Cơ hội WTO đi qua, ngổn ngang ở lại
Rất nhãn tiền
Theo báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO” mà Bộ Kế hoạch & Đầu tư vừa mới công bố, tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2011, tức 5 năm sau khi gia nhập WTO thua sút giai đoạn 2002-2006, tức 5 năm trước khi vào WTO, về nhiều mặt. Từ xuất khẩu, nhập khẩu, GDP đến đầu tư toàn xã hội… tất cả đều có mức tăng trưởng kém hơn trước.
Thật ra tình hình không đơn giản như thế.
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 1-2007. Sự hào hứng của giới đầu tư nước ngoài và dân kinh doanh trong nước đã tạo ra những kỷ lục ngay trong năm đó. Tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng kỷ lục ở mức 53,9% theo giá thực tế. Nhìn lại mức tăng chỉ vài ba phần trăm hiện nay mới thấy đây là con số khó tưởng tượng nổi. Mức tăng tín dụng này đã phần nào biến tiền ảo thành tiền thật.
Trước khi vào WTO, giá đủ loại tài sản ở Việt Nam đã tăng vọt. Chủ các công ty đang làm ăn bình thường bỗng một hôm thức dậy thấy tài sản của mình được định giá gấp 5, 10 lần (mà từ phổ biến lúc đó gọi là 5 chấm, 10 chấm). Vào WTO, quả bong bóng tài sản này càng phình to rất nhanh. Không hiếm công ty niêm yết trên sàn có giá cổ phiếu gấp mấy chục lần mệnh giá như FPT (665.000 đồng), SJS (728.000 đồng). ACB (292.000 đồng)…
Theo báo cáo “Đánh giá tổng thể tình hình kinh tế xã hội Việt Nam sau 5 năm gia nhập WTO” mà Bộ Kế hoạch & Đầu tư vừa mới công bố, tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2007-2011, tức 5 năm sau khi gia nhập WTO thua sút giai đoạn 2002-2006, tức 5 năm trước khi vào WTO, về nhiều mặt. Từ xuất khẩu, nhập khẩu, GDP đến đầu tư toàn xã hội… tất cả đều có mức tăng trưởng kém hơn trước.
Thật ra tình hình không đơn giản như thế.
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 1-2007. Sự hào hứng của giới đầu tư nước ngoài và dân kinh doanh trong nước đã tạo ra những kỷ lục ngay trong năm đó. Tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng kỷ lục ở mức 53,9% theo giá thực tế. Nhìn lại mức tăng chỉ vài ba phần trăm hiện nay mới thấy đây là con số khó tưởng tượng nổi. Mức tăng tín dụng này đã phần nào biến tiền ảo thành tiền thật.
Trước khi vào WTO, giá đủ loại tài sản ở Việt Nam đã tăng vọt. Chủ các công ty đang làm ăn bình thường bỗng một hôm thức dậy thấy tài sản của mình được định giá gấp 5, 10 lần (mà từ phổ biến lúc đó gọi là 5 chấm, 10 chấm). Vào WTO, quả bong bóng tài sản này càng phình to rất nhanh. Không hiếm công ty niêm yết trên sàn có giá cổ phiếu gấp mấy chục lần mệnh giá như FPT (665.000 đồng), SJS (728.000 đồng). ACB (292.000 đồng)…
Tiền ảo trên sàn chuyển sang tiền ảo bất động sản, giá nhà đất tăng vọt từng ngày, từng giờ, làm ai nấy đều “phấn khởi” vì biến thành tỷ phú trong chốc lát. Sự giàu có trên sàn chứng khoán hay địa ốc dù sao cũng là ảo (trừ phi bán đi cho người khác) nhưng định giá cho nó thì không ảo chút nào. Và dựa trên sự định giá cao ngất đó, ngân hàng đã cho vay vô tội vạ trong khi vẫn tưởng mình đang cầm cái chuôi trong tay là vật thế chấp đang lên giá đều đều. Tín dụng đã biến tiền ảo thành tiền thật đổ vào nền kinh tế là thế.
Xã hội giàu lên nên nhập khẩu tăng vọt đến 40% trong năm 2007 (lại một kỷ lục mới), nhập siêu hàng hóa tăng mạnh, đạt 14,2 tỷ đô-la vào năm 2007 và 18,0 tỷ đô-la năm 2008. Thế nhưng đồng tiền vẫn không hề mất giá; thậm chí còn lên giá trong một thời gian từ tháng 10-2007 đến tháng 4-2008. Đó là bởi dòng tiền nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2007 ngay sau khi có tin Việt Nam trở thành thành viên WTO: vốn đầu tư trực tiếp tăng kỷ lục đến 93,4% so với năm trước (5,6 tỷ đô-la); vốn gián tiếp cũng đổ vào đến 6,5 tỷ đô-la. Cán cân tổng thể thặng dư đến 10,2 tỷ đô-la. Một kỷ lục khác của năm này là mức đầu tư toàn xã hội tăng đến 46,5%. Tất cả những yếu tố đó đã giúp GDP có mức tăng kỷ lục trong năm 2007 – 8,5%, cao nhất so với 10 năm trước đó.
Và ở đây đã xuất hiện phép thử rất nghiệt ngã: nếu mọi người bình tĩnh tận dụng hết những lợi thế vừa mới xuất hiện trong năm 2007, năm đầu tiên sau gia nhập WTO để đi vào sản xuất kinh doanh theo thế mạnh của từng người, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu, để đầu tư chiều sâu, thâm nhập thị trường nội địa thì mọi chuyện đã khác. Đằng này bong bóng tài sản hào nhoáng quá, sức hút của sự làm giàu trong chốc lát nhờ chứng khoán, địa ốc, ngân hàng lớn quá, mọi người bỏ sở trường nhảy vào sở đoản và mọi chuyện hư sự từ đây.
Thị trường chứng khoán là nơi phản ánh rõ nét cơ hội đã vụt qua như thế nào: sau khi đạt đỉnh 1.170 điểm vào đầu năm 2007, thị trường đã lình xình lên xuống, rồi nhanh chóng tụt dốc từ tháng 10-2007, xuống đáy còn 235 điểm vào tháng 2-2009.
Nhưng như những con bạc khát nước, cộng với gói kích cầu của chính phủ lên đến xấp xỉ 9 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2009, mọi người, kể cả các doanh nghiệp nhà nước vẫn lao vào cuộc chơi: đầu tư vào địa ốc nhờ mối quan hệ với chính quyền địa phương và làm sân sau cho các ngân hàng thương mại; đầu tư tài chính vào các công ty con, công ty cháu; hùn vốn mở ngân hàng, tiếp tục cho vay vô tội vạ. Khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát cùng thời điểm làm tình hình chuyển biến nhanh, sự suy thoái ngày càng hiển hiện.
Hậu quả thì ai cũng rõ: Lạm phát tăng liên tục, đạt đỉnh 28,3% vào tháng 8-2008; Nợ xấu bùng phát mà con số chính thức cho đến nay vẫn chưa xác định; Các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như Vinashin, Vinalines đổ vỡ; Thị trường địa ốc đóng băng, thị trường chứng khoán không hồi phục nổi; Hàng loạt doanh nghiệp tư nhân phá sản, ngưng hoạt động. Đau nhất là nhận xét của báo cáo: “Dường như gia nhập WTO chưa mang lại lợi ích đáng kể đối với tăng trưởng xuất khẩu, hoặc doanh nghiệp nước ta chưa tận dụng được đáng kể cơ hội mới từ các nền kinh tế thành viên WTO”. Tổng quát hơn, cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn 5 năm sau WTO giảm sút hơn nhiều so với 5 năm trước WTO.5 năm tới
Lúc nào nhìn lại cũng dễ hơn nhìn tới. Nhưng có một điều có thể đoán chắc, tư cách thành viên WTO không gây ra những điều nói trên: nó chỉ là chất xúc tác, đẩy nhanh quá trình phát triển nếu đi đúng hướng và đẩy nhanh xuống vực suy thoái nếu chọn sai con đường. Thứ hai, chúng ta đang ở giai đoạn giải quyết hậu quả nên chưa thể nói chắc tương lai 5 năm sắp tới sẽ như thế nào.
Tuy nhiên một số xu hướng cũng đã dần dần hình thành khá rõ nét: Trong khi khu vực trong nước đang lao đao vì hậu quả chạy theo bong bóng thì khối đầu tư nước ngoài đã có những sự bức phá ngoạn mục tiếp tục tận dụng được cơ hội WTO từ phía họ. Dần dà những cam kết của Việt Nam như mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính, logistics đã được nhà đầu tư nước ngoài nắm lấy: các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chiếm thị phần ngày càng lớn; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI ngày càng tăng trong khi trong nước lại đang giảm.
Cũng do cam kết giảm thuế nên một số nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ việc sản xuất tại Việt Nam cho thị trường Việt Nam (để tận dụng ưu đãi thuế trước đây) mà chuyển sang nhập khẩu (vì chênh lệch thuế không còn đáng kể nữa). Ngược lại cũng một số doanh nghiệp FDI khác chọn Việt Nam làm cơ sở sản xuất cho dây chuyền tiêu thụ toàn cầu của họ, đúng y bài bản của việc tận dụng đúng cách WTO.
Riêng nước ta, cho đến bây giờ vẫn còn loay hoay tìm một chiến lược hậu WTO mà trong nhiều trường hợp lại thất bại. Lấy ví dụ, để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, Việt Nam tham gia Công ước Berne, các nhà xuất bản đã biết mua bản quyền thay vì dịch lậu. Nhưng cũng từ đó mới có chuyện cân nhắc giá rẻ, nhiều nhà xuất bản đã quay sang mua bản quyền từ Trung Quốc. Thế là nảy sinh vấn nạn chất lượng sách, sách in cờ Trung Quốc, sách dạy tiếng Anh mà toàn nói chuyện văn hóa Trung Quốc…
Cuộc khủng hoảng vừa qua cũng có mặt tốt của nó khi mỗi doanh nghiệp không còn hào hứng vô căn cứ như ngày xưa nữa, nay phải tự mình thiết kế chiến lược WTO cho mình.
Riêng ở tầm mức vĩ mô, cũng không thể kỳ vọng gì nhiều vì ngay chính đề án tái cơ cấu nền kinh tế vừa mới ban hành cũng đã nhận được nhiều góp ý, đòi sửa lại nhiều điều, thậm chí là viết lại.
Chỉ biết có những bài học từ cuộc khủng hoảng mà cho đến nay tính thời sự vẫn còn nóng hổi. Ví dụ, giảm mức tăng tín dụng là tốt để giới ngân hàng từ từ xử lý những năm tháng nôn nóng cho vay tràn lan, có lúc có ngân hàng cho vay đến 250% vốn huy động. Tại sao cứ khăng khăng đòi ngân hàng phải cho vay ồ ạt, phải tăng tín dụng lên nhanh, phải giảm lãi suất khi tài chính chưa vững?
Hay ví dụ, để tăng xuất khẩu, không chỉ tập trung tìm cách tăng sản lượng mà còn phải nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thay vì xuất thô titan, hãy đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để tăng giá trị hàng xuất khẩu. Công cụ trong tay nhà nước là thuế, đánh thuế cao nguyên liệu xuất thô và khuyến khích giảm thuế nếu xuất hàng tinh chế. Xét ở góc độ này, câu trả lời nên ứng xử như thế nào với khoáng sản bauxite từng gây nhiều tranh cãi e đã rất rõ – để đó cho con em khai thác và chế biến trong tương lai chứ không xuất thô và gánh chịu lỗ lã như bây giờ.Có lẽ câu nói của Adam Smith, nhà kinh tế kinh điển nổi tiếng, nay càng thấm thía hơn cả: “Sự thịnh vượng của thế giới không phải được mua bằng vàng hay bạc – nó được tạo ra bởi lao động” – đơn giản vậy thôi
Nguyễn Vạn Phú
(Blog Nguyễn Vạn Phú)
Xã hội giàu lên nên nhập khẩu tăng vọt đến 40% trong năm 2007 (lại một kỷ lục mới), nhập siêu hàng hóa tăng mạnh, đạt 14,2 tỷ đô-la vào năm 2007 và 18,0 tỷ đô-la năm 2008. Thế nhưng đồng tiền vẫn không hề mất giá; thậm chí còn lên giá trong một thời gian từ tháng 10-2007 đến tháng 4-2008. Đó là bởi dòng tiền nước ngoài chảy mạnh vào Việt Nam trong năm 2007 ngay sau khi có tin Việt Nam trở thành thành viên WTO: vốn đầu tư trực tiếp tăng kỷ lục đến 93,4% so với năm trước (5,6 tỷ đô-la); vốn gián tiếp cũng đổ vào đến 6,5 tỷ đô-la. Cán cân tổng thể thặng dư đến 10,2 tỷ đô-la. Một kỷ lục khác của năm này là mức đầu tư toàn xã hội tăng đến 46,5%. Tất cả những yếu tố đó đã giúp GDP có mức tăng kỷ lục trong năm 2007 – 8,5%, cao nhất so với 10 năm trước đó.
Và ở đây đã xuất hiện phép thử rất nghiệt ngã: nếu mọi người bình tĩnh tận dụng hết những lợi thế vừa mới xuất hiện trong năm 2007, năm đầu tiên sau gia nhập WTO để đi vào sản xuất kinh doanh theo thế mạnh của từng người, tận dụng cơ hội để mở rộng thị trường xuất khẩu, để đầu tư chiều sâu, thâm nhập thị trường nội địa thì mọi chuyện đã khác. Đằng này bong bóng tài sản hào nhoáng quá, sức hút của sự làm giàu trong chốc lát nhờ chứng khoán, địa ốc, ngân hàng lớn quá, mọi người bỏ sở trường nhảy vào sở đoản và mọi chuyện hư sự từ đây.
Thị trường chứng khoán là nơi phản ánh rõ nét cơ hội đã vụt qua như thế nào: sau khi đạt đỉnh 1.170 điểm vào đầu năm 2007, thị trường đã lình xình lên xuống, rồi nhanh chóng tụt dốc từ tháng 10-2007, xuống đáy còn 235 điểm vào tháng 2-2009.
Nhưng như những con bạc khát nước, cộng với gói kích cầu của chính phủ lên đến xấp xỉ 9 tỷ đô-la Mỹ vào năm 2009, mọi người, kể cả các doanh nghiệp nhà nước vẫn lao vào cuộc chơi: đầu tư vào địa ốc nhờ mối quan hệ với chính quyền địa phương và làm sân sau cho các ngân hàng thương mại; đầu tư tài chính vào các công ty con, công ty cháu; hùn vốn mở ngân hàng, tiếp tục cho vay vô tội vạ. Khủng hoảng tài chính thế giới bùng phát cùng thời điểm làm tình hình chuyển biến nhanh, sự suy thoái ngày càng hiển hiện.
Hậu quả thì ai cũng rõ: Lạm phát tăng liên tục, đạt đỉnh 28,3% vào tháng 8-2008; Nợ xấu bùng phát mà con số chính thức cho đến nay vẫn chưa xác định; Các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn như Vinashin, Vinalines đổ vỡ; Thị trường địa ốc đóng băng, thị trường chứng khoán không hồi phục nổi; Hàng loạt doanh nghiệp tư nhân phá sản, ngưng hoạt động. Đau nhất là nhận xét của báo cáo: “Dường như gia nhập WTO chưa mang lại lợi ích đáng kể đối với tăng trưởng xuất khẩu, hoặc doanh nghiệp nước ta chưa tận dụng được đáng kể cơ hội mới từ các nền kinh tế thành viên WTO”. Tổng quát hơn, cũng theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, chất lượng tăng trưởng kinh tế giai đoạn 5 năm sau WTO giảm sút hơn nhiều so với 5 năm trước WTO.5 năm tới
Lúc nào nhìn lại cũng dễ hơn nhìn tới. Nhưng có một điều có thể đoán chắc, tư cách thành viên WTO không gây ra những điều nói trên: nó chỉ là chất xúc tác, đẩy nhanh quá trình phát triển nếu đi đúng hướng và đẩy nhanh xuống vực suy thoái nếu chọn sai con đường. Thứ hai, chúng ta đang ở giai đoạn giải quyết hậu quả nên chưa thể nói chắc tương lai 5 năm sắp tới sẽ như thế nào.
Tuy nhiên một số xu hướng cũng đã dần dần hình thành khá rõ nét: Trong khi khu vực trong nước đang lao đao vì hậu quả chạy theo bong bóng thì khối đầu tư nước ngoài đã có những sự bức phá ngoạn mục tiếp tục tận dụng được cơ hội WTO từ phía họ. Dần dà những cam kết của Việt Nam như mở cửa thị trường ngân hàng, tài chính, logistics đã được nhà đầu tư nước ngoài nắm lấy: các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chiếm thị phần ngày càng lớn; xuất khẩu của doanh nghiệp FDI ngày càng tăng trong khi trong nước lại đang giảm.
Cũng do cam kết giảm thuế nên một số nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ việc sản xuất tại Việt Nam cho thị trường Việt Nam (để tận dụng ưu đãi thuế trước đây) mà chuyển sang nhập khẩu (vì chênh lệch thuế không còn đáng kể nữa). Ngược lại cũng một số doanh nghiệp FDI khác chọn Việt Nam làm cơ sở sản xuất cho dây chuyền tiêu thụ toàn cầu của họ, đúng y bài bản của việc tận dụng đúng cách WTO.
Riêng nước ta, cho đến bây giờ vẫn còn loay hoay tìm một chiến lược hậu WTO mà trong nhiều trường hợp lại thất bại. Lấy ví dụ, để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, Việt Nam tham gia Công ước Berne, các nhà xuất bản đã biết mua bản quyền thay vì dịch lậu. Nhưng cũng từ đó mới có chuyện cân nhắc giá rẻ, nhiều nhà xuất bản đã quay sang mua bản quyền từ Trung Quốc. Thế là nảy sinh vấn nạn chất lượng sách, sách in cờ Trung Quốc, sách dạy tiếng Anh mà toàn nói chuyện văn hóa Trung Quốc…
Cuộc khủng hoảng vừa qua cũng có mặt tốt của nó khi mỗi doanh nghiệp không còn hào hứng vô căn cứ như ngày xưa nữa, nay phải tự mình thiết kế chiến lược WTO cho mình.
Riêng ở tầm mức vĩ mô, cũng không thể kỳ vọng gì nhiều vì ngay chính đề án tái cơ cấu nền kinh tế vừa mới ban hành cũng đã nhận được nhiều góp ý, đòi sửa lại nhiều điều, thậm chí là viết lại.
Chỉ biết có những bài học từ cuộc khủng hoảng mà cho đến nay tính thời sự vẫn còn nóng hổi. Ví dụ, giảm mức tăng tín dụng là tốt để giới ngân hàng từ từ xử lý những năm tháng nôn nóng cho vay tràn lan, có lúc có ngân hàng cho vay đến 250% vốn huy động. Tại sao cứ khăng khăng đòi ngân hàng phải cho vay ồ ạt, phải tăng tín dụng lên nhanh, phải giảm lãi suất khi tài chính chưa vững?
Hay ví dụ, để tăng xuất khẩu, không chỉ tập trung tìm cách tăng sản lượng mà còn phải nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Thay vì xuất thô titan, hãy đầu tư xây dựng nhà máy chế biến để tăng giá trị hàng xuất khẩu. Công cụ trong tay nhà nước là thuế, đánh thuế cao nguyên liệu xuất thô và khuyến khích giảm thuế nếu xuất hàng tinh chế. Xét ở góc độ này, câu trả lời nên ứng xử như thế nào với khoáng sản bauxite từng gây nhiều tranh cãi e đã rất rõ – để đó cho con em khai thác và chế biến trong tương lai chứ không xuất thô và gánh chịu lỗ lã như bây giờ.Có lẽ câu nói của Adam Smith, nhà kinh tế kinh điển nổi tiếng, nay càng thấm thía hơn cả: “Sự thịnh vượng của thế giới không phải được mua bằng vàng hay bạc – nó được tạo ra bởi lao động” – đơn giản vậy thôi
Nguyễn Vạn Phú
(Blog Nguyễn Vạn Phú)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét