Việt Nam được mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?
Trần Kinh Nghị, blog Trần Kính Nghị
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường sẽ đến Việt Nam ngày 13/10 trong một chuyến thăm chính thức cấp cao nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới 1979. Sự trùng hợp ngẫu nhiên của chuyến thăm vào thời gian quốc tang của vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp, biểu tượng cuối cùng của thế hệ chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam khiến người ta liên tưởng đến một điềm báo trong quan hệ Việt-Trung. Sự trùng hợp này có thể gây ra một vài khó khăn trong việc thu xếp nghi thức sao cho phù hợp và tránh gây hiểu nhầm, nhưng là thời điểm chín mùi để người Việt Nam nhìn lại quá trình đã qua và định hình mối quan hệ với nước lớn láng giềng phương Bắc trong tương lại. Bài viết ngắn này không có tham vọng trình bày cặn kẻ toàn bộ chủ đề rộng lớn này mà chỉ đề cập một khía cạnh thiết thực: Việt Nam được-mất gì từ quan hệ với Trung Quốc?Quan hệ bất bình đẳng
Nhiều người coi sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam đã hoàn thành bằng việc đánh đuổi thực dân Pháp và can thiệp Mĩ. Nhưng thực ra đó chỉ là một giai đoạn của toàn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn chưa hoàn thành kể từ thời kỳ "nghìn năm Bắc thuộc". Lập luận này không phải là vô lý, nhất là nếu biết rằng đó là cách hiểu phổ biến của người Trung Quốc, điển hình là Giáo sư-tiến sĩ Vương Hàn Lĩnh khi ông này hùng hồn tuyên bố trước Hội thảo quốc tế về Biển Đông tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 10/2010: “Cho đến năm 1885, Việt Nam vẫn là thuộc quốc của Trung Quốc”. Và ông ta sử dung luận điểm này để biện minh cho đường ranh giới dứt đoạn hình lưỡi bò bao trọn 80% diện tích Biển không khác một hàng rào thô sơ dựng lên bởi một gã địa chủ tham lam trong vườn nhà người hàng xóm!.
Điều trớ trêu là đường lưỡi bò này vừa được Bắc Kinh lôi ra từ sọt rác tư liệu vốn chỉ là một đường chấm phá ngẫu hứng của một viên sĩ quan thời Tưởng Giới Thạch. Rõ ràng cách hiểu này cho thấy tại sao Bắc Kinh đã rất sẵn sàng hậu thuẫn Việt Nam chống Pháp, Nhật, Mĩ và cả Nga tại chiến trường Việt Nam. Đó cũng là lý do tại sao sau chiến thắng và thống nhất năm 1975, Việt Nam đã lập tức bị chính người đồng chí phương Bắc tấn công từ biên giới Tây Nam lên biên giới phía Bắc, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa. Nếu không vì ảo vọng khôi phục bá quyền thì Bắc kinh đã không hành động như vậy.
Về phần mình, người Việt Nam tự hào đã đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ và coi đó là hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.Ngay sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đánh giá (đại ý): Từ nay không kẻ nào dám đánh Việt Nam nữa! Nhưng nhận định đó đã mau chóng tỏ ra là viễn vông khi nước nước lớn láng giềng phương Bắc vẫn còn đó với đầy đủ dã tâm khôi phục vị thế vương triều đã có trước thời Pháp thuộc. Đó là nội dung sâu xa của bài học mà nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã muốn "dạy" người Viêt Nam.
Tóm lai, có đầy đủ chứng cứ để nói rằng, không chỉ thời Vương triều mà trong thời đại Xã hội chủ nghĩa, người Trung Quốc vẫn tiếp tục coi Việt Nam là phiên thuộc, và rõ rang có khác nhau trong hiểu về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa hai nước. Từ sự khác biệt này, rất khó (nếu không nói là không thể) có mối quan hệ thật sự bình đẳng và lành mạnh giữa hai nước. Nó không giống quan hệ Mỹ - Mêhicô, cũng không giống quan hệ Mỹ-Cu Ba....mà là một loại quan hệ gượng ép, trong đó phía Việt Nam dù luôn cố tỏ ra khiêm nhường theo kiểu "tránh voi chẳng xấu mặt nào" nhưng khi phía Trung Quốc bao giờ cũng muốn áp đặt và khuất phục.
Muốn độc lập và phát triển Việt Nam phải giữ khoảng cách trong quan hệ với nước lớn phương Bắc
Vẫn biết do thế đất trời và do quan hệ truyền thống lâu đời, người Việt Nam không thể không giao hữu với láng giêng phương Bắc. Nhưng đó là quan hệ để tồn tại hơn là để phát triển . Người Việt có câu ngạn ngữ mang tính thực dụng: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" đồng thời cũng không quên lối ví von bỗ bã mà thâm thúy: "Xa thơm, gần thối". Có lẽ hai câu ngạn ngữ đó hợp thành một thứ triết lý sống giúp người Việt Nam trong ứng xử với nước lớn phương Bắc. Mặt khác, các chí sĩ thuộc nhiều thế hệ người Việt vẫn luôn đau đáu tìm lối thoát qua các phong trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục hay "thoát Á" và hiện nay là phương châm "Làm bạn với tất cả".
Về phần mình, người Việt Nam tự hào đã đánh bại thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mĩ và coi đó là hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.Ngay sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đánh giá (đại ý): Từ nay không kẻ nào dám đánh Việt Nam nữa! Nhưng nhận định đó đã mau chóng tỏ ra là viễn vông khi nước nước lớn láng giềng phương Bắc vẫn còn đó với đầy đủ dã tâm khôi phục vị thế vương triều đã có trước thời Pháp thuộc. Đó là nội dung sâu xa của bài học mà nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình đã muốn "dạy" người Viêt Nam.
Tóm lai, có đầy đủ chứng cứ để nói rằng, không chỉ thời Vương triều mà trong thời đại Xã hội chủ nghĩa, người Trung Quốc vẫn tiếp tục coi Việt Nam là phiên thuộc, và rõ rang có khác nhau trong hiểu về chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ giữa hai nước. Từ sự khác biệt này, rất khó (nếu không nói là không thể) có mối quan hệ thật sự bình đẳng và lành mạnh giữa hai nước. Nó không giống quan hệ Mỹ - Mêhicô, cũng không giống quan hệ Mỹ-Cu Ba....mà là một loại quan hệ gượng ép, trong đó phía Việt Nam dù luôn cố tỏ ra khiêm nhường theo kiểu "tránh voi chẳng xấu mặt nào" nhưng khi phía Trung Quốc bao giờ cũng muốn áp đặt và khuất phục.
Muốn độc lập và phát triển Việt Nam phải giữ khoảng cách trong quan hệ với nước lớn phương Bắc
Vẫn biết do thế đất trời và do quan hệ truyền thống lâu đời, người Việt Nam không thể không giao hữu với láng giêng phương Bắc. Nhưng đó là quan hệ để tồn tại hơn là để phát triển . Người Việt có câu ngạn ngữ mang tính thực dụng: "Bán anh em xa, mua láng giềng gần" đồng thời cũng không quên lối ví von bỗ bã mà thâm thúy: "Xa thơm, gần thối". Có lẽ hai câu ngạn ngữ đó hợp thành một thứ triết lý sống giúp người Việt Nam trong ứng xử với nước lớn phương Bắc. Mặt khác, các chí sĩ thuộc nhiều thế hệ người Việt vẫn luôn đau đáu tìm lối thoát qua các phong trào Duy tân, Đông kinh nghĩa thục hay "thoát Á" và hiện nay là phương châm "Làm bạn với tất cả".
Giờ đây sau khi đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, người Việt Nam chợt nhận ra rằng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ vẫn tiếp tục bị đe dọa bởi "nước ngoài"- một cách diễn đạt mơ hồ vì lý do tâm lý và chính trị dù ai cũng biết nó đến từ phương Bắc. Đây thực sự là một nghịch lý đối với bản thân người Việt Nam chừng nào vẫn tin rằng thế núi liền núi sông liền sông buộc mối quan hệ Việt-Trung muôn đời không thể khác. Đồng thời, trãi qua "nghìn năm Bắc thuộc" và "trăm năm Pháp thuộc" người Việt Nam nhận ra rằng không sự lệ thuộc ngoại bang nào là tốt cả, nhưng trong thời kỳ Pháp thuộc bờ cõi đất nước được giữ vững từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau, từ Hoàng Sa xuống Trường Sa.
Về cơ hội phát triển cũng thấy hiện tượng tương tự, đó là các cơ sở hạ tầng và công-thương nghiệp (dù hạn chế do "cách bóc lột bủn xỉn" của người Pháp) vẫn tạo ra sự khác biệt so với thời Vương triều. Thực tế cũng cho thấy viện trợ từ Trung Quốc chỉ giúp Việt Nam tiến hành chiến tranh nhưng không giúp Việt Nam phát triển. Nền kinh tế Việt Nam chỉ thực sự khởi sắc sau khi bị Trung Quốc cắt viện trợ. Khi hai nước "bình thường hóa quan hệ" lại xuất hiện tình trạng trì trệ, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ và khoa học-kĩ thuật, vì Trung Quốc toàn đưa sang những máy móc, trang thiết bị lạc hậu cùng các thủ đoạn kiềm chế vốn có của họ. Dự án khai thác bauxit Tây Nguyên và hàng loạt các công trình nhiệt điện, khai thác tài nguyên khoáng sản v.v... là những ví dụ.
Sự tràn ngập hàng hóa thứ cấp rẽ tiền và hàng có độc tố xuyên qua biên giới đang thực sự đe dọa nền kinh tế Việt Nam. Trong cơn sốt vốn đầu tư hiện nay, không loại trừ khả năng một ngày kia nhà máy, hầm mỏ, ruộng đồng, rừng, biển sẽ rơi vào tay các ông chủ Trung Quốc.
Đã đến lúc để giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân Việt nam phải tỉnh táo nhận ra nguy cơ càng xích gần với Trung Quốc sẽ càng hạn chế cơ hội tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Về điểm này Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á là những quốc gia đã có thể phát triển vượt trội do biết giữ khoản cách cần thiết với Trung Quốc. Trong khi đó Việt Nam đã đánh mất những cơ hội do lấn bấn không thể thể thoát khỏi vòng cương tỏa của ông bạn lớn phương Bắc. Tuy vây, cơ hội vẫn còn đó, và nên nhớ rằng dù được coi là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc vẫn là nước lạc hậu về công nghệ.
Đề phòng bẩy "chia để trị"
Xin quay lại với chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với diễn biến tình hình tranh chấp Biển Đông đang có lợi cho "giấc mơ Trung Hoa" khi nước Mĩ chìm sâu vào khủng hoảng khiến Chính phủ Liên bang phải đóng cửa ngừng hoạt động....do hết tiền tiêu (!), đến nỗi bản thân Tổng thống Obama không thể tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAC) và Hội nghị cấp cao APEC 21 .
Đã đến lúc để giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân Việt nam phải tỉnh táo nhận ra nguy cơ càng xích gần với Trung Quốc sẽ càng hạn chế cơ hội tiếp cận với thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Về điểm này Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước Đông Nam Á là những quốc gia đã có thể phát triển vượt trội do biết giữ khoản cách cần thiết với Trung Quốc. Trong khi đó Việt Nam đã đánh mất những cơ hội do lấn bấn không thể thể thoát khỏi vòng cương tỏa của ông bạn lớn phương Bắc. Tuy vây, cơ hội vẫn còn đó, và nên nhớ rằng dù được coi là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, Trung Quốc vẫn là nước lạc hậu về công nghệ.
Đề phòng bẩy "chia để trị"
Xin quay lại với chuyến thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên với diễn biến tình hình tranh chấp Biển Đông đang có lợi cho "giấc mơ Trung Hoa" khi nước Mĩ chìm sâu vào khủng hoảng khiến Chính phủ Liên bang phải đóng cửa ngừng hoạt động....do hết tiền tiêu (!), đến nỗi bản thân Tổng thống Obama không thể tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAC) và Hội nghị cấp cao APEC 21 .
Ngược lại, Trung Quốc sau khi gặt hái được nhiều thành quả kinh tế tài chính, giờ đây có thể tung ra để "mua" các đối tác khu vực đang đói vốn và thực hiện âm mưu chia rẽ nội bộ khối ASEAN. Nhà lãnh đạo Tập Cận Bình đã dẽ dàng đạt được thỏa thuận hợp tác quy mô lớn với Indonessia, trong đó có hiệp định đánh cá xuyên biển Đông, đồng thời kí đối tác chiến lược với Malaysia vốn là những địa bàn nhậy cảm do nhân tố người Hoa. Đến nay với Thái Lan, Lào, Singapore đã được "tranh thủ" và Campuchia bị khống chế bởi Bắc Kinh, chỉ còn Philipin và Việt Nam là hai nạn nhân đang chật vật tìm cách riêng của mình để đối phó với kẻ thù chung. Có thể nói Bắc Kinh đã cơ bản hoàn thành ý đồ "chia để trị" đối với khối ASEAN - điều mà cách đây vài năm tưởng còn rất xa vời. Trong khi đó chủ trương "xoay trục" của Mĩ tỏ ra không khác nào "đánh trống bỏ dùi".
Trong bối cảnh nêu trên, không khó để dự đoán về sứ mệnh của chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường là nhằm hoàn thiện chiến dịch chia để trị theo kịch bản đã hình thành từ chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam và được "follow up" bằng việc giảm cường độ lấn chiếm trên biển khiến người ta nhầm tưởng rằng đó là sự thực tâm đáp lại thái độ khiêm nhường của giới lãnh đạo Việt Nam. Nói cách khác, Bắc Kinh đang chủ động thực hiện kịch bản mà họ đã dàn dựng nhằm kéo dài thời gian chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho mục tiêu độc chiếm Biển Đông. Trong kịch bản này Bắc Kinh muốn ràng buộc Việt Nam dùi giữa vị thế một vai diễn chính cũng phải diễn theo kịch bản của họ. Về quan hệ song phương thuần túy, chưa biết khách mang theo những gì trong hầu bao, nhưng chắc chắn là mục đích chính sẽ là "nắn dòng" Việt Nam vào vùng ảnh hưởng Trung Quốc.
Xem ra chuyến thăm của Lý Khắc Cường mang đến cho Việt Nam nhiều điềm xấu hơn là điềm tốt và sẽ một phép thử đối với giới lãnh đạo Việt Nam trong trong việc lựa chọn chiến lược của đất nước trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may, đó là sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang đánh thức tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của cả dân tộc. Đó là sự tái hiện hiếm hoi sau nhiều năm vắng bóng sự đồng tâm, đồng lòng của toàn thể dân tộc trước vận nước và điều này góp phần hóa giãi những mưu toan của kẻ thù, nhắc nhỡ giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân đề cao cảnh giác và tĩnh táo trong đàm phán ký kết./.
Trong bối cảnh nêu trên, không khó để dự đoán về sứ mệnh của chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường là nhằm hoàn thiện chiến dịch chia để trị theo kịch bản đã hình thành từ chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch nước Việt Nam và được "follow up" bằng việc giảm cường độ lấn chiếm trên biển khiến người ta nhầm tưởng rằng đó là sự thực tâm đáp lại thái độ khiêm nhường của giới lãnh đạo Việt Nam. Nói cách khác, Bắc Kinh đang chủ động thực hiện kịch bản mà họ đã dàn dựng nhằm kéo dài thời gian chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho mục tiêu độc chiếm Biển Đông. Trong kịch bản này Bắc Kinh muốn ràng buộc Việt Nam dùi giữa vị thế một vai diễn chính cũng phải diễn theo kịch bản của họ. Về quan hệ song phương thuần túy, chưa biết khách mang theo những gì trong hầu bao, nhưng chắc chắn là mục đích chính sẽ là "nắn dòng" Việt Nam vào vùng ảnh hưởng Trung Quốc.
Xem ra chuyến thăm của Lý Khắc Cường mang đến cho Việt Nam nhiều điềm xấu hơn là điềm tốt và sẽ một phép thử đối với giới lãnh đạo Việt Nam trong trong việc lựa chọn chiến lược của đất nước trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may, đó là sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang đánh thức tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của cả dân tộc. Đó là sự tái hiện hiếm hoi sau nhiều năm vắng bóng sự đồng tâm, đồng lòng của toàn thể dân tộc trước vận nước và điều này góp phần hóa giãi những mưu toan của kẻ thù, nhắc nhỡ giới lãnh đạo chính trị và giới doanh nhân đề cao cảnh giác và tĩnh táo trong đàm phán ký kết./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét