Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

(4) CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD

CÁC CÂN ĐỐI VÀ QUAN HỆ VĨ MÔ CHỦ YẾU CỦA NỀN KTQD
      C) Cân đối tiền tệ:
1) Vai trò của cân đối tiền tệ:
Cân đối tiền tệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các phân tích kinh tế vĩ mô vì hai lý do:
- Trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, gần như tất cả các hoạt động kinh tế, trao đổi, dù là hàng hoá hay tài chính, đều được thanh toán bằng tiền. Hơn nữa, cân đối tiền tệ của các ngân hàng phản ảnh kết quả hoạt động và thanh toán của và giữa các khu vực kinh tế, xã hội.
- Các số liệu thống kê tiền tệ nói chung được thu thập nhanh nhất và có độ tin cậy cao nhất so với các số liệu thống kê khác; do đó chúng giúp ích rất nhiều cho các nhà lãnh đạo đất nước đề xuất, lựa chọn các giải pháp điều hành kinh tế tốt nhất.
Trong những chương trình điều chỉnh kinh tế của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) giúp các nước, cân đối tiền tệ càng quan trọng vì IMF sử dụng một số chỉ tiêu gộp tiền tệ làm tiêu chuẩn đánh giá kết quả thực hiện chương trình.
Thực tế cho thấy mặc dù Quỹ Tiền tệ quốc tế sử dụng nhiều công cụ và phương pháp tiếp cận khác nhau để đánh giá tình hình kinh tế, xã hội mỗi nước tuỳ theo đặc thù của từng nước, song mối liên hệ giữa tiến triển của các chỉ tiêu gộp tiền tệ và các chỉ tiêu gộp cán cân thanh toán là yếu tố trung tâm của lý thuyết kinh tế của Quỹ Tiền tệ quốc tế và là trung tâm của các chương trình điều chỉnh kinh tế. Trong các quan hệ này, Quỹ Tiền tệ quốc tế đặc biệt chú trọng phân tích cân đối tiền tệ tổng hợp của toàn hệ thống ngân hàng, với tên gọi là tình hình tiền tệ (monetary situation) vì nó cho phép đánh giá ảnh hưởng của tiến triển tiền tệ và tín dụng tới toàn nền kinh tế.
2) Vai trò và cơ cấu của hệ thống tài chính
Chúng ta đều biết mọi tác nhân kinh tế khi chi tiêu vượt quá ngân sách hiện có được hình thành từ thu nhập và bán các tài sản đang có, thì trở thành tác nhân kinh tế thâm hụt. Và sự thâm hụt này phải có nguồn bù đắp. Trong trường hợp ngược lại, đó là những tác nhân kinh tế thặng dư, và họ có thể giúp các tác nhân thâm hụt tài chính cho thâm hụt.
Chính hệ thống tài chính bao gồm thị trường tài chính, các thể chế tài chính và các cơ chế tài chính sẽ giúp các tác nhân kinh tế đang thâm hụt tài chính cho thâm hụt của mình bằng thặng dư của tác nhân kinh tế khác.
Nếu tác nhân thặng dự tài chính cho tác nhân thâm hụt một cách trực tiếp, không thông qua các tác nhân trung gian, thì các hoạt động giao dịch giữa hai bên được gọi là các giao dịch tài chính trực tiếp. Trong trường hợp ngược lại, nếu việc tài chính được thực hiện thông qua một hoặc một số trung gian đặc thù, thì quá trình cấp vốn đó được gọi là tài chính gián tiếp.
Nếu người trung gian động viên thặng dư tài chính của những người đang thặng dư bằng các phát hành các cam kết của mình có lợi cho người đang thặng dư, rồi dùng các nguồn tiền thu được để tài chính cho các tác nhân đang thâm hụt thì được gọi là trung gian tài chính. Hệ thống ngân hàng là điển hình của trung gian tài chính.
Để tài chính cho thâm hụt, bản thân những tác nhân đang thâm hụt cũng có thể tự mình phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn từ người đang thặng dư, như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, tài sản thế chấp và nhiều hình thức cam kết khác. Họ cũng có thể bán các tài sản tài chính đã tích luỹ trước đây hoặc thu hồi các khoản cho vay đã đến hạn... để bù đắp thâm hụt.
Các tác nhân thặng dự có thể mua các cam kết trực tiếp từ các tác nhân đang thâm hụt tác nhân đang thâm hụt hoặc có thể mua qua các trung gian tài chính, ví dụ thông qua gửi tiền không kỳ hạn, có kỳ hạn tại ngân hàng, hoặc mua bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí...
Trong điều kiện cạnh tranh tự do, các trung gian tài chính tồn tại và hoạt động nhờ ba lý do sau:
- Thứ nhất, các trung gian tài chính có thể chuyển đổi đặc tính của các tài sản tài chính trong nền kinh tế, nhất là chuyển đổi đặc tính thời hạn của chúng. Ví dụ để đảm bảo huy động được nguồn đồng thời đảm bảo đáp ứng yêu cầu của người cần vay, các trung gian tài chính sẽ phát hành các giấy tờ có giá, các cam kết bảo đảm... đáp ứng đúng yêu cầu của người đang thặng dư, đồng thời đưa ra các khoản vay với các điều kiện phù hợp với nhu cầu của người đang thâm hụt.
- Thứ hai, nhờ tập trung trong tay một khối lượng lớn các nguồn vốn, các trung gian tài chính có thể giảm bớt rủi ro nhờ đa dạng hoá các khoản đi vay và các khoản cho vay; đây là điều một cá nhân thặng dư đơn lẻ rất khó thực hiện được.
- Thứ ba, cũng nhờ tập trung trong tay một khối lượng lớn các nguồn vốn, các trung gian tài chính có thể hoạt động theo kiểu nền kinh tế quy mô trong việc thu thập các thông tin và theo dõi chặt chẽ các tác nhân kinh tế đang thiếu hụt. Việc giảm bớt các chi phí thông tin về con nợ không chỉ cho phép các trung gian tài chính giảm bớt rủi ro trong đầu tư mà còn cho phép bố trí cho vay đúng những đối tượng sinh lợi nhất.
Trong các nền kinh tế phát triển, hiện đã xuất hiện rất nhiều loại trung gian tài chính do tính đa dạng của nhu cầu và sở thích của người cho vay và người đi vay. Do vậy khu vực tài chính bao gồm hệ thống ngân hàng, các thể chế tài chính phi ngân hàng (công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, hội góp vốn sử dụng chung như hụi...). Các trung gian tài chính phi hình thức đôi khi giữ vị trí chủ yếu trong nền kinh tế đang phát triển.
Trong nội bộ khu vực trung gian tài chính, còn phải phân chia tiếp thành hệ thống ngân hàng sử dụng phương tiện thanh toán (tiền) làm công cụ chính, và các trung gian tài chính khác sử dụng các cam kết thay cho thanh toán tiền, ví dụ như bảo hiểm nhân thọ.
Khả năng huy động vốn của các trung gian tài chính khác phụ thuộc vào số lượng tiền trong lưu thông và nguyện vọng của dân chúng muốn chuyển một phần tiền hiện tại của mình thành các tài sản tài chính khác và khả năng thanh khoản của các loại tài sản tài chính khác này.
Ngược lại, khả năng huy động vốn của hệ thống ngân hàng phụ thuộc vào tính đa dạng trong chính sách huy động vốn. Các ngân hàng phát hành các cam kết của mình (tức là có điều kiện đối với tiền gửi) bằng cách trao một chứng từ nhận nợ cho người vay hoặc một loại giấy tờ có giá khác, nhưng không phải là tiền.
Do bản chất đặc biệt này của hệ thống ngân hàng, người ta thấy cần tách riêng cân đối tổng hợp hoạt động tiền tệ của hệ thống ngân hàng, tạo thành bảng riêng gọi là tình hình tiền tệ của hệ thống ngân hàng. Bảng này cho phép các nhà kinh tế phân tích khối lượng tiền tệ và các thành phần của nó trong khuôn khổ khớp nhau.
Trong hệ thống trung gian tài chính chủ yếu gồm các ngân hàng, người ta lại chia tiếp thành hai bộ phận. Một là các nhà lãnh đạo tiền tệ (thường là Ngân hàng Trung ương) và hai là các ngân hàng tiền gửi, hay còn được gọi là ngân hàng tạo tiền hay ngân hàng thương mại (tên gọi cuối này được sử dụng nhiều nhất nhưng lại kém chính xác).
Hai tổ chức này đều có trách nhiệm phát tiền cho xã hội sử dụng, hoặc dưới dạng tiền mặt, hoặc dưới dạng séc hoặc lệnh chi. Tuy nhiên, hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong xã hội hiện đại có những đặc trưng riêng biệt: Cung cấp phương tiện thanh toán để bù đắp thâm hụt hoặc thu hồi thặng dư trong cân đối tiền tệ của hệ thống ngân hàng tiền gửi; trong đó các cân đối liên ngân hàng này được hình thành từ chuyển quỹ lẫn nhau giữa các ngân hàng tiền gửi khác nhau. Do vậy, khả năng của các ngân hàng tiền gửi trong việc bảo đảm tính thanh khoản của tiền gửi tại chúng phụ thuộc vào sự cam kết của Ngân hàng Trung ương đối với nhiệm vụ này (tính thanh khoản được hiểu là khả năng chuyển đổi không điều kiện của một khoản tiền gửi tại ngân hàng thành tiền mặt hoặc phương tiện thanh toán khác).
Sự cam kết này bao gồm tiền mặt do Ngân hàng Trung ương hoặc Kho bạc phát ra và các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các trung gian tài chính (và đôi khi của cả dân chúng) tại Ngân hàng Trung ương. Các cam kết của các nhà lãnh đạo tiền tệ được gọi là cơ sở tiền tệ.
Bảng cân đối tổng thể tiền tệ của các nhà lãnh đạo tiền tệ là công cụ quan trọng cho phép phân tích cơ sở tiền tệ và các đối trọng của nó.
Nếu xem xét hệ thống các trung gian gian tài chính không chỉ bao gồm các ngân hàng tiền gửi mà cả các trung gian tài chính khác thì chúng ta có bảng cân đối tổng thể tài chính của của hệ thống, được gọi là tình hình tài chính. Tuy nhiên, do vị trí chủ đạo của các ngân hàng tiền gửi, trong bài này, chúng ta sẽ chỉ tập trung xem xét hệ thống ngân hàng. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các cam kết tiền tệ của hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng quyết định tới tính an toàn của nền kinh tế, ổn định lạm phát và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Điều này diễn ra ngay cả trong trường hợp các nước kém phát triển, trong đó hệ thống ngân hàng chưa phát triển hoặc thị trường tài chính phi hình thức đóng vai trò quan trọng không thể xem nhẹ.
Mặt khác, như đã đề cập ở trên, các số liệu, thông tin thuộc khu vực tiền tệ nói chung được thu thập rất nhanh và có độ tin cậy rất cao, làm cho chúng trở thành những công cụ quan trọng trong phân tích kinh tế và xây dựng chính sách. Trái lại, việc thu thập số liệu, thông tin về tình hình tài chính không dễ dàng; do vậy, chỉ có một số rất ít nước nghiên cứu xây dựng bảng tình hình tài chính.
Dưới đây là một minh hoạ đơn giản về cấu trúc của hệ thống tài chính với 3 cấp gộp thường được sử dụng trong phân tích kinh tế:
                   Sơ đồ: Các thành phần gộp của hệ thống tài chính








H thng tài chính
(tình hình tài chính)
 
 

Cấp gộp thứ 3:
 



Cấp gộp thứ 2:
 


Cấp gộp thứ 3:

Lãnh đạo tin t (bng tài sn ca lãnh đạo tin t)
 

Các ngân hàng thương mi
(bng tài sn ca các NHTT)
 

Các th chế tài chính khác (bng cân đối tài sn gp)
 
 






3) Các nguyên tắc thiết lập các bảng kế toán thống kê tiền tệ
Nguyên tắc xây dựng các bảng kế toán tiền tệ có điểm giống và có điểm không giống với nguyên tắc xây dựng các bảng cân đối kinh tế vĩ mô khác. Những nguyên tắc chính bao gồm:
- Các số liệu theo tích luỹ (cộng dồn) hay chỉ phát sinh trong kỳ: Thống kê tiền tệ dựa trên các bảng tài sản, bao gồm cả số liệu tích luỹ lẫn số liệu mới phát sinh trong kỳ. Không những thế, nó còn ghi nhận những số liệu tiền tệ vào đúng một thời điểm nào đó, ví dụ vào cuối ngày 31/10/2004.
- Số liệu được ghi nhận trên cơ sở số thanh toán hay số phải được thanh toán ? Nguyên tắc cơ bản của thống kê tiền tệ là ghi chép theo số thanh toán (cơ sở thu tiền), tức là các giao dịch phải được ghi nhận vào thời điểm việc thanh toán diễn ra, chứ không phải vào lúc ký hợp đồng.
- Số liệu phải được ghi chép bằng tiền quốc gia. Tất cả các khoản tiền gửi, thanh toán... bằng ngoại tệ đều phải được quy đổi thành tiền quốc gia. Đối với các chỉ tiêu gộp tiền tệ dạng tích luỹ, người ta sử dụng tỷ giá hiện hành và lúc lập bảng để quy đổi ngoại tệ sang nội tệ.
- Cân đối tổng thể, tức tất cả các hoạt động của hệ thống tiền tệ phải được đưa vào thống kê đồng thời có sự khớp nhau của toàn hệ thống. Để đảm bảo điều này, quá trình lập bảng tình hình tiền tệ bao gồm hai bước:
Tại bước 1, người ta tập hợp tất cả các bảng cân đối tài sản của tất cả các ngân hàng thương mại vào một bảng chung (tài khoản chung), trong đó các giao dịch lẫn nhau được loại trừ.
Tại bước 2, người ta xây dựng dựng bảng cân đối tài sản của Ngân hàng Trung ương, sau đó tổng hợp với bảng cân đối tài sản của tất cả các ngân hàng thương mại để tạo thành bảng chung của cả hệ thống ngân hàng; bảng cuối cùng này là bảng tình hình tiền tệ.
Như vậy, trong cân đối tiền tệ, thường thấy xuất hiện 3 loại bảng cân đối: (i) Cân đối tiền tệ của khu vực lãnh đạo tiền tệ (ngân hàng trung ương); (ii) Cân đối tiền tệ của khu vực ngân hàng thương mại; (iii) Cân đối tiền tệ chung toàn nền kinh tế (tình hình tiền tệ)

4) Các nhà lãnh đạo tiền tệ (Ngân hàng Trung ương):
a) Định nghĩa và vai trò của Lãnh đạo tiền tệ
Khái niệm các nhà lãnh đạo tiền tệ được dùng để chỉ những tổ chức phát hành tiền tệ, giữ dự trữ ngoại tệ quốc gia, vay nước ngoài để thoả mãn nhu cầu cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, đóng vai trò ngân hàng của Nhà nước (ví dụ Kho bạc Nhà nước), theo dõi hoạt động của hệ thống tiền tệ và đóng vai trò người cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng.
Trong phân lớn trường hợp, cơ quan đóng vai trò lãnh đạo tiền tệ là Ngân hàng trung ương. Trong một số nước khác, có thể Kho bạc đóng vai trò này vì tiền chủ yếu được in tại Kho bạc. Tại một số nước, Kho bạc là người chủ yếu quản lý dự trữ ngoại tệ của đất nước...
Chức năng là người cho vay cuối cùng là một chức năng rất quan trọng để đảm bảo cung cấp đủ tiền tệ, tín dụng cho các giao dịch trong nền kinh tế trong bối cảnh bình thường và khi có nhu cầu đột biến. Đây cũng là công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Ngân hàng Trung ương phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho các ngân hàng thương mại không còn khả năng thanh toán hay đền bù thiệt hại cho khách hàng của các ngân hàng thương mại...
Phân tích cân đối tiền tệ của các nhà lãnh đạo tiền tệ (hay Ngân hàng Trung ương) có vị trí quan trọng nhất, vị trí trung tâm trong phân tích tiền tệ vì qua đó có thể tính toán và xây dựng một cơ sở tiền tệ để đảm bảo cung cấp đủ lượng tiền cần thiết trong nền kinh tế.
Cơ sở tiền tệ gồm tiền mặt cộng với tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng trung ương. Cơ sở tiền tệ còn được gọi là tiền trung ương.
Công cụ chính để các nhà lãnh đạo tiền tệ sử dụng để kiểm soát, điều tiết khối lượng tiền tệ là kiểm soát khối lượng cơ sở tiền tệ.
Việc điều chỉnh cơ sở tiền tệ diễn ra như sau: Khi Ngân hàng Trung ương thấy cần bổ sung tiền vào nền kinh tế thì nó sẽ bán tiền ra, đồng thời thu hồi các tài sản tài chính về; ngược lại, nếu Ngân hàng Trung ương thấy cần giảm bớt lượng tiền trong lưu thông thì nó sẽ bán các tài sản tài chính ra, đồng thời thu hồi tiền mặt đang lưu thông về.
Do chức năng này, việc phân tích bảng tài sản của Ngân hàng Trung ương có ý nghĩa rất quan trọng để hiểu quá trình phát hành tiền tệ.
b) Bảng cân đối tài sản của các nhà lãnh đạo tiền tệ
Cân đối tiền tệ của các nhà lãnh đạo tiền tệ gồm các yếu tố trong bảng dưới đây:
          

                   Bảng 17: Cân đối phân tích tài sản của Lãnh đạo tiền tệ

Tài sản có
Tài sản nợ
Tài sản ngoại tệ ròng (AEN)
Cơ sở tiền tệ (BM)
   Tài sản ngoại tệ
   Tiền giấy và tiền xu
   trừ nợ ngoại tệ
      Trong các ngân hàng (EB)
Tín dụng nội địa (CIR)
      Ngoài hệ thống ngân hàng (MF)
   Tín dụng ròng cho Chính phủ (CNE)
   Tiền gửi của các ngân hàng thương mại
   Tín dụng cho các NHTM (CBCM)
   Tiền gửi của các tác nhân kinh tế phi tiền tệ
   Tín dụng cho các khu vực kinh tế và các trung gian tài chính khác (CSP)
Các khoản cam kết khác (APN):

   Qũy riêng và các cam kết khác

   trừ bất động sản và các tài sản khác

Dưới đây là ví dụ minh hoạ một bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng trung ương:
Bảng 18: Tài sản có và nợ của Ngân hàng Trung ương (tỷ đồng, cuối kỳ)
Tên chỉ tiêu
1986
1987
...
2010
Tài sản ngoại tệ ròng

679


Tín dụng ròng cho Chính phủ

95


Tín dụng cho các NHTM

1037


Tín dụng cho các khu vực kinh tế và các trung gian tài chính khác

89


   Tổng tài sản có

1900







   Tổng các cam kết

1900


Cơ sở tiền tệ

1264


Tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng

1104


Tiền đang nằm trong hệ thống ngân hàng

42


Tiền gửi của các ngân hàng thương mại

89


Tiền gửi của các tác nhân kinh tế phi tiền tệ

29


Cam kết với bên ngoài

243


Tiền và tài sản của Nhà nước

164


Quỹ đối trọng

70


Cấp cho Quỹ Tiền tệ quốc tế để có DTS*

43


Tài khoản vốn

49


Các tài khoản khác (ròng)

68


       * DTS là quyền rút vốn đặc biệt của các nước thành viên Quỹ Tiền tệ quốc tế.
Nguyên tắc xác định của chỉ tiêu chính trong bảng trên như sau:
(1) Tài sản ngoại tệ ròng (AEN)
Tài sản ngoại tệ ròng là giá trị bằng tiền quốc gia của các khoản dự trữ quốc tế chính thức ròng, trong đó:
- Phần tài sản có gồm vàng, ngoại tệ, các khoản tiền gửi tại các tổ chức tài chính quốc tế và các khoản khác;
- Phần tài sản nợ gồm nợ ngắn hạn của Ngân hàng Trung ương đối với người không thường trú (nước ngoài) và một số nợ trung và dài hạn như vay tín dụng của các tổ chức tài chính quốc tế. Nợ đối với người không thường trú gồm tiền gửi của các ngân hàng trung ương nước ngoài, các khoản vay swap và các khoản nợ khác.
Tài sản ngoại tệ ròng đôi khi cũng bao gồm các tài sản và cam kết với bên ngoài khác của các nhà lãnh đạo tiền tệ nhưng lại không tính vào dự trữ chính thức. Trong một số nước, nó bao gồm tài sản có ngoại tệ do các nhà lãnh đạo tiền tệ giữ nhưng lại không được tự do sử dụng để cân đối cán cân thanh toán quốc tế, do đó không được thống kê vào dự trữ quốc tế chính thức ròng. Ví dụ như tài sản bằng ngoại tệ không chuyển đổi hoặc các khoản giải ngân theo các hiệp định song phương. Vì lý do này, khái niệm dự trữ quốc tế chính thức ròng hẹp hơn khái niệm tài sản ngoại tệ ròng.
Công thức để xác định dự trữ ngoại tệ ròng như sau:
Gọi AEN là giá trị bằng tiền quốc gia của dự trữ ngoại tệ ròng, khi đó:
    Dự trữ ngoại tệ ròng = có ngoại tệ – nợ ngoại tệ
    Có ngoại tệ = vàng + ngoại tệ trong ngân hàng TW+ dự trữ tại IMF + ngoại tệ rút được tại IMF theo quyền rút đặc biệt, tương ứng với phần đóng góp vào tổng vốn của IMF.
    Nợ ngoại tệ = cam kết ngắn hạn của Ngân hàng TW đối với những cư dân không thường trú + nợ và lãi phải trả.
(2) Cho Nhà nước vay ròng (cho vay mới trừ phần mới trả - CNE):
Trong nghiên cứu kinh tế, người ta thường quan tâm đến hai vấn đề:
- Khi hệ thống ngân hàng cho Nhà nước vay thì ảnh hưởng tài chính toàn cục sẽ thế nào ? Kinh nghiệm cho thấy Nhà nước thường dùng địa vị đặc biệt của mình để vay tiền ngân hàng nhằm mục đích phục vụ bù đắp thâm hụt ngân sách. Khi đó thường kéo theo lạm phát.
- Khu vực tư nhân là một số đông, gồm một bộ phận dư thừa tài chính và một bộ phận thiếu. Ngược lại Nhà nước là một bộ phận duy nhất nên chỉ có thể ở trong tình trạng hoặc thặng dự, hoặc thâm hụt; do đó có thể phân tích ảnh hưởng của Nhà nước một cách độc lập. Ngoài ra, khi Ngân hàng thu hút được lượng tiền từ người dư thừa thì tiếp đó nên ưu tiên phục vụ Nhà nước hay nên ưu tiên cho vay khu vực tư nhân (thông qua các ngân hàng thương mại) ?
Để đánh giá hiệu quả tổng hợp của tín dụng dành cho Nhà nước đối với toàn nền kinh tế, người ta quan tâm tới chỉ tiêu Tín dụng cho Nhà nước vay ròng. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản trực tiếp cho nhà nước vay và các khoản tiền Ngân hàng Trung ương mua trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác do Chính phủ phát hành.
(3) Cho các ngân hàng thương mai vay (ngân hàng tạo ra tiền - CBCM):
Đây là toàn bộ tín dụng Ngân hàng TW cấp trực tiếp cho các ngân hàng thương mại và các khoản tiền khác thông qua hình thức tái cấp vốn hoặc tái chiết khấu của các ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Trung ương...
Hoạt động tái chiết khấu là khoản cho vay của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại; đổi lại, các ngân hàng thương mại phải chuyển quyền sở hữu các tài sản tài chính đang nắm cho Ngân hàng Trung ương. Số tiền cho vay này sẽ nằm trong bảng cân đối tài sản của các ngân hàng thương mại, trong ô tài sản có, đồng thời nó cũng nằm trong ô tài sản nợ như là một cam kết với Ngân hàng Trung ương.
(4) Cho các khu vực kinh tế khác vay (CSP):
Trong nền kinh tế thị trường, đây thực chất là cho khu vực tư nhân thường trú vay, gồm tất cả các khoản Ngân hàng Trung ương cho các trung gian tài chính không phải là các ngân hàng thương mại vay, tức là cho những tác nhân kinh tế ngoài Nhà nước và khu vực ngân hàng vay. Trong trường hợp Việt Nam, việc Ngân hàng Trung ương cấp vốn trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước chính là ví dụ về loại cho vay này.
(5)) Cơ sở tiền tệ (BM):
  Cơ sở tiền tệ là cam kết chính của các nhà lãnh đạo tiền tệ và là công cụ chính của chính sách tiền tệ. Những thành phần chính của cơ sở tiền tệ là:
  + Tiền mặt nằm trong hệ thống ngân hàng (EB)
  + Tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng (MF)
  + Tiền gửi của các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng tại Ngân hàng Trung ương.
Cơ sở tiền tệ không bao gồm tiền gửi của Nhà nước và người không thường trú tại các nhà lãnh đạo tiền tệ. Tuy nhiên, nó lại bao gồm tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương của khu vực phi ngân hàng trong nước (của các cá nhân hay doanh nghiệp, ví dụ như các trung gian tài chính không phải ngân hàng thương mại), mặc dù tiền gửi của khu vực này không đáng kể.
(6) Các mục tiền tệ ròng khác (APN)
Các mục tiền tệ ròng khác gồm các tài sản vốn (kể cả dự trữ ngoại tệ), trụ sở và các toà nhà khác của các ngân hàng, giá trị điều chỉnh lại giá trị tài sản bằng tiền nước ngoài khi tỷ giá thay đổi, và tất cả các khoản chưa được phân loại khác...
Các mục tiền tệ ròng khác thường được tính bằng cách trừ hai vế của phương trình cân đối, tức là tính bằng sai số cân đối. Nó thường được ghi trong phần tài sản nợ (xem bảng 17). Tuy nhiên, vẫn có một số nước đặt nó bên phần tài sản có.
g) Cân đối tiền tệ của các nhà lãnh đạo tiền tệ:
Theo nguyên tắc của hệ thống kế toán đối với các bảng phân tích, tổng các tài sản có phải bằng tổng các tài sản nợ. Do vậy, chúng ta có phương trình quan hệ kế toán sau:
                     BM = AEN + CNE + CBCM + CSP - APN
Phương trình này cho thấy trong cơ sở tiền tệ có 5 yếu tố; do vậy Ngân hàng Trung ương tác động vào 5 yếu tố này để tạo ra những thay đổi cần thiết của cơ sở tiền tệ, từ đó ảnh hưởng tới tổng cung tiền tệ và đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngược lại, bất kỳ một thay đổi nào của cơ sở tiền tệ cũng kéo theo sự thay đổi của 1 hoặc một số yếu tố trong 5 yếu tố trên, đặc biệt là thay đổi của phía tài sản có trong bảng cân đối tổng thể của Ngân hàng Trung ương.
Ví dụ khi cán cân thanh toán quốc tế thặng dư, dự trữ quốc tế của Ngân hàng Trung ương tăng lên. Khi đó, nếu không giảm được tín dụng nội địa hoặc các thành phần khác bên phần tài sản có thì cơ sở tiền tệ hoặc tài sản nợ của mục tiền tệ ròng khác (APN) sẽ tăng lên, kéo theo tổng lượng tiền trong lưu thông tăng lên, gây ra nguy cơ lạm phát tiền tệ.
Tương tự, nếu Ngân hàng Trung ương tăng tài sản có nội địa của mình bằng cách mua các trái phiếu chính phủ hoặc cho các ngân hàng thương mại vay tiền mà không giảm tài sản ngoại tệ ròng (AEN) hoặc không tăng mục tiền tệ ròng khác (APN) thì cơ sở tiền tệ cũng tăng lên.
Ngoài cân đối theo luỹ kế (cộng dồn), còn có loại cân  đối theo từng kỳ. Khi đó:
DBM = DAEN + DCNE + DCBCM + DCSP - DAPN
chia cả hai vế cho BM(t-1), ta có:

Thêm các thành phần tỷ trọng, ta có:

Theo công thức trên, tỷ lệ tăng trưởng cơ sơ tiền tệ bằng trung bình trọng số của tỷ lệ tăng trưởng các yếu tố thành phần.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét