàng hoá của mình và do đó phải nhập khẩu từ bên ngoài là do việc sản
xuất những sản phẩm hàng hoá đó đòi hỏi phải sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà
nước đó không có hoặc không được ưu đãi so với nước khác. Chính sự bất lợi thế
về các nguồn tài nguyên, vật lực và các yếu tố sản xuất khác (bao gồm: vốn, lao
động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến cho một số nước có chi phí cơ
hội cao hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) trong sản xuất
những sản phẩm nhất định, dẫn tới phải nhập khẩu.
Như vậy cơ sở lý
luận của lý thuyết H-O vẫn chính là dựa vào lý thuyết lợi thế so sánh của
Ricardo nhưng ở trình độ cao hơn là đã xác định được nguồn gốc của lợi thế so
sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất (các nguồn lực sản xuất ). Và do
vậy, lý thuyết H-O còn được gọi là “lý thuyết lợi thế so sánh từ các nguồn lực
sản xuất vốn có”. Thuyết này đã kế thừa và phát triển một cách logic các yếu tố
khoa học trong lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo và các lý thuyết cổ điển
trước đó về TMQT.
Mặc dù còn có
những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của TMQT ngày
nay, song quy luật H-O vẫn là quy luật chi phối động thái phát triển của TMQT
và được nhiều quốc gia vận dụng trong hoạch định chính sách TMQT. Sự lựa chọn
các sản phẩm xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản
xuất vốn có theo thuyết H-O sẽ là điều kiện cần thiết để các nước đang phát
triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác TMQT, và
trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế ở những nước này.
Về mặt toán học,
mô hình xác định các nhân tố chính tác động tới nhập khẩu của các quốc gia theo
lý thuyết thương mại cổ điển được xây dựng theo lý thuyết cầu, tức là nhập khẩu
phụ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế.
IM = f
(D)
Trong đó M là
nhập khẩu, D là tổng cầu nội địa.
Biến giải thích
trong vế phải có thể là tổng cầu nội địa D. Trong trường hợp này, phương trình
xác định tổng cầu là IM = f(D).
Tuy nhiên, căn
cứ vào đặc trưng nhập khẩu của mỗi nước, biến giải thích trong vế phải có thể
là một hoặc toàn bộ các thành phần của tổng cầu nội địa, gồm tiêu dùng trung
gian trong nước (IC – Intermediate Consumption), tiêu dùng cuối cùng của các hộ
gia đình (C), đầu tư của các hộ gia đình (I) và chi tiêu của chính phủ (G). Khi
đó, phương trình xác định tổng cầu là
IM = f
(IC, C, I, G)
Trong thực tế,
người ta thường sử dụng chỉ tiêu GDP hoặc các thành phần của chúng làm các biến
giải thích trong phương trình xác định nhập khẩu. Do đó, phương trình xác định
các nhân tố chính tác động tới nhập khẩu của các quốc gia theo lý thuyết thương
mại cổ điển là
IM = f
(GDP)
Hoặc IM
= f (C, I, G)
Biến IC thường
không được đưa vào mô hình do số liệu điều tra thống kê không đảm bảo chính
xác.
Tuy nhiên, mô
hình trên chỉ phù hợp cho giai đoạn đến cuối thế kỷ 19. Các phân tích của
Ricardo và bộ đôi Hecksher – Ohlin được xây dựng trong thời đại chế độ tỷ giá
cố định được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới, nhất là trong giai đoạn các
nước thực hiện cam kết theo Hiệp ước Bredtton Woods từ 7/1944 đến tháng 8/1971.
Theo Hiệp ước này, các nước công nhận đồng đô la Mỹ (USD) là phương tiện dự trữ
và thanh toán quốc tế và có thể đổi ra vàng không hạn chế với tỷ giá 35 đôla
một ounce (31,010gram); đồng thời các đồng tiền khác được gắn với đồng đô la Mỹ
theo một tỷ giá cố định. Trong chế độ tỷ giá này, vàng đóng vai trò trung tâm
để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau thông qua chiếc cầu nối là đồng
USD, cho nên người ta còn gọi đây là chế độ tỷ giá ngoại hối vàng (tức là bản
vị vàng- ngoại tệ). Cũng chính vì vậy mà các lý thuyết giải thích thương mại
quốc tế trên chưa tính đến vai trò của tỷ giá.
Trong suốt ba
thập kỷ 1944-1973, nền kinh tế Mỹ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn đáng kể so với
các nền kinh tế Tây Âu và Nhật Bản, dẫn tới cơ cấu kinh tế và sức cạnh tranh
của nền kinh tế Mỹ suy yếu so với các đối tác thương mại. Cán cân thanh toán Mỹ
bội chi liên tục. Mỹ cũng phải chi tiêu nhiều cho các cuộc chiến tranh ở các
nước, nhất là chiến tranh ở Việt Nam. Hậu quả là đồng đôla Mỹ mất giá liên tục.
Kho vàng dự trữ của Mỹ giảm đến mức thấp nhất buộc Mỹ phải đình chỉ đổi đôla
lấy vàng và đình chỉ việc ổn định giá vàng trên thế giới... Tháng 8 năm 1971,
Tổng thống Mỹ Nixson chính thức tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn mọi hình thức chuyển
đổi đôla giấy của Mỹ ra vàng, nên từ tháng 3/1973 toàn thế giới thực hiện chế
độ tỷ giá mới: chế độ tỷ giá thả nổi.
Sự ra đời của chế
độ tỷ giá thả nổi đã đặt ra vấn đề phải tính đến ảnh hưởng của biến động tỷ giá
tới thương mại quốc tế, trong đó có nhập khẩu. Thêm nữa, hai cuộc khủng hoảng
dầu mỏ và các đợt bùng nổ lạm phát cao trên thế giới cũng đòi hỏi phải tính đến
ảnh hưởng của biến động giá cả quốc tế tới thương mại quốc tế, trong đó có nhập
khẩu.
Bối cảnh quốc tế
nêu trên đã làm cho lý thuyết thương mại quốc tế trong nửa cuối thập kỷ 1970 và
trong suốt thập kỷ 1980 thay đổi rõ rệt. Khái niệm tỷ giá thực ra đời và trở
thành trung tâm trong lý thuyết thương mại quốc tế và là công cụ chính trong
tất cả các chương trình ổn định kinh tế và điều chỉnh cơ cấu do Quỹ tiền tệ
quốc tế triển khai tại các nước thành viên, nhất là tại các nước cần vay tiền
của Quỹ.
Edwards S.
(1989) đã tổng hợp lý thuyết thương mại quốc tế được hiện đại hóa và xây dựng
mô hình phân tích các nhân tố tác động tới nhập khẩu của các quốc gia theo quan
điểm dựa trên nhu cầu nhập khẩu và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Theo Edwards,
phương trình xác định các nhân tố chính tác động tới nhập khẩu của các quốc gia
theo lý thuyết thương mại cổ điển cần được bổ sung các biến đại diện cho năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, bao gồm tỷ giá danh nghĩa (NER), giá hàng hóa
trên thị trường quốc tế (P*) và giá hàng hóa trên thị trường nội địa (P).
Rõ ràng khi
khoảng cách giữa giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giá hàng hóa trên thị
trường nội địa càng cao thì hàng hóa trên thị trường quốc tế càng trở nên đắt
hơn so với hàng hóa trên thị trường nội địa, làm cho quốc gia liên quan sẽ giảm
nhập khẩu, tăng cường sản xuất hàng hóa trong nước (rẻ hơn) để thay thế hàng
nhập khẩu. Ngược lại, khi giá hàng hóa trên thị trường quốc tế càng trở nên rẻ
hơn so với giá hàng hóa trên thị trường nội địa, thì quốc gia liên quan sẽ càng
tăng nhập khẩu và càng giảm sản xuất hàng hóa trong nước. Như vậy, nhập khẩu có
quan hệ âm với giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và có quan hệ dương với giá
hàng hóa trên thị trường nội địa.
Đối với tỷ giá
danh nghĩa, lý thuyết tỷ giá đã khẳng định khi nội tệ bị mất giá so với ngoại
tệ, nếu giá cả trong nước không đổi, hàng hóa trong nước sẽ trở nên rẻ hơn so
với hàng hóa nhập khẩu. Khi đó sẽ làm giảm tỷ suất lợi nhuận của người nhập
khẩu, qua đó làm giảm nhập khẩu. Ngược lại, khi nội tệ lên giá so với ngoại tệ,
nếu giá cả trong nước không đổi, hàng hóa trong nước sẽ trở nên đắt hơn so với
hàng hóa nhập khẩu. Khi đó sẽ làm tăng tỷ suất lợi nhuận của người nhập khẩu,
qua đó làm tăng nhập khẩu. Như vậy, tỷ giá (quan cách niêm yết của châu Âu là
số đơn vị tiền tệ trong nước đổi được 1 đơn vị tiền tệ nước ngoài) có quan hệ
âm với nhập khẩu.
Mô hình xác định
các nhân tố giải thích biến động của nhập khẩu theo lý thuyết thương mại mới
như sau
IM = f
(NER, P*, P)
Trong đó NER là
tỷ giá danh nghĩa, P* là giá hàng hóa trên thị trường quốc tế tính theo ngoại
tệ và P là giá hàng hóa trên thị trường nội địa tính theo nội tệ. Dấu của các
hệ số ước lượng đối với NER và P* âm trong khi dấu của hệ số ước lượng đối với
P dương.
Nếu gọi tỷ giá
thực (ký hiệu là RER) là giá tương đối giữa giá hàng hóa trên thị trường quốc
tế và giá hàng hóa trên thị trường nội địa, thì
RER = NER
. P* / P
Theo công thức
trên, khi tỷ giá thực tăng lên, nội tệ được định giá thấp; giá hàng hóa trong
nước sẽ trở lên rẻ hơn so với giá hàng hóa trên thị trường quốc tế, làm cho
nhập khẩu giảm xuống. Ngược lại, khi RER giảm xuống, nội tệ được định giá cao
so với ngoại tệ, hàng hóa trong nước sẽ trở nên đắt hơn so với hàng hóa nhập
khẩu, làm cho nhập khẩu tăng lên. Phương trình xác định quan hệ như sau
IM = f
(RER)
Với dấu của hệ
số ước lượng đối với RER âm.
Kết hợp các biến
giải thích biến động của nhập khẩu trong mô hình cổ điển nêu trên, chúng ta đi
đến phương trình cuối cùng của lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại như sau
IM = f
(GDP, RER)
Hoặc IM = f
(C, I, G, RER)
1.1.2. Lý thuyết hội
nhập kinh tế quốc tế và tác động của xuất khẩu tới nhập khẩu
a) Chủ nghĩa tân tự do mới
Chủ nghĩa tân tự do (Neo-Liberalism) ra
đời trong những năm 1980 sau khi hợp tác giữa các quốc gia trở thành xu thế chủ
đạo của chính trị quốc tế. Đặc biệt chủ nghĩa tân tự do với xu hướng hội nhập vùng trong những năm 1980 và nửa đầu thập kỷ 1990 đã phát triển mạnh
thành Chủ nghĩa tân tự do mới trong đó hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu và toàn diện kể
từ 1995 với sự ra đời của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là nhân tố trung tâm. Ba đặc trưng nổi bật từ khi xuất hiện WTO năm
1995 là
(i) Không cần
nhà nước hoặc giảm tối thiểu vai trò quản lý của nhà nước ở tầm quốc gia cũng
như tầm quốc tế trong hội nhập kinh tế quốc tế;
(ii) Thương mại
quốc tế được quản lý bằng các thỏa thuận, cam kết quốc tế. Số hiệp định thương
mại quốc tế và nhất là số hiệp định thương mại tự do tăng vọt. Khác với trường phái tự do cổ điển và hiện đại tập trung vào câu hỏi đối nội, chủ đề chính của chủ nghĩa tân tự do mới là các thể chế, định chế, quy tắc, luật pháp chung ở tầm quốc tế và sự tương tác của các yếu tố này với lựa
chọn chính sách của mỗi nhà nước trong trật tự thế giới mới (trật tự hình thành sau
sự sụp đổ của khối Liên Xô). WTO nằm ở vị trí trung tâm trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện
các quy tắc, luật pháp quốc tế chung này.
(iii) Thế
giới trở nên “vô
chính phủ”, tức
là không có một quyền lực nhà nước nào vượt
trội hẳn lên,
đóng vai trò “siêu nhà nước” để điều phối, tổ chức và chế tài quan hệ giữa các
quốc gia. Mỹ dù là nước hùng mạnh nhất thế giới, cũng chỉ có một phiếu biểu quyết khi xây dựng các luật lệ áp dụng chung
cho cả thế giới. Đây là một trong những giả định quan trọng nhất của lý thuyết quan hệ quốc tế. Giả định này cho rằng nền chính trị thế giới
không tồn tại một quyền lực siêu quốc gia với vai trò tương tự như nhà nước
trong nền chính trị đối nội của các quốc gia. Do đó, không có nước bá quyền
trong quan hệ kinh tế quốc tế; tất cả đều bình đẳng trước luật lệ chung.
Tại sao các quốc gia chấp nhận tổ chức và tham gia các
thể chế quốc tế? Rõ ràng việc gia nhập một tổ chức quốc tế và theo đuổi con đường hợp tác quốc tế đồng
nghĩa với việc các nhà
nước phải chấp nhận từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia và tự giới hạn khuôn khổ hành động của mình.
Để trả lời câu hỏi trên, trường phái tân tự
do mới đưa ra nhiều lập luận. Một trong những điểm quan trọng nhất là các chính
phủ sẽ phải
trả một cái giá cao hơn rất nhiều nếu không tham gia, hoặc tham gia chậm trễ hơn vào hợp tác quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ các thể chế quốc
tế. Nếu chấp nhận giới hạn phần nào chủ quyền hành động,
các quốc gia có thể hợp tác hỗ trợ nhau làm tăng hiệu năng công việc và giảm phí tổn gánh chịu một mình trong việc giải quyết
vấn đề.
Thông qua
các thể chế (institutions) và định chế (regimes) đa phương, các quốc gia cam kết chặt chẽ với
nhau nhằm thúc đẩy
hợp tác quốc tế. Thể
chế hay các định chế đa phương – theo lập luận của một trong những tác giả
đại diện chủ nghĩa tân tự do mới là Robert Keohane – có thể cung
cấp thông tin cho các bên tham gia hợp tác, góp phần giảm tình trạng “thông tin
bất đối xứng”, qua đó giúp các bên phần nào hiểu rõ nhau hơn và có thể xây dựng
các kỳ vọng về hành vi của nhau. Các
thể chế quốc tế cũng giúp giảm chi phí giao dịch trong quá trình giải quyết các
vấn đề chung, đồng thời tạo
ra một khuôn khổ mang tính pháp lý để điểu chỉnh hành vi của mỗi chủ thể tham
gia trong hợp tác kinh tế
quốc tế. Chính vì vậy, việc hình thành, theo
đuổi và giải quyết công việc thông qua các thể chế hay luật pháp quốc tế chung là một cách tiếp cận
giúp tiến tới mô hình quản trị toàn cầu. Việc hình thành các thể chế quốc tế cũng thể hiện
mong muốn của các nước
để tạo ra một khung khổ (quy tắc) ứng xử cho các mối quan hệ quốc tế, với nền tảng là
pháp luật quốc tế và các chuẩn tắc thay vì dùng vũ lực hay đe dọa dùng sức mạnh.
b)
Tác động của xuất khẩu tới nhập khẩu
Điểm nổi bật trong lý thuyết hội
nhập kinh tế quốc tế từ sau năm 1995 là mô hình chuỗi giá trị toàn cầu. Dựa trên quan điểm của Michael Porter, năm 2002
hai nhà khoa học Mỹ là Raphael Kaplinsky và Mike Morris đã đưa ra khái niệm: "Chuỗi giá trị toàn cầu là một dây chuyền sản xuất kinh doanh
theo phương thức toàn cầu hoá trong đó có nhiều nước tham gia, chủ yếu là các
doanh nghiệp tham gia vào các công đoạn khác nhau từ thiết kế chế tạo tiếp thị
đến phân phối và hỗ trợ người tiêu dùng".
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD (2013) còn đưa ra định nghĩa
cụ thể hơn về chuỗi giá trị toàn cầu, theo đó: “Chuỗi giá trị toàn cầu là toàn
bộ quá trình sản xuất hàng hóa, từ nguyên liệu thô cho tới thành phẩm, được thực
hiện ở bất cứ nơi nào mà kỹ năng và nguyên liệu cần thiết để sản xuất đều có sẵn
tại mức giá cả cạnh tranh cũng như đảm bảo chất lượng thành phẩm”.
Cụ thể,
chuỗi cung ứng thương mại hay chuỗi giá trị toàn cầu thương mại là dòng hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư, đào tạo và chuyển giao (know- how) được chu chuyển giữa
các quốc gia, trong đó, lao động gắn liền với chuỗi giá trị toàn cầu (Baldwin
and Lopez Gonzalez,
2013).
Thực tế, chuỗi giá trị toàn cầu là một cách tiếp cận mới, toàn
diện hơn về phân công lao động quốc tế, nghĩa là bất kì doanh nghiệp nào có
tham gia vào quá trình sản xuất một sản phẩm xuất khẩu đều có thể coi là đã
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp
cận phân công lao động quốc tế theo chuỗi giá trị toàn cầu sẽ giúp các doanh
nghiệp hiểu rõ hơn về vị trí của mình trên thị trường thế giới, để có thể chủ động
lựa chọn công đoạn tham gia phù hợp nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn.
Một chuỗi giá trị toàn cầu được phân chia giữa nhiều doanh nghiệp và
không gian địa lý khác
nhau. Chẳng hạn, chi tiết của một
chiếc điện thoại
của hãng
Sam Sung sử
dụng lao động và vật liệu từ nhiều nhà cung cấp ở nhiều nước khác nhau, sau đó được đưa tới lắp
ráp ở Việt Nam
và cuối cùng được đưa đi bán ở khắp
nơi trên thế giới. Do đó, chuỗi giá trị toàn cầu là chuỗi giá trị đặc biệt mà lợi ích được phân
chia giữa nhiều doanh nghiệp và trải rộng qua một số khu vực, quốc gia.
Các quan
điểm về chuỗi giá trị toàn cầu đều kết gắn quá trình xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ với nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ, theo quan điểm khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu sẽ phải gia tăng nhập khẩu để gia công, chế biến
làm hàng xuất khẩu theo yêu cầu của chuỗi cung ứng; sau đó từ thu nhập từ xuất
khẩu sẽ lại nhập khẩu để tái sản xuất trong vòng tiếp theo.
Những nghiên cứu đầu tiên từ năm 2000 đặt nền móng cho khái niệm chuỗi
giá trị toàn cầu thường chú trọng tới “giá trị gia tăng trong thương mại”, thuật
ngữ được ra đời cùng với hiện tượng chuyên môn hóa theo chiều dọc. “Giá trị gia
tăng trong thương mại được hiểu là giá trị hàng hóa trung gian nhập khẩu có
trong giá trị hàng hóa xuất khẩu của quốc gia” (Hummels et al, 2001), hay hàm
lượng nhập khẩu có trong xuất khẩu.
Những nghiên cứu lý thuyết và thực
nghiệm của Daudin et al. (2006- 2009), Escaith (2008), và Koopman et al. (2010)
đều cho rằng chuỗi giá trị toàn cầu phải bao gồm hàm lượng nhập
khẩu có trong xuất khẩu (giá trị quá khứ- backward participation), nhưng bổ
sung thêm phần giá trị gia tăng nội địa (domestic value added), chính là phần đầu
vào trung gian được sử dụng ở quốc gia thứ ba để xuất khẩu tiếp (giá trị tương
lai - forward participation).
Việt Nam từ sau được Mỹ xóa bỏ cấm vận kinh tế (1994) và thiết lập quan
hệ ngoại giao (1995), rồi gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (1995) đã tích
cực tham gia quá trình hội nhập kinh tế. Đặc biệt, Việt Nam đã gia nhập rất nhiều
tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế, trong đó có Tổ chức thương mại quốc tế (2006).
Do đó, Việt Nam đã tham gia vào khá nhiều chuỗi cung ứng quốc tế.
Mặt khác, do trình độ phát triển thấp, Việt Nam thiếu các ngành cung ứng
đầu vào, nhất là thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ, nên để gia tăng xuất khẩu,
Việt Nam phải gia tăng nhập khẩu đầu vào. Ngược lại, khi nhu cầu mua hàng Việt
Nam của người nước ngoài tăng lên, Việt Nam cũng lại phải gia tăng nhập khẩu đầu
vào để sản xuất hàng xuất khẩu. Quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt
Nam có tính nhân quả, tức là phải có nhập thì mới có xuất và để nhập khẩu được,
cần phải có xuất thì mới có ngoại tệ để nhập khẩu.
Vì vậy, biến xuất khẩu được đưa vào phương trình nhập khẩu trong mô hình
của chủ nghĩa
tân tự do mới và điều này cũng phù hợp với Việt Nam. Phương trình cụ thể như sau
IM
= f (EX)
Trong đó EX là xuất khẩu, tính theo ngoại tệ.
1.1.3. Mô hình xác định những nhân tố chính tác động tới kim
ngạch nhập khẩu ở nước ta
Như đã phân tích
trong chương I, những kết quả nghiên cứu định tính và nhân quả trong giai đoạn từ
năm 2000 đến nay cho thấy nhập khẩu ở Việt Nam vừa phát triển theo quan điểm
của lý thuyết thương mại quốc tế hiện đại, vừa phát triển theo quan điểm của
chủ nghĩa tân tự do mới.
Thực tế chúng ta
đều thấy, khi nền kinh tế trong nước càng phát triển, thu nhập và đời sống của
người dân tăng lên thì nhu cầu nhập khẩu cũng tăng lên. Do đó GDP có tác động
tới nhập khẩu. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam có độ mở cửa vào loại cao nhất
thế giới (năm 2019 riêng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa đã lớn hơn gấp
đôi GDP), nên các biến tỷ giá danh nghĩa, giá thị trường quốc tế và giá trên
thị trường trong nước đều có tác động mạnh tới nhập khẩu. Do đó, kết hợp lại
cho thấy tỷ giá thực có tác động tới nhập khẩu. Chính vì vậy mà tất cả các biến
giải thích nhập khẩu trong mô hình thương mại quốc tế hiện đại đều cần được đưa
vào mô hình xác định nhập khẩu của Việt Nam.
Mặt khác, như phân tích trong mục trên, các nhân
tố xác định nhập khẩu theo lý thuyết tự do mới cũng có thể tác động mạnh tới nhập
khẩu của Việt Nam. Căn cứ những đặc
điểm khái quát nêu trên, chúng tôi cho rằng cần phải xây dựng một mô hình hỗn
hợp để giải thích tiến triển của nhập khẩu ở Việt Nam trong giai đoạn
2000-2019, trong đó bao gồm tất cả các nhân tố của mô hình thương mại quốc tế
hiện đại và các nhân tố của mô hình của chủ nghĩa tân tự do mới. Một mô hình
như vậy sẽ phản ánh tốt hơn thực tiễn nhập khẩu ở Việt Nam. Sử dụng mô hình hỗn
hợp này có thể biết nguyên nhân của nhập khẩu ở Việt Nam là do nhu cầu trong
nước (GDP) và sức cạnh tranh về giá của hàng hóa sản xuất nội địa (RER) hay do
nhu cầu có đầu vào để làm hàng xuất khẩu (EX) hay cả hai loại nhân tố này. Mô
hình lý thuyết hỗn hợp để nghiên cứu nhập khẩu như sau:
IM = f
(GDP, RER, EX)
Hoặc IM
= f (C, I, G, RER, EX)
Như vậy, bước
xây dựng mô hình lý thuyết đã hoàn thành, dưới đây chúng ta sẽ ước lượng mô
hình và trên cơ sở đó xác định những nhân tố chính giải thích biến động của kim
ngạch nhập khẩu hàng hóa nước ta giai đoạn đất nước mở cửa và hội nhập mạnh mẽ
vào nền kinh tế thế giới 2000-2019. Để đơn giản và phù hợp với khuôn khổ của
khóa luận tốt nghiệp đại học, chúng tôi chỉ ước lượng mô hình dạng tổng quát là
phương trình IM = f (GDP, RER, EX).
1.2.
Xác định tỷ giá thực
1.2.1. Tỷ giá danh
nghĩa đa phương
Trong nghiên cứu
kinh tế, người ta thường sử dụng ba loại tỷ giá chính: Tỷ giá song phương (nominal
bilateral exchange rate - NER), tỷ giá đa phương (nominal effective exchange
rate - NEER) và tỷ giá thực (real exchange rate – RER). Tỷ giá song phương là
giá trị một đơn vị tiền tệ của một nước tính bằng tiền của một nước khác, nói
cách khác đó là số lượng đơn vị tiền tệ quốc gia cần thiết để mua một đơn vị
tiền tệ nước ngoài. Như vậy, tỷ giá song phương thực chất cũng là một giá, song
là loại giá đặc biệt vì tỷ giá song phương nối liền mức giá trong nước với giá
cả quốc tế và có ảnh hưởng rất lớn tới rất nhiều loại giá sản phẩm cụ thể cũng
như toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của đất nước. Chính vì vậy, người ta luôn
luôn coi tỷ giá như là loại giá cả quan trọng nhất trong nền kinh tế và chính
phủ phải có chính sách riêng đối với tỷ giá.
Tuy nhiên trong
thực tiễn quản lý kinh tế, việc sử dụng tỷ giá danh nghĩa song phương thường bị
phê phán vì nó chỉ phản ánh quan hệ đơn giản giữa đồng tiền quốc gia với một
đồng tiền nước ngoài trong khi do quan hệ buôn bán quốc tế đa dạng, một đồng
tiền quốc gia bao giờ cũng có nhiều tỷ giá với các loại ngoại tệ khác nhau, ví
dụ đồng tiền Việt nam vừa có tỷ giá với đồng đô la Mỹ, vừa có tỷ giá với đồng
Euro châu Âu, đồng CHF Thụy Sĩ, đồng đô la Úc, đồng Yên Nhật... Nếu chỉ sử dụng
tỷ giá song phương của đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ thì sẽ không
phản ánh được quan hệ kinh tế thương mại đa dạng của nước ta với bên ngoài vì
đồng tiền Việt Nam có thể mất giá so với đồng đô la, làm cho sức cạnh tranh của
hàng trong nước tăng lên, dẫn tới giảm nhập khẩu; song đồng thời lại có thể lên
giá so với đồng Euro và đồng Yên làm cho sức cạnh tranh của hàng trong nước
giảm xuống, dẫn tới tăng nhập khẩu. Khi đó rất khó kết luận biến động tỷ giá đã
làm sức cạnh tranh của hàng trong nước tăng hay giảm so với hàng nước ngoài, và
do đó không thể kết luận chính sách tỷ giá danh nghĩa song phương đang khuyến
khích hay hạn chế nhập khẩu.
Vì vậy, từ cuối những
năm 70, các nước trên thế giới thường sử dụng tỷ giá danh nghĩa đa phương trong
nghiên cứu xây dựng các chính sách kinh tế. Tỷ giá đa phương được tính dưới
dạng chỉ số, là trung bình trọng số của các chỉ số tỷ giá song phương của đồng
tiền nước đó đối với đồng tiền của các đối tác thương mại và đầu tư quan trọng
nhất. Về lý thuyết, trọng số là tỷ trọng của các đồng tiền nước ngoài trong
tổng số tiền thanh toán trong giao dịch ngoại thương của nước đó. Do vậy, nếu
các chỉ số tỷ giá song phương của đồng tiền Việt Nam so với các ngoại tệ khác
là ERi, thì tỷ giá danh nghĩa đa phương của đồng tiền Việt Nam so
với đồng tiền của các đối tác kinh tế chính (nominal effective exchange rate,
viết tắt là NEER) sẽ được tính theo công thức trung bình cộng:
hay theo công thức trung bình nhân:
Trong đó n là số
đối tác thương mại và đầu tư quan trọng nhất; thông thương sẽ chọn ra một số
nước chính và số nước còn lại được gộp chung thành một nước cuối.
Si là tỷ trọng
giá trị đồng tiền nước i được sử dụng trong tổng giá trị thanh toán cho các giao
dịch ngoại thương của nước ta. Dĩ nhiên tổng các Si bằng 1. Trên thực tế, do
hạn chế về số liệu, người ta sử dụng cơ cấu xuất nhập khẩu phân theo nước làm
tỷ trọng đại diện cho Si. Khi đó
Trong đó EXi
và IMi lần lượt là kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam với
nước i.
Hai loại tỷ giá NER
và NEER là các tỷ giá danh nghĩa. Khi phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa, sẽ
làm tăng giá tính theo nội tệ của các hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế
được so với giá thành sản xuất ra chúng, đồng thời cũng làm giá hàng nhập khẩu
tăng lên so với giá hàng sản xuất trong nước, từ đó làm giảm tỷ suất lợi nhuận
của việc sản xuất và kinh doanh hàng nhập khẩu, dẫn tới hạn chế nhập khẩu.
Tuy nhiên phá
giá thường gây hậu quả lạm phát. Nếu tỷ lệ lạm phát nước ta cao hơn tỷ lệ lạm
phát ở nước ngoài thì giá hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được tính theo
nội tệ sẽ trở nên đắt hơn so với giá hàng nhập khẩu, gây ảnh hưởng tiêu cực tới
xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Chính vì tác dụng hai mặt trên của phá giá
danh nghĩa như trên mà từ cuối những năm 70, người ta phải sử dụng khái niệm tỷ
giá thực phản ánh hiệu quả tổng hợp của phá giá và lạm phát tới sức cạnh tranh
của hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của mỗi nước.
1.2.2. Tỷ giá thực (đa
phương)
Trước hết chúng
ta nhắc lại khái niệm giá tương đối. Giá tương đối là giá của một hàng hóa này
so với giá của hàng hóa khác. Điều này tương đương với “cần bao nhiêu chiếc
bánh ga tô để đổi được một chiếc ô tô Toyota ?”.
Trong kinh tế,
các quyết định sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của các tác nhân kinh tế được
xây dựng căn cứ vào giá tương đối chứ không phải giá tuyệt đối. Do vậy, giá
tương đối là nhân tố cơ bản của kinh tế thị trường: Chúng phát đi những tín
hiệu có tác dụng kích thích, hướng dẫn người tiêu dùng và người sản xuất thích
nghi, điều chỉnh hành vi của họ theo tiến triển của thị trường.
Tiếp theo, chúng
ta phân chia các hàng hóa và dịch vụ thành hai loại lớn:
(i) Các
HH&DV có thể đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường quốc tế được, có
người chấp nhận mua chúng dù chúng có thể được tiêu thụ trong nước hay xuất
khẩu, gọi chung là các hàng hóa và dịch vụ thương mại quốc tế được (tradable
goods).
(ii) Các
HH&DV không thể đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường quốc tế được, gọi
tắt là các hàng hóa và dịch vụ không thương mại quốc tế được (non - tradable
goods). Đây là những hàng hóa và dịch vụ chỉ có thể tiêu dùng trong nước do
nhiều lý do, ví dụ như không thể vận chuyển ra nước ngoài được (ví dụ nhà cửa
bất động sản, dịch vụ cắt tóc gội đầu...) hoặc có thể vận chuyển ra nước ngoài
nhưng hoàn toàn không thể tìm được người mua trên thị trường quốc tế (ví dụ xi măng, sắt thép, bàn ghế... có chất
lượng kém, không tìm được người chấp nhận mua dù người bán sẵn sàng bán với giá
rất rẻ)...
Tỷ giá thực là
giá tương đối của hàng hoá và dịch vụ thương mại quốc tế được so với hàng hoá
và dịch vụ không thương mại quốc tế được. Về toán học, nó được xác định theo
công thức:
trong đó RER là
tỷ giá thực, Pt và Pnt lần lượt là giá hàng hoá và dịch
vụ thương mại và không thương mại quốc tế được, cả hai giá này đều được tính
bằng tiền nội địa.
Trên thực tế,
rất khó để phân biệt HH&DV thương mại và không thương mại quốc tế được. Do
đó người ta coi HH&DV thương mại quốc tế được là HH&DV xuất nhập khẩu
hay HH&DV được mua bán trên thị trường quốc tế, tính theo giá quốc tế; còn
HH&DV không thương mại quốc tế được là HH&DV sản xuất và sử dụng trong
nước, tính theo giá trong nước.
Như vậy RER
chính là chỉ tiêu so sánh giá quốc tế và giá trong nước. Nếu RER =100 (%) thì
giá cả trong nước bằng giá cả trên thị trường quốc tế, tức là sức cạnh tranh
của hàng trong nước ngang với hàng nước ngoài; do đó không có nhu cầu xuất nhập
khẩu. Tỷ giá thực này được gọi là tỷ giá thực cân bằng. Khi RER giảm xuống dưới
mức tỷ giá thực cân bằng, giá hàng hóa trong nước sẽ cao hơn so với giá quốc
tế, dẫn tới khuyến khích nhập khẩu. Đây là trường hợp có sự đánh giá cao giá
trị đồng tiền quốc gia so với các đồng tiền nước ngoài hay là có hiện tượng
đánh giá cao tỷ giá thực.
Ngược lại một sự
tăng lên của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá hàng xuất nhập khẩu tăng nhanh
hơn giá hàng mua bán trên thị trường nội địa, kéo theo tăng sức cạnh tranh của
nền kinh tế. Khi đó tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu sẽ tăng lên trong khi tỷ lệ tăng
trưởng nhập khẩu giảm đi. Vốn, lao động và các nguồn lực khác sẽ bị thu hút vào
khu vực làm hàng xuât khẩu và thay thế nhập khẩu, làm sản xuất của khu vực này
tăng lên nhanh hơn so với tỷ lệ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Ngược
lại, khi đồng tiền trong nước bị đánh giá cao, giá hàng nội địa sẽ tăng nhanh
hơn giá hàng xuất nhập khẩu, ảnh hưởng tiêu cực tới xuất khẩu trong khi lại
khuyến khích nhập khẩu. Vốn, lao động và các nguồn lực khác sẽ bị thu hút vào
khu vực sản xuất tự cung tự cấp, giảm sản xuất trong khu vực làm hàng xuât khẩu
và thay thế nhập khẩu. Như vậy, biến động của tỷ giá thực có ảnh hưởng rất lớn
tới thay đổi cơ cấu sản xuất và hệ thống giá nội địa, và chính vì vậy mà chính
sách tỷ giá luôn luôn là điểm trọng tâm trong tất cả các chương trình ổn định
kinh tế và điều chỉnh cơ cấu do các tổ chức tài chính quốc tế chủ trương.
Tử số của công
thức trên có thể được viết thành Pi = NER * Pi,
trong đó Pi là giá tính theo ngoại tệ của các hàng hoá và dịch vụ
thương mại quốc tế được, thường được xác định theo giá thế giới, và NER là tỷ
giá danh nghĩa, đa phương hoặc song phương tuỳ hoàn cảnh số liệu. Thay vào công
thức trên với tỷ giá danh nghĩa đa phương NEER, ta có :
RER = NEER * Pi
/ Pnt (3)
Tuy
nhiên, thay vì dùng công thức (3), người ta sử dụng công thức xấp xỉ sau đây:
RER = NEER * Pe /
Pd (4)
trong đó Pd
là chỉ số giá nội địa, đại diện cho giá hàng hoá và dịch vụ không thương mại
quốc tế được, và Pe là chỉ số giá hàng hoá và dịch vụ trung bình của
các nước bạn hàng. Pd và Pe có thể là giá tiêu dùng hoặc
giá GDP. Theo công thức trên, nếu tỷ giá danh nghĩa không đổi, nhưng giá thế
giới tăng 5% và mặt bằng giá trong nước tăng 15% thì tỷ giá thực sẽ giảm 8,7%
(105%/115%-100=-8,7%). Khi đó đồng tiền nội địa sẽ được xem là bị đánh giá cao
8,7% so với thời điểm trước mặc dù tỷ giá danh nghĩa không thay đổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét