Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

(3) CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM

Đọc bài này lại thấy sự vĩ đại của Nguyễn Ánh, bao giờ chế độ XHCN ưu việt hiện nay của chúng ta làm được như ông: "Ông là người có nhãn quan chính trị sâu sắc khi liên tiếp tổ chức những cuộc trưng cầu trên tinh thần công khai cả với bộ máy hành chính và những người dân thường. Hành động đáng ghi nhận đầu tiên khi ông chiếm lại Sài Gòn là thiết lập lại những buổi chầu nơi ông thường xuyên thảo luận về các vấn đề xã hội với những người trợ lý của ông. Một tháng sau đó ông ban hành quy định về cách thức thích hợp để cho người dân đóng góp ý kiến và khiến nại nếu cần. Một vài tuần sau đó ông công bố một chính sách để khuyến khích mọi người tự do nói lên suy nghĩ của họ, khẳng định rằng không ai bị trừng phạt cho những ý kiến trái chiều. Không lâu sau, một “hòm thư góp ý” đã được đặt ra để tạo thuận lợi cho việc đóng góp ý kiến".
CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM
K.W. Taylor
Nguyễn Phúc Ánh ở Sài Gòn
Năm 1792, người con trai 11 tuổi của Nguyễn Huệ, Nguyễn Toản, đã được truyền ngôi tại Phú Xuân, và nhiếp chính là người chú bên ngoại, Bùi Đắc Tuyên. Chính quyền của Nguyễn Toản ngay sau đó đã gặp rắc rối với tranh chấp nội bộ, một thập kỷ sau phải chống lại quân đội của Nguyễn Phúc Ánh, mà thời gian này đang di chuyển và đe dọa Nguyễn Nhạc ở Chà Bàn.
Năm 1788
Sau khi lấy lại Sài Gòn lần cuối vào mùa thu năm 1788, Nguyễn Phúc Ánh đã dành gần hai năm để củng cố bộ máy cai trị ở Gia Định và xây dựng lực lượng quân đội. Một trong những mối quan tâm đầu tiên và lâu dài nhất của ông là tình trạng không có luật lệ ở vùng biên giới Gia Định, đặc biệt là sau hơn một thập kỷ chiến tranh. Ngay cả trước khi chiếm lại Sài Gòn, ông đã tăng cường lực lượng quân đội, ông đã chặt đầu hai người phạm tội hãm hiếp và cướp bóc để răn đe.

Vào giữa năm 1789, ông điều động binh lính để trấn áp bọn cướp, và đặt những quan chức điều hành tại Mỹ Tho và Vĩnh Long. Ngay sau đó, ông công bố những hình phạt nghiêm khắc đối với bọn cướp, đặc biệt là những người lính đã cướp bóc của người dân. Trong những năm tiếp theo, Nguyễn Phúc Ánh liên tục gửi binh lính để ngăn chặn bọn cướp, ổn định tình hình. Nhân dân còn gặp một mối lo khác là những loài dã thú. Trong năm 1789, đã trao thưởng cho những người giết chết hay bắt được một con hổ ở một ngôi làng gần Biên Hòa, phía Bắc Sài Gòn. Mặt khác, để giúp khôi phục cuộc sống nông nghiệp bình thường, trâu nước đã được gửi đến vùng Mỹ Tho vì rất nhiều loài gia súc đã bị giết chết trong khu vực chiến trận của cuộc chiến tranh.

Thậm chí còn hơn cả sự chấn chỉnh về luật pháp, Nguyễn Phúc Ánh đã tìm cách khuyến khích một chế độ tuân thủ pháp luật và một cuộc sống lành mạnh. Cờ bạc bị cấm ở Việt Nam, mặc dù nó đã được cho phép và đánh thuế những người Trung Quốc. Những trò mê tín dị đoan bị hạn chế để hướng những thầy phù thủy ra thế giới thực, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang sắp xếp các nguồn lực xã hội. Ông đã kêu gọi nhân dân chăm chỉ làm việc và lên án thói quen lười biếng. Nam giới có khuynh hướng đi vào chuyện học hành thì được khuyến khích với việc miễn nghĩa vụ quân sự.

Nguyễn Phúc Ánh công bố ân xá cho những người đã bỏ qua lệnh triệu tập của mình lúc ông lần đầu tiên trở về từ Xiêm La năm 1787 để đóng góp nhân lực, vật tư cho công cuộc kiến thiết. Có những người đã đi theo ông từ mùa thu năm 1787 khi ông ở Long Xuyên, họ đã đợi để tập hợp bên cạnh ông khi ông tiến quân tới Vĩnh Long vào đầu hè năm 1788, chỉ bốn tháng trước khi tái chiếm lại Sài Gòn. Sau đó ông đã ra quyết định ân xá cho những công dân tốt, là những người thích nghi với những luật lệ mới được công bố. Ông đã tạo ra một kho thóc mới ở Sài Gòn để giúp đỡ các dòng người tỵ nạn từ miền Bắc vào theo ông. Ông là người có nhãn quan chính trị sâu sắc khi liên tiếp tổ chức những cuộc trưng cầu trên tinh thần công khai cả với bộ máy hành chính và những người dân thường.

Hành động đáng ghi nhận đầu tiên khi ông chiếm lại Sài Gòn là thiết lập lại những buổi chầu nơi ông thường xuyên thảo luận về các vấn đề xã hội với những người trợ lý của ông. Một tháng sau đó ông ban hành quy định về cách thức thích hợp để cho người dân đóng góp ý kiến và khiến nại nếu cần. Có thể các quy tắc đã gây hiệu ứng không tốt cho một cuộc thảo luận mở, một vài tuần sau đó ông công bố một chính sách để khuyến khích mọi người tự do nói lên suy nghĩ của họ, khẳng định rằng không ai bị trừng phạt cho những ý kiến trái chiều. Không lâu sau, một “hòm thư góp ý” đã được đặt ra để tạo thuận lợi cho việc đóng góp ý kiến. Vào mùa xuân năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh đã giao nhiệm vụ cho những quan thư lại ghi lại mọi việc trong những buổi thiết triều của ông. Ông được cho là đã quan tâm đến tất cả những chi tiết của bộ máy.

Trong những ngày đầu sau khi chiếm lại Sài Gòn ông đã gửi các quan chức tới tất cả các khu vực hành chính để kiểm tra thuế và hồ sơ quân dịch. Sau đó ngay lập tức công bố một chính sách thuế và thành lập ba bộ để đối phó với việc bổ nhiệm các quan chức dân sự, các vấn đề quân sự và Tòa án. Ông cũng thành lập một Viện Hàn Lâm để soạn thảo các sắc lệnh. Năm 1789, một hệ thống cơ quan chính quyền địa phương được thành lập và nhiều vị trí đã được bổ nhiệm vào các vị trí. Đặc biệt chú ý vào việc khuyến khích nông nghiệp và chính quy hóa chính quyền địa phương. Bất kỳ địa phương nào với ít nhất 40 người Việt được yêu cầu phải có một người đứng đầu để chịu trách nhiệm với các cơ quan của nhà cầm quyền.

Một viên tướng Tây Sơn không thể trốn thoát ra miền Bắc đã tìm cách lánh nạn với những người Khmer ở hạ lưu sông Mê Kông. Vào đầu năm 1789, ông đã buộc phải đầu hàng cùng với một đội quân 1500 người Khmer mà trước đã đi theo nhà Tây Sơn. Những người lính Khmer được phép gia nhập đội quân của Nguyễn Phúc Ánh với điều kiện đóng góp một lượng gạo nhất định. Các quan lại Khmer sau đó được bổ nhiệm để quản lý khu vực dân cư người Khmer ở khu vực mà hiện nay là Trà Vinh và Cần Thơ. Những người Khmer tại nơi ở mới được cung cấp gạo để ổn định cuộc sống và canh tác trong khu vực họ sống.

Những người Việt vô luật lệ thèm muốn đất của người Khmer nên đã khiêu khích gây nên một cuộc nổi dậy vào cuối năm 1789. Năm 1791, Nguyễn Phúc Ánh đã ra sắc lệnh người Việt không được chiếm đất của người Khmer. Người Khmer giữ đất của họ và người Việt phải khai hoang những vùng đất mới để canh tác, trong đó có rất nhiều khu vực phì nhiêu sẵn có. Về phần mình, người Khmer không có quyền để khai khẩn những vùng đất mới. Người Việt và người Khmer được giữ riêng biệt, tách hẳn nhau. Tuy nhiên, năm 1798 Nguyễn Phúc Ánh đã gửi những quan lại để ngăn chặn người Việt chiếm đất của người Khmer và thay vào đó là hướng dẫn họ đi khai hoang.

Nguyễn Phúc Ánh đã để những người Trung Quốc quản lý cộng đồng của họ, mà đã phát triển từ quá trình nhập cư từ thời nhà Minh hàng thế kỷ trước, trong đó có 5 dòng người chính đến từ các nơi là Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam, Thượng Hải và Triều Châu. Những cộng đồng người Hoa này có quy định riêng của họ để đăng ký nộp thuế và thực hiện nghĩa vụ quân dịch phù hợp với cách quản trị của người Việt. “Những người tạm trú” gần đây từ nhà Thanh chưa kịp thích nghi với xã hội địa phương và Nguyễn Phúc Ánh đã theo dõi những hoạt động kinh tế mang tính cướp bóc của họ, đặc biệt là họ đã cho người Việt vay tiền với lãi suất cắt cổ dẫn đến sự nô lệ của gia đình người đi vay. Vào giữa năm 1891, luật chống lại việc đưa ra những lãi suất cắt cổ như thế đã được ban hành.

Thuế hải quan đối với tàu buôn trong năm cộng đồng người Hoa đã được cố định với tỷ lệ cao nhất được đặt trên các con tàu của Quảng Đông và Thượng Hải (3300 chuỗi tiền mặt), Phúc Kiến (1400 chuỗi), Triều Châu (1200 chuỗi), và Hải Nam (650 chuỗi). Thương nhân người Hoa mang sắt, kẽm và lưu huỳnh, tất cả những nguyên liệu quan trọng phục vụ cho quân đội, đã được miễn thuế và nhận sự phân phối về gạo, nhưng họ được yêu cầu bán hàng của họ cho nhà cầm quyền. Hình phạt nặng đã được đưa ra nhằm chống lại việc buôn bán hàng lậu ra khỏi Gia Định. Quy định tiền tệ đã được công bố thực thi việc chấp nhận tiền xu bị sứt mẻ để họ sử dụng. Giá đường được quy định để khuyến khích những thương gia châu Âu mang vũ khí để trao đổi thương mại.

Quản lý nguồn lực quân sự là mối quan tâm quan trọng nhất của Nguyễn Phúc Ánh. Vào đầu năm 1789, những người đàn ông được yêu cầu phải đăng ký nghĩa vụ quân sự. Những người đã từng phục vụ trong quân đội Tây Sơn nhưng không đăng ký sẽ bị tử hình. Những người cha mẹ được giữ lại một người con trai ở nhà để chăm sóc cho họ. Hình phạt nặng sẽ được áp dụng cho việc trốn lính đào ngũ sẽ ảnh hưởng tới cả gia đình của họ, và phần thưởng cho những người đã cung cấp thông tin về nơi ở của những kẻ phạm tội. Quân lính được cảnh báo là không làm phiền người dân và quấy rầy các thương gia, và bị cấm mang vũ khí trừ khi đang làm nhiệm vụ. Những người thuộc lĩnh vực đàn ca sáo nhị thì không được ghi danh vào quân ngũ vì Nguyễn Phúc Ánh tin rằng sự hiện diện của họ trong quân đội có thể làm giảm sự dũng cảm, mặc dù họ được phép biểu diễn cho quân lính ở một mức độ hạn chế.

Ngoài đơn vị chính quy, còn có những đơn vị dân quân địa phương. Trong năm 1790, các quy định cho việc thành lập các khu định cư cho cả dân và lính đã được công bố và ưu đãi cho những quan lại đã tổ chức được các khu định cư như vậy trong khu vực Vàm Cỏ thuộc phía Tây Sài Gòn. Theo dự tính ban đầu, huy động nghĩa vụ quân sự đã được lên kế hoạch định kỳ 3 năm, nhưng những hoạt động chiến trường tăng lên trong những năm 1790 khiến việc huy động quân dịch đã trở thành hoạt động hàng năm. Với những đợt nghĩa vụ hàng năm, Nguyễn Phúc Ánh tổ chức hướng dẫn cho quân đội của mình kỷ luật, sự dẻo dai và kỹ năng chiến đấu.

Nguyễn Phúc Ánh đặc biệt chú ý đến hệ thống đảm bảo lương thực cho quân lính của mình. Những kho thóc gạo được thành lập và trong suốt những năm chiến tranh, các quy định cho việc xây dựng kho thóc mới và di chuyển gạo ra chiến trường là một phần của kế hoạch điều động quân. Những trận đánh của Nguyễn Phúc Ánh gần như chắc thắng khi ông ý thức rõ được sự quan trọng của việc cung ứng trong quân đội. Để di chuyển gạo, khí tài và quân đội, những chiếc tàu rất quan trọng, và việc đóng tàu được ưu tiên đặt lên hàng đầu. Không lâu sau khi tái chiếm Sài Gòn vào năm 1788, Nguyễn Phúc Ánh đã điều động binh sỹ xẻ gỗ và vận chuyển đến các nhà máy đóng tàu. Việc duy trì nguồn cung gỗ cho những nhà máy đóng tàu được duy trì trong những năm tiếp theo. Ngành công nghiệp đóng tàu Gia Định, tại Sài Gòn và Mỹ Tho, đã rất phát triển vào những năm 1790, sản xuất hàng trăm tàu với thiết kế sáng tạo đã khiến những nhà lãnh đạo và thương nhân các nước láng giềng thèm muốn.

Côn Đảo được sử dụng như một nơi để chăn nuôi ngựa, những con ngựa sau đó đã được vận chuyển đến Gia Định và huấn luyện để đưa ra chiến trường. Những người thợ rèn, thợ súng ống, và thợ kim khí các loại đã được đặt dưới sự giám sát của các quan chức cấp cao và huy động để sản xuất vũ khí. Nhiều người được gửi đến Quảng Đông để mua hàng hóa phục vụ cho mục đích quân sự và vũ khí được mua tại các vùng lãnh thổ khác nhau, như Bồ Đào Nha, Ma Cao và Hà Lan. Một nguồn cung cấp vũ khí đáng tin cậy là Vương quốc Hồi giáo Johore, nơi Mahmud Shaz III (1761-1811) duy trì một mối quan hệ thân thiện với Nguyễn Phúc Ánh và giữ một thị trường với súng đạn, lưu huỳnh và nitrat. Trong những năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh liên tục gửi những phái đoàn đến đây để mua khí tài chiến tranh.

Trong những năm sống lưu vong, Nguyễn Phúc Ánh đã giao phó con trai cả của ông, Hoàng tử Cảnh, cho nhà truyền giáo người Pháp Pierre Pigneau. Pigneau đề xuất đi đến Pháp để đàm phán một hiệp ước với chính phủ Pháp để có được sự viện trợ quân sự cho sự nghiệp của Nguyễn Phúc Ánh. Hoàng tử Cảnh và hai vị quan của Nguyễn Phúc Ánh đã đi cùng với Pigneau để thực hiện nhiệm vụ này. Sau khi dành phần lớn thời gian của năm 1787 tại Paris, Pigneau bảo đảm một hiệp ước, nhưng cuối cùng nó đã vô giá trị khi chính phủ Pháp bị hạ bệ và đứng bên bờ vực của một cuộc cách mạng. Pigneau và Hoảng tử Cảnh đến vùng Pondicherry của nước Pháp, trên bờ biển Ấn Độ, vào mùa xuân năm 1788. Nhận ra rằng chính phủ Pháp sẽ không tôn trọng hiệp ước, Pigneau dành những năm tiếp theo để huy động tiền bạc và tuyển dụng những người đào ngũ từ lực lượng hải quân Pháp. Ông mua hai tàu buôn, trang bị cho họ, và chở đầy những khí tài quân sự. Điều khiển bởi hơn 100 quân nhân đào ngũ người Pháp, cùng với một vài tình nguyện viên người Bồ Đào Nha và châu Á, các tàu này đã đến Sài Gòn vào mùa hè năm 1789.

Hầu hết những người Pháp đã đến vào dịp này đều đi trong vòng 2,3 năm sau đó, thất vọng bởi việc thiếu cơ hội để làm giàu và phẫn nộ bởi họ cho cho rằng Nguyễn Phúc Ánh đã không làm gì cả.Trong số ít người còn lại vẫn còn khoảng chục sỹ quan hải quân. Người Pháp là nhóm ít nhất trong bộ sưu tập đa dạng không phải người Việt được thấy trong quân đội Nguyễn Phúc Ánh những năm 1790: người Hoa, Chăm, Ê-đê, Mã Lai, Khmer, Xiêm La, Lào và Bồ Đào Nha. Người Pháp rất ít ảnh hưởng, nếu có, là ảnh hưởng đến chính phủ Nguyễn Phúc Ánh hoặc kế hoạch chiến đấu. Nhưng họ đã góp phần vào việc đào tạo và tổ chức một số đơn vị quân đội, đặc biệt là hải quân.

Bốn sĩ quan đã đến với Pigneau để luyện tập hải quân với các bài tập chiến đấu. Trong những năm đầu, họ thường xuyên chỉ huy những con tàu trong hạm đội của Nguyễn Phúc Ánh và đôi khi chỉ huy những trận đánh. Họ là Jean Marie Dayot (1759-1809), Jean Baptiste Chaigneau (1769-1832), Philippe Vannier (1762-1842), và Godefroy de Forsans (mất năm 1811). Dayot là thành viên tích cực trong các vấn đề thuộc hải quân. Với sự giúp đỡ của em trai, ông đã soạn thảo bản đồ bờ biển của Việt Nam. Ông ra đi vào năm 1795 khi Nguyễn Phúc Ánh làm nhục ông vì ông đã vô tình để tàu của mình mắc cạn. Chaigneau và Vannier đã trở thành Việt hóa, đã có những cô vợ người Việt và vẫn phục vụ cho Nguyễn Phúc Ánh sau khi chiến tranh đã kết thúc. Có rất ít thông tin về Forsans, nhưng ông vẫn ở Việt Nam cho đến cuối đời.

Một người Pháp khác đã phục vụ Nguyễn Phúc Ánh là Olivier de Puymanel (1768-1799). Ông đã không đến với Pigneau nhưng đã bị bỏ quên tại Côn Đảo khi một con tàu chiến của nước Pháp đến đây ngay trước sự trở lại của Pigneau và Hoàng tử Cảnh. Ông đã từng được đào tạo như một kỹ sư xây dựng. Năm 1790 ông giám sát việc xây dựng các thành lũy tại Sài Gòn theo như những pháo đài của châu Âu. Theodore Lebrun (ở Sài Gòn năm 1790-1791), một sỹ quan đã bị bỏ quên từ các hạm đội Pháp, hỗ trợ xây dựng quy hoạch cho thành phố và thành lũy, nhưng ông bất mãn và bỏ đi sau đó một năm. Puymanel đã giúp huấn luyện bộ binh của Nguyễn Phúc Ánh về chiến thuật và đào tạo họ về việc cơ động pháo binh. Ông thường có những chuyến đi mua vũ khí tại nhiều vùng đất khác nhau trong khu vực và mất tại Malacca khi mới 31 tuổi. Laurent Barizy (1769-1802), một người bạn của Puymanel và đã phục vụ Nguyễn Phúc Ánh đến năm 1793, đã dành hầu hết thời gian của mình để mua khí tài quân sự tại Malacca, Manila và Batavia.

Vai trò của Pierre Pigneau và nhóm nhỏ gồm những sỹ quan hải quân là đóng góp vào thành công cuối cùng của Nguyễn Phúc Ánh, về việc tổ chức và đào tạo cả hải quân và lục quân, xây dựng thành lũy, nỗ lực để có nguồn cung cấp vũ khí đúng thời điểm và lãnh đạo trong những trận đánh. Tuy nhiên, họ là một phần nhỏ của những gì đã tạo nên một đội quân khổng lồ trong đó bao gồm hàng ngàn người từ nhiều quốc gia khác nhau. Vai trò của họ là minh chứng cho cho tài năng của Nguyễn Phúc Ánh, trong việc hiểu và sử dụng những người Pháp nhiều hơn bất kỳ ảnh hưởng nào của người Pháp nào đối với ông. Rất ít người Pháp đến Sài Gòn đã ở lại sau năm 1792. Nhưng hầu hết những người ở lại đã trở nên rất trung thành với Nguyễn Phúc Ánh, lập gia đình và cưới vợ người Việt, và dự định dành phần còn lại của cuộc đời ở Việt Nam.

Nguyễn Phúc Ánh biết làm cách nào để biến Sài Gòn thành một thương cảng quốc tế với ngành nông nghiệp nội địa trù phú và ngành công nghiệp đóng tàu. Trong vòng một vài năm, ông đã làm chủ được Sài Gòn với một chính phủ dân sự hiệu quả có khả năng tổ chức và khiển khai một lực lượng viễn chinh lớn. Đã có kinh nghiệm với nhiều thất bại, ông không mấy ấn tượng với kết quả thắng trận của một trận chiến. Ông là người có tầm nhìn dài hạn và kiên trì để đạt được mục đích.

Từ Sài Gòn đến Diên Khánh

Không giống như một cuộc chiến truyền thống như ở miền Bắc Việt Nam, được thực hiện trong mùa khô mùa đông khi gió Bắc thổi từ lục địa ra biển, các chiến dịch của Nguyễn Phúc Ánh đã được tổ chức để đón những cơn gió Nam thổi từ biển vào từ cuối mùa xuân đến đầu mùa thu. Chiến lược cơ bản của ông là di chuyển về phía Bắc bằng đường biển, với đội hải quân và kết hợp vận chuyển cung cấp khí tài để hỗ trợ lục quân. Khi những cơn gió đổi chiều ông sẽ trở lại Sài Gòn với hạm đội của mình và để lại lực lượng bộ binh để trấn giữ các vị trí hiểm yếu để giữ chân kẻ thù cho đến năm sau khi những cơn gió Nam trở lại.

Thử nghiệm đầu tiên của Nguyễn Phúc Ánh với các loại vũ khí chiến tranh là vào năm 1790 khi ông ra lệnh đổ quân lên bờ biển tiến vào Bình Thuận. Đất đai ở đây khó khăn nên sản xuất được rất ít gạo. Không có một cảng biển nào lớn. Người Chăm sống tập trung ở đây và đã hỗ trợ rất lớn cho Nguyễn Nhạc. Sau thành công bước đầu trong việc hành quân về phía Bắc qua Bình Thuận, những tướng lĩnh của Nguyễn Phúc Ánh đã lúng túng khi Nguyễn Nhạc tấn công. Vào cuối năm, Nguyễn Phúc Ánh đã rút quân của ông trở về điểm khởi đầu ở Bà Rịa.

Trong năm tiếp theo, Nguyễn Phúc Ánh tập trung vào việc xây dựng lại đội quân của mình sau thất bại chiến dịch ở Bình Thuận. Ông tăng cường lực lượng quân đội, xử lý hạn hán, tuyên truyền đe dọa phía Bắc và duy trì tình hữu nghị với Xiêm La. Đây là năm đầu tiên thực hiện nghĩa vụ quân sự hàng năm của người Việt. Các đơn vị quân đội mới được tổ chức với các tình nguyện viên đến từ cộng đồng người Hoa. Những cụm quân sự đã được người Hoa thành lập ở Long Xuyên, người Khmer ở Cần Thơ, và người Việt ở Bà Rịa. Gỗ được đưa từ Campuchia đến các nhà máy đóng tàu ở Mỹ Tho và hơn 100 tàu đã được đóng ở đây. Nhà máy đóng tàu Sài Gòn đã sản xuất những con tàu có thể mang 26 đến 36 khẩu pháo cùng với trên 300 người.

Gạo đã được mua từ Xiêm để giảm bớt tình trạng nạn đói gần đây do hạn hán, và các biện pháp được thực hiện đồng bộ để giữ cho gạo địa phương không bị tích trữ và không dùng để nấu rượu. Dòng người tiếp tục đổ về từ phương Bắc, và trong dòng người đó thì rất khó để phân biệt đâu là người trung thành và đâu là gián điệp. Trong khi đó những gián điệp đã được gửi ra miền Bắc để nắm tình hình và lan truyền những bài hát về thời kỳ hưng thịnh của Chúa Nguyễn và loan tin rằng khi gió Nam trở lại là điều báo hiệu cho việc nhà Nguyễn phục hưng. Những cuộc thi văn học đã được tổ chức để kiểm tra kiến thức về lịch sử và khả năng tư duy về các vấn đề hiện tại của xã hội. Những người đạt điểm cao đã được chỉ định về dạy tại các trường công lập. Những người khác được miễn thuế và miễn trừ nghĩa vụ quân sự cùng với việc được giao cho tiếp tục học tập, nghiên cứu. Có những đền thờ đã được xây dựng để tưởng nhớ các linh hồn của những người đã thiệt mạng trong các trận chiến.

Vua Lào đã bắt giữ một số quân lính, biểu ngữ, và những chiếc trống trong cuộc chinh phạt của Nguyễn Huệ tới Lào trong năm đó. Chúng đã được gửi tới vua Xiêm, và vua Xiêm đã chuyển cho Nguyễn Phúc Ánh. Nguyễn Phúc Ánh gửi một phái đoàn đến Chakri ở Băng Cốc để gửi lời cảm ơn. Phái viên cũng được hướng dẫn để giải thích cho Chakri hiểu rằng, mặc dù có những ràng buộc và một vài căng thẳng giữa biên giới Khmer-Việt, Nguyễn Phúc Ánh vẫn xem Campuchia là một chư hầu của Xiêm La và sẽ tham khảo ý kiến của Xiêm các vấn đề liên quan đến Campuchia. Hai vị vua Xiêm-Việt trong giai đoạn trị vì này đã duy trì một mối quan hệ đáng tin cậy.

Năm 1792, Nguyễn Phúc Ánh nghe tin gián điệp của mình báo cáo có một hạm đội lớn của đối phương tại Qui Nhơn, cảng của Nguyễn Nhạc. Ông đã gửi hạm đội của mình đánh chiếm hạm đội địch và nhanh chóng chiếm lấy Qui Nhơn trước khi trở về Sài Gòn. Trong suốt chiến dịch lần này, lính bộ binh của ông đã tiến đến Phan Rang trước khi quay trở lại Bà Rịa khi gió đổi chiều. Những lãnh đạo người Chăm ở Bình Thuận đã thề trung thành với Nguyễn Phúc Ánh, và một vụ thu hoạch tốt đã xử lý nạn đói bấy lâu. Cùng lúc thì cũng nhận được tin tốt từ các gián điệp ở miền Bắc. Sau cái chết của Nguyễn Huệ, căng thẳng giữa Nguyễn Nhạc và những lãnh đạo ở Phú Xuân đã khiến cho Nguyễn Nhạc không được tham gia tang lễ của người em trai.

Trong hai năm 1791 và 1792, mối quan hệ giữa Nguyễn Phúc Ánh và Pierre Pigneau đã bị rạn nứt vì Pigneau đóng vai trò như là thầy dạy của Hoàng tử Cảnh. Nguyễn Phúc Ánh đã không còn tin tưởng vào con trai mình nữa vì nền giáo dục Ki-tô giáo đã chống lại phong tục tập quán địa phương, đặc biệt là việc thờ cúng tổ tiên. Do đó ông đã nhắc nhở nhẹ nhàng về vai trò người thầy của Pigneau đối với Hoảng tử Cảnh. Ông cũng đốc thúc Pigneau tấn công quân Tây Sơn ở thời điểm mà ông thấy là thuận lợi. Giai đoạn này, Pigneau đe dọa sẽ bỏ đi. Mặc dù vậy, năm 1793, sau nhiều cuộc thảo luận giữa hai người thì đã mở đường cho sự hòa giải. Pigneau được phục hồi là người cố vấn của Hoảng tử Cảnh, Hoàng tử Cảnh đã bắt đầu trưởng thành và hiểu về những phong tục ở địa phương hơn. Nguyễn Phúc Ánh lúc ấy đã sẵn sàng để tiến quân ra Bắc.

Cuộc tiến công nhờ mùa gió của Nguyễn Phúc Ánh năm 1793 thành công đã nâng vị thế chiến trường của quân ông lên rất nhiều. Để chuẩn bị, từ đầu năm ông đã ban hành một sắc lệnh kêu gọi người dân nỗ lực làm việc chăm chỉ để phục vụ đất nước. Ông cũng kêu gọi người dân chống lại nạn trộm cướp. Sau đó ông bắt đầu tổng động viên quân đội, bao gồm cả đội quân của người Khmer và đội quân được tuyển từ những người vùng cao. Gia đình quân nhân, bao gồm cả người Khmer đã được miễn thuế. Người Thanh, người Xiêm và người Pháp đã phục vụ trong các hạm đội cùng với người Việt.

Vào tháng 5 Âm lịch, gió Nam mạnh, Nguyễn Phúc Ánh đã điều hạm đội của ông chiếm lấy Nha Trang, nơi hội quân với lính bộ. Lực lượng thủy quân và lục quân sau đó đã tiến đánh Phú Yên, và sau nhiều trận đánh quyết liệt, đã đánh chiếm được những vị trí chiến lược xung quanh Chà Bàn – thủ đô của Nguyễn Nhạc, và các cảng biển Qui Nhơn. Trong khi quân của ông chiếm đóng và quân địch đã đầu hàng, với vũ khí thu được tại Chà Bàn và Qui Nhơn, ông đã điều những hạm đội của mình lên phía Bắc ở Quảng Ngãi – nơi ông được nhiều người dân địa phương ủng hộ và chiến đấu chống lại quân đội từ Phú Xuân đến để cứu nguy cho Nguyễn Nhạc.

Khi những cơn gió bắt đầu đổi chiều, Nguyễn Phúc Ánh đã rút lực lượng về Phú Yên. Sau đó, ông huy động khoảng 4000 người để xây dựng một thành lũy ở Diên Khánh, dưới sự giám sát của Olivier de Puymanel. Diên Khánh là vùng đất về phía Tây cách Nha Trang 15km, hiện nay là Khánh Hòa. Vị trí chiến lược để giữ con đường phía Nam của vùng Nha Trang. Một hệ thống nhà kho ở Bình Thuận để liên kết giữa Gia Đình với Diên Khánh đã được lập ra. Nguyễn Phúc Ánh đã xác định phải giữ được Diên Khánh bằng mọi giá.

Kẻ thù đã suy yếu như một kết quả hiển nhiên của những chiến dịch năm 1793. Nguyễn Nhạc chết, trong một cơn uất hận vì những vị tướng của ông đã không theo lệnh chỉ huy của ông. Con trai và là người kế vị mình, Nguyễn Bảo, ngay lập tức đã gây xung đột với những người lãnh đạo ở Phú Xuân. Nhưng việc xây dựng thành lũy Diên Khánh đã khiến bọn họ phải liên kết lại với nhau, ít nhất tại thời điểm hiện tại. Hai năm tiếp theo của cuộc chiến cơ bản là sự nỗ lực không có kết quả của các vị tướng đến từ Phú Xuân nhằm đánh chiếm Diên Khánh. Nguyễn Phúc Ánh đã thành công trong việc chuyển đổi sự tập trung của cuộc chiến đến nơi mà ông đã lựa chọn từ trước.

Trong suốt mùa khô năm 1793-1794, hầu như tất cả các hoạt động của Nguyễn Phúc Ánh được tập trung để cố thủ Diên Khánh. Tàu và vũ khí được sản xuất càng nhanh càng tốt. Các đơn vị quân địa phương được tổ chức ở Bình Thuận và khu vực Diên Khánh. Những người đến từ Quảng Ngãi đã tăng nhanh trong năm 1793 và được tổ chức thành một đội quân. Diên Khánh được tăng cường không chỉ lính Việt mà còn những dân tộc khác như người Khmer, Xiêm La và Mã Lai. Lính Chăm ở Diên Khánh đã được phép phục vụ ở tỉnh nhà Bình Thuận như một lực lượng quân đội. Một số lãnh đạo người Chăm là người đã ủng hộ Tây Sơn đã bị bắt và giết. Người Việt định cư ở đây đã được sắp xếp vào các công việc của người Chăm bỏ lại. Bên cạnh đó, Nguyễn Phúc Ánh đã bán gạo cho Xiêm La để hạn chế nạn đói.

Vào mùa xuân năm 1794, một số lượng lớn quân Tây Sơn đã tiến vào Phú Yên, buộc quân của Nguyễn Phúc Ánh phải rút lui về Diên Khánh. Ngay sau đó, Tây Sơn đã tấn công vào Diên Khánh. Thời gian này thì gió Nam cũng nổi lên thuận lợi cho việc ra biển của hải quân Nguyễn Phúc Ánh. Tin tức này khiến quân Tây Sơn rút về Phú Yên. Nguyễn Phúc Ánh liền tiến công Phú Yên, đã chiến đấu nhiều trận tại đó, và cũng gửi lực lượng hải quân để cắt đứt liên lạc của quân Tây Sơn ở Quảng Ngãi. Quân tiếp viện đã hành quân đến Phú Yên và ông ra lệnh sửa chữa lại phòng tuyến ở Diên Khánh. Những người lính Xiêm tại Diên Khánh được phép trở về nước và các quan chức ở Sài Gòn được lệnh tạo điều kiện để họ đi qua. Trước khi trở lại Sài Gòn, Nguyễn Phúc Ánh cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách để người Việt ở lại xây dựng vùng đất cũ của người Chăm ở Bình Thuận. Ông ra lệnh cho các lãnh đạo người Việt bàn bạc với lãnh đạo người Chăm để xét xử những tranh chấp biên giới một cách công bằng để hai bên có thể chung sống với nhau trong hòa bình.

Một thời gian ngắn sau khi những cơn gió thay đổi ở phía Bắc vào cuối năm 1794, nhà Tây Sơn quay lại tấn công. Họ tấn công vào phía Nam Phú Yên và những bức tường kiên cố của Diên Khánh theo cách chiến đấu riêng của họ, Nguyễn Phúc Ánh tiếp tục cung ứng khí tài, quân tiếp viện đến cho Võ Tánh, chỉ huy tại Diên Khánh. Đến cuối năm, sau những cuộc giao tranh ác liệt, quân Tây Sơn đã bao vây Diên Khánh và đang tiến đến Bình Thuận.

Trong vòng vài tuần đầu năm 1795, nhà Tây Sơn đã dồn quân lên tất cả những con đường đến Bà Rịa. Một đội quân 1500 người Khmer đã được tổ chức tại Trà Vinh, cùng với các đơn vị quân địa phương và đơn vị dự phòng khác ở Gia Định, được lệnh tiến quân. Quân Tây Sơn đã đẩy lùi sự tiến quân này. Trong khi đó, Nguyễn Phúc Ánh với hạm đội của mình, đã chuẩn bị đầy đủ khí tài và quân đội, chờ những cơn gió đổi chiều. Khi có được điều ấy, ông đã hành quân đến Nha Trang để làm giảm một phần áp lực lên Diên Khánh, sau đó tiếp tục tiến về Phú Yên cho đổ bộ một cánh quân khác để chặn không cho quân Tây Sơn thoát trở lại phía Bắc. Trong 4 tháng tiếp theo, chiến tranh liên tục nổ ra từ Bình Thuận cho đến Phú Yên. Bị thất bại ở Bình Thuận, quân Tây Sơn đã rút lui và hợp với cánh quân đang bao vây Diên Khánh. Cùng lúc, một đội quân gồm những người ở vùng cao đã giúp Nguyễn Phúc Ánh có được một chiến thắng quan trọng tại Phú Yên.

Cùng lúc đó tại Phú Xuân, một cuộc thanh trừng nội bộ đã xảy ra. Một vị tướng tên là Võ Văn Dũng đã giết chết nhiếp chính Bùi Đắc Tuyên. Tướng chỉ huy bao vây Diên Khánh là Trần Quang Diệu, là một người thân tín của Bùi Đắc Tuyên nên Võ Văn Dũng đã gửi người để giết ông. Trước khi điều này xảy ra, vòng bao vây Diên Khánh đã bị phá vỡ khi một kẻ phản bội quân Tây Sơn đã tiết lộ một con đường núi cho phép một đơn vị quân Sài Gòn tiến lên chiếm lĩnh những vị trí của quân Tây Sơn. Quân Tây Sơn đã bỏ chạy về phía Bắc còn những người chỉ huy của họ thì quay trở lại Phú Xuân để bắt đầu một cuộc tranh giành quyền lực. Cuối cùng, những người lãnh đạo Phú Xuân đã tạo ra một liên minh của 4 vị tướng có quyền lực nhất. Hai trong số đó là Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. Vị vua trẻ tuổi Nguyễn Toản đành quan sát một cách bất lực.

Trong ba năm, cuộc chiến đã xoay quanh Diên Khánh, một thành lũy được xây tại một địa điểm được lựa chọn bởi Nguyễn Phúc Ánh, như là bước đầu tiên để chiếm những vùng đất dọc bờ biển từ Sài Gòn. Sự thất bại của kẻ thù hòng chiếm Diên Khánh và sự thiếu đoàn kết của Phú Xuân đã khiến ông có thể đẩy mạnh sự tập trung vào cuộc chiến mở rộng ra phía Bắc đến tận Bình Định.
Dịch, chương 8, từ sách: A History of the Vietnamese
Phan Diệp dịch
Chú thích
Chương 6, 7 và 8 (thế kỷ 17 – 18)
Để phục vụ cho việc nghiên cứu để đưa ra những góc nhìn so sánh của chính phủ và xã hội Đàng Trong và Đàng Ngoài, tham khảo: Nguyễn Thanh Nhã, Tableau Économique du Viet Nam aux XVII et XVIII siècles (Paris: Éditions Cujas, 1970); và Đặng Phương Nghị, Les Institutions Publiques du Viet Nam au XVIII siècle (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1969). Đối với những bản báo cáo của người châu Âu về miền Bắc và miền Nam trong thế kỷ 17, tham khảo Olga Dror and K.W.Taylor, Views of Seventeenth Century Vietnam: Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2006). Trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn, tham khảo M. Léopold Michel Cadière, “Le Mur de Dong-Hoi: Étude sur l’Établissement des Nguyen en Cochinchine”,Bulletin de l’École Francaise d’Extrême-Orient 6 (1906): 87-254; Charles B.Maybon,Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820) (Paris: Librairie Plon, 1919); K.W.Taylor, “Surfaces Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, The Journal of Asia Studies 57, 4 (November 1998): 949-978.
Nghiên cứu tập trung vào miền Bắc, tham khảo: Philippe Langlet, La Tradition Vietnamese: Un État National au Sein de la Civilisation Chinoise (Saigon: B.S.E.I., New Series, Vol.XLV, 2-3, 1970); Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài, The Lê Code: Law in Traditional Vietnam, 3 vols. (Athens, OH: Ohio University Press, 1978); Insun Yu, Law and Society in Seventeeth and Eighteenth Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, 1990); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); K.W.Taylor, “The Literati Revival in Seventeenth-Century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies, 18, I (March 1987): I-23; A.B.Woodside, “Central Viet Nam’s Trading World in the Eighteenth Century as Seen in Ly Quy Don’s ‘Frontier Chronicles’”, biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essays into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 157-172; A.B.Woodside, “Conceptions of Change and of Human Resposibility for Change in late Traditional Vietnam”, biên tập bởi D.K.Wyatt và A.B.Woodside, Moral Order and the Question of Change: Essays on Southeast Asia Thought, chuyên khảo số 24 (New Haven: Yale Univesity Southeast Asia Studies, 1982), trang 104-150; K.W.Taylor, “Literacy in Early Seventeenth-Century Northern Vietnam”, biên tập bởi M.A.Aung-Thwin và K.R.Hall, New Perpective on the History and Historiography of Southeast Asia: Continuing Explorations (London: Routledge, 2011), trang 138-200.
Nghiên cứu tập trung vào miền Nam, tham khảo: Yang Baoyun, Contribution à l’Histoire de la Principauté des Nguyên au Vietnam Méridional, 1600-1775 (Geneva: Olizane/ Études Orientales, 1992); K.W.Taylor, “Nguyen Hoang and the Beginning of Viet Nam’s Southward Expansion”, biên tập bởi A. Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era(Ithaca: Cornell Univesity Press, 1993), trang 42-65; biên tập bởi Li Tana và A. Reid,Southern Vietnam under the Nguyen: Documents on the Economic History of Cochinchina (Dang Trong), 1602-1777 (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1993); và Li Tana,Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 1998); Claudine Ang Tsu Lynn, “Statecraft on the Margins: Drama, Poetry, and the Civilizing Mission in Eighteenth-century Southern Vietnam”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, 2012). Về thương mại và đóng tàu ở thế kỷ 18, tham khảo sách biên tập bởi Nola Cooke và Li Tana, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1850 (Lanham, MD: Rowman & Littlefield, 2004). Về người Trung Quốc nhập cư vào miền Nam, tham khảo Nguyễn Hội Chấn, “Some Aspects of the Chinese Community in Vietnam, 1650-1850”, Papers on China 24 (1971):104-124; Émile Gaspardone, “Bonzes des Ming réfugiés en Annam”, Sinologica 2 (1950): 12-30; và Charles Wheeler, “Buddhism in the Re-ordering of an Early Modern World: Chinese Missions to Cochinchina in the Seventeenth Century”, Journal of Global History 2 (2002): 303-324.
Cho những cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ 18, tham khảo George Dutton, The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-century Vietnam (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2001); Dian H. Murray, Pirates of the South China Coast, 1790-1810(Standford, CA: Standford University Press, 1987); và Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” biên tập bởi J. King Fairbank, The Chinese World Order (Cambridge, MA: Havard University Press, 1968), trang 165-179.
Về những đoàn ngoại giao Việt Nam sang triều nhà Thanh, tham khảo Liam C. Kelly,Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2005).
Về Cambodia, tham khảo Mak Phoeun, Histoire du Cambodge de la Fin du XVI sièclu au Début du XVIII (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1995); Khin Sok, Le Cambodge entre le Siam et le Vietnam de 1775 à 1860 (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1991); và Alfons Van Der Kraan, Murder and Mayhem in Seventeeth-century Cambodia (Bangkok: Silkworm Books, 2009).
Về thương mại quốc tế, tham khảo Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les Côtes du Vietnam et du Campa (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1972); Pierre-Yves Manguin, Les Nguyen, Macau et le Portugal (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1984); Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007); Robert LeRoy Innes, “The Door Ajar: Japan’s Foreign Trade in the Seventeenth Century”, Luận án Tiến sỹ (The University of Michigan, 1980); Danny Wong Tze-Ken, “The Nguyen Lords and the English Factory on Pulo Condore at the Beginning of the 18thCentury”, biên tập bởi F. Mantienne và K.W.Taylor, Monde du Viêt Nam-Vietnam World: Hommage à Nguyên Thê Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008), trang 371-384.
Về những nhà truyền giáo châu Âu, tham khảo: André Marillier, Nos Pères dans la Foi: Notes sur le Clergé Catholique du Tonkin de 1666 à 1765 (Paris: Églises D’Asie, 1995); Alain Forest, Les Missionaires Francais au Tonkin et au Siam, XVII-XVIII siècles, 3 vols. (Paris: L’Harmattan, 1998); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); Olga Dror, Adriano di St.Thecla’s “A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese”: A study of Religion in China and North Vietnam in the Eighteenth Century (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2002); Peter C. Phan, Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-century Vietnam(maryknoll, NY: Orbis Books, 1998); Brian Eugene Ostrowski, “The Nom Works of Geronimo Maiorica, S.J. (1589-1656) and their Christology”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, January 2006); Nola Cooke, “Strange Brew: Global, Regional and Local Factors behind the 1690 Prohibition of Christian Practice in Nguyen Cochinchine”, Journal of Southeast Asian Studies 39, 3 (October 2008): 383-409; Frédéric Mantienne, MGR Pierre Pigneau, Évêque d’Adran, Dignitaire de Cochinchine, Archives des Missions Étrangères, Études et Document 8 (Paris: Églises d’Asie, Série Histoire, 1999); Georges Taboulet, La Geste Francaise en Indochine, vol. I (Paris: Adrien-Maisonneuve, 1955); Micheline Lessard, “Curious Relations: Jusuit Perceptions of the Vietnamese” biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essay into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 137-156; Nicole-Domminique Le, Les Missions-Étrangères et le Pénétration Francaise au Viet-Nam (Paris: Mouton, 1975).

Nguồn: http://nguyenducmau.blogspot.com/2015/12/cuoc-chien-tranh-30-nam.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét