Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

(2) CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM

CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM
K.W. Taylor
Sự hồi sinh của nhà Nguyễn và sự suy tàn của nhà Trịnh
Mùa xuân năm 1777, Nguyễn Nhạc đã cử Nguyễn Huệ chinh phạt Sài Gòn với một lực lượng thủy quân lớn. Trong 6 tháng, Nguyễn Huệ đã đánh bại tất cả quân đội của nhà Nguyễn Phúc, bao gồm cả quân của Mạc Thiên Tứ và quân tiếp viện từ Phú Yên. Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Dương, và hầu hết những Hoàng tộc nhà Nguyễn Phúc đều bị bắt hoặc bị giết hại, trong đó có Lý Tài. Mạc Thiên Tứ đã chạy trốn sang Xiêm La. 
NguyenNhac.jpg
Tượng Nguyễn Nhạc tại bảo tàng Quang Trung
Nguyễn Phúc Ánh chạy trốn rất vất vả mới ra được đảo Thổ Chu, cách Mũi Cà Mau 150km về phía tây. Trong thời gian ngắn ông đã tìm được nơi ẩn náu ở một Trường dòng thuộc đất Hà Tiên dưới sự quản lý của nhà truyền giáo người Pháp tên là Pierre Pigneau (1741 – 1799, còn được biết đến với tên khác là Pigneau de Behaine, và tên Việt Nam là Bá Đa Lộc). Pierre Pigneau đã dành cả cuộc đời của ông để cống hiến cho sự nghiệp của Nguyễn Phúc Ánh. Không lâu sau Nguyễn Huệ đã trở lại Quy Nhơn vào mùa thu năm 1777, Nguyễn Phúc Ánh đã tập hợp lại những người thân tín với nhà Nguyễn Phúc. Cho đến cuối năm, với sự trợ giúp đắc lực của Đỗ Thanh Nhân, ông đã lấy lại Sài Gòn.

Trong suốt nửa đầu năm 1778, Nguyễn Phúc Ánh đã đẩy lùi tất cả những cuộc tấn công hòng chiếm lại Sài Gòn của nhà Tây Sơn. Nửa năm còn lại, ông tập trung xây dựng lực lượng bộ binh và thủy quân. Năm 1779, ông tạo ra một cơ cấu hành chính để quản lý những nơi đông dân nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, Nguyễn Phúc Anh cũng can thiệp vào Campuchia để tạo ra một chế độ thân thiện với ông. Outeireachea III đã chết năm 1777. Năm 1778, Chei Chéttha V, người có tư tưởng thân Xiêm La, đã cưỡng ép người dân đi lính và bắt họ tham gia đội quân của Taksin nhằm xâm lược Lào. Điều này đã gây ra một cảnh khốn cùng, bất ổn và như một điều tất yếu, sự nổi loạn. Năm 1779, Nguyễn Phúc Ánh gửi Đỗ Thanh Nhân cùng một đội quân để tôn Ang Eng – người con trai 5 tuổi của Outeireachea III, lên làm vua. Chei Chéttha đã bị giết, và một vị hoàng tộc người Việt tên Mou, được bổ nhiệm để làm quan nhiếp chính cho vị vua trẻ.

Năm 1780, Nguyễn Phúc Ánh lúc đấy mới 18 tuổi, đã tuyên bố mình là vua của Sài Gòn. Lãnh thổ của ông mở rộng ở miền Bắc đến tỉnh Phú Yên và chư hầu là Campuchia ở phía Tây. Dọc những con sông và bờ biển, đóng tàu tiếp tục là một lĩnh vực ưu tiên, một thiết kế mới về những con tàu hai khoang bắt đầu được sản xuất tại Sài Gòn, với tay chèo ở khoang dưới và khoang trên là binh lính. Đỗ Thanh Nhân đã phát minh ra phương tiện tấn công ở địa hình đầm lầy trong khi chống lại sự kháng cự của người Khmer ở Trà Vinh. Sự thành công của Đỗ Thanh Nhân và niềm tin của Nguyễn Phúc Ánh đặt vào ông đã khiến ông trở thành mục tiêu của sự ghen tị, và uy tín của ông đang lên cao đối với binh lính đã khiến cho Nguyễn Phúc Ánh có cảm giác bị đe dọa. Dù có phải lý do này hay không, vào mùa xuân năm 1781, Đỗ Thanh Nhân bị buộc tội phản bội và bị giết chết. Một cuộc nổi dậy từ những người trung thành với ông ngay sau đó nổ ra và rất khó khăn mới dập tắt được. Ngay sau đó, Nguyễn Phúc Ánh gửi một đội quân lớn để tham gia các trận đánh tại Phú Yên. Với đội thủy quân có đến 80 thuyền chiến, hai trong số chúng được thiết kế theo thiết kế của Châu Âu. Đây là điểm đáng chú ý trong những điều may mắn đến với Nguyễn Phúc Ánh trước nhiều năm gian khổ, phải tha hương cầu thực sau đó.

Từ khi tuyên bố lên ngôi vua năm 1776, Nguyễn Nhạc đã không còn ý chí để tiêu diệt nhà Nguyễn Phúc. Ông đã không còn tập trung sự chú ý vào kẻ thù ở miền Nam vì vẫn còn một mối lo ở miền Bắc, nơi mà ông đang duy trì một thỏa thuận đình chiến khó chịu. Trong những năm tháng này, ông tiếp tục duy trì quyền lực của mình ở ba tỉnh là Bình Định, Quảng Ngãi và Quảng Nam. Biên giới phía Nam đến tỉnh Phú Yên tranh chấp liên miên, trong khi biên giới giữa Quảng Nam và Thuận Hóa cần duy trì một sự phòng bị nghiêm ngặt, quân Trịnh thường có những cuộc đột kích vào Quảng Nam để kiểm tra sự cơ động của quân Tây Sơn và cướp lương thực. Tình trạng này xảy ra trong hai năm 1781 và 1782 như một kết quả tất yếu của một chuỗi các sự kiện liên quan đến sức khỏe yếu ớt và cái chết của Trịnh Sâm.

Cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XVIII, hạn hán và nạn đói hoành hành ở miền Bắc. Thuế khóa được miễn liên tục ở nông thôn. Trong khi đó vấn đề ruộng đất cũ tiếp tục xảy ra với việc tham ô tiền thu thuế và sự nỗ lực để phục hồi ruộng đất hoang không đạt kết quả. Năm 1776, các loại thuế của hơn một nửa ruộng đất đã đăng ký dành để trả lương cho bộ máy quan lại thay cho tiền. Các quan lại muốn thay đổi hình thức trả lương từ ruộng đất sang tiền, nhưng ngân khố cũng đã cạn kiệt. Cũng năm này, chính quyền cũng đã từ bỏ bất kỳ sự nỗ lực nào để đưa ra giải phát xử lý. Yêu cầu các quan chức cấp tỉnh báo cáo hàng năm về phúc lợi của những người dân đã bị dừng lại với lập luận rằng đó là một thủ tục phiền hà mà lãng phí thời gian và sản xuất không có kết quả. Tuy nhiên, vào năm 1779, tình trạng nạn đói đã khó khăn đến mức không thể phớt lờ, một sắc lệnh đã được ban ra cho chính quyền địa phương để điều tra điều kiện sống của người dân, nhưng điều này cũng không thể hiện điều gì cả. Người dân miền Bắc đã học cách sống chung với sự yếu kém của chính quyền.

Mặc dù không đủ khả năng để giải quyết vấn đề, Trịnh Sâm cũng không thể quên đi niềm mong muốn mãnh liệt trở thành vua. Năm 1777, ông đã gửi một sứ thần sang nhà Thanh để báo cáo về triều đại nhà Lê đã bắt đầu tan vỡ và yêu cầu sự thừa nhận ông như một vị vua. Vị sứ thần này đã rất băn khoăn bởi nhiệm vụ của mình và sau khi khởi hành, ông ấy đã đốt tất cả tài liệu và đã tự tử. Trong những năm này, Ngô Thì Sĩ và đặc biệt là Lê Quý Đôn đã cổ vũ cho việc ăn chơi trác táng của Trịnh Sâm. Lê Quý Đôn và người con trai tai tiếng của ông trở nên nổi tiếng về sự tham nhũng. Người con trai một thời gian ngắn sau đã bị bắt giam vào năm 1775. Năm 1776, Lê Quý Đôn đã dành nhiều tháng ở Thuận Hóa, được giao kiểm tra và báo cáo tình hình ở đây. Năm 1777 ông được cử đi kiểm tra việc đăng ký thuế tại Thanh Hóa. Năm 1778, Trịnh Sâm đã bỏ qua một vụ tố cáo công khai về tình trạng tham nhũng của Lê Quý Đôn và con trai. Năm 1779, Lê Quý Đôn đã có phen điêu đứng khi việc ông ăn hối lộ của một thủ lĩnh miền núi phía Bắc gây ra một cuộc nổi dậy. Thực tế thì một nguồn quan trọng đóng góp vào sự giàu có của Trịnh Sâm là từ những quan lại tham nhũng như Lê Quý Đôn.

Năm 1780, Trịnh Sâm đã hạ bệ người con trai cả Trịnh Khải và thay vào đó là người con trai ốm yếu giữa ông và người thiếp được ông nuông chiều, lên làm người thừa kế. Mẹ Trịnh Cầu có mối liên hệ mật thiết với gia đình của Hoàng Ngũ Phúc, một danh tướng đã qua đời. Có tin đồn rằng cháu của Hoàng Ngũ Phúc, Hoàng Đình Bảo, là người yêu của bà và rằng ông dự định giết Trịnh Cầu để lật đổ nhà Trịnh. Nguyễn Khải đã bị bắt giam khi bị phát hiện có âm mưu chống lại Hoàng Đình Bảo. Lê Quý Đôn và bè lũ đã thay mặt Hoàng Đình Bảo. Trong hai năm, tình trạng hỗn loạn này đã làm Trịnh Sâm và Trịnh Cầu suy yếu bởi bệnh tật.

Khi Trịnh Sâm chết vào mùa thu năm 1782, binh lính xứ Thanh - Nghệ đồn trú tại Kẻ Chợ đã giết Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cầu và đưa Trịnh Khải ra khỏi nhà tù, tôn làm chúa. Khi phá ngục để đưa Trịnh Khải ra thì ba người cháu của vua Lê cũng được cứu. Họ đã bị bỏ tù vào năm 1769 cùng với cha của mình, cựu thái tử Lê Duy Vĩ, kẻ thù thời thơ ấu của Trịnh Sâm. Lê Duy Vĩ đã bị truất ngôi thái tử bởi một người em trai, và bị giết hai năm sau. Vào đầu năm 1783, binh lính đã đưa người con trai trưởng của Lê Duy Vĩ, Lê Duy Khiêm, lúc đấy 18 tuổi, trở thành thái tử, truất ngôi người em trai của Lê Duy Vĩ đã được chọn bởi Trịnh Sâm.

Một thành viên của phe Hoàng Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh, người cũng là tay chân của Hoàng Ngũ Phúc lúc đó là chỉ huy tỉnh Nghệ An. Việc kẻ thù của mình giành được quyền lực tại Kẻ Chợ khiến ông ở một vị trí dễ bị công kích, vì vậy Nguyễn Hữu Chỉnh đã quyết định chạy trốn về phía Nam và đi theo Nguyễn Nhạc. Ông là sứ thần của Hoàng Ngũ Phúc phái tới gặp Nguyễn Nhạc năm 1775 và ngay lập tức ông đã chớp lấy cơ hội này. Ông khuyên Nguyễn Nhạc rằng đây là thời gian thuận lợi để chiếm lấy Thuận Hóa.

Trong khi đó, binh lính xứ Thanh - Nghệ ở Kẻ Chợ đã nắm trong tay quyền hành, bắt đầu chi phối và khủng bố cuộc sống bình thường của người dân với các cuộc bạo loạn và giết người. Năm 1784, Trịnh Khải đã có một kế hoạch bí mật để tăng số binh lính đến từ đồng bằng sông Hồng để tạo sự cân bằng đối với binh lính xứ Thanh – Nghệ, nhưng tin tức đã bị rò rỉ ra ngoài đã khiến ông lúng túng. Những nỗ lực nhằm chấn chỉnh lại quân đội đã thất bại. Họ đã lập một chế độ với sự cướp bóc, không giống với bất kỳ một chế độ thông thường nào. 

Năm 1785, Bùi Huy Bích (1744-1802), là tiến sỹ năm 1769, ông đã cố gắng để chấn chỉnh lại sự kiêu ngạo của binh lính bằng cách cho các hoạt động của vị vua Lê Duy Diêu xuất hiện nhiều hơn. Ông đã tổ chức những sự kiện lớn ở trong cung vua vào ngày mồng Một và ngày Mười Lăm âm lịch hàng tháng, khi mà Lê Quý Đôn – thân tín của Trịnh Sâm, đã bãi bỏ hơn một thập kỷ trước đó. Nhưng những nghi lễ này không thể thay thế được sức mạnh của binh lính khi đó.

Nhà Trịnh đã từng dựa vào binh lính xứ Thanh – Nghệ để tạo nên sức mạnh, bây giờ đã trở thành điểm yếu đối với quyền lực của nhà Trịnh. Quan lại ở Kẻ Chợ đã rơi vào thế bế tắc, và kẻ thù ở phía Nam thì đang ngày càng mạnh mẽ lên.

Thế lực và sự phân tranh của nhà Tây Sơn

Vua Taksin của Xiêm La không cam chịu với ảnh hưởng đang lên của Việt Nam khi ngồi lên ngai vàng là Ang Eng với quan nhiếp chính là Mou vào năm 1779. Năm 1780, Taksin đã bị buộc tội âm mưu giết 53 người Việt tị nạn chính trị ở Xiêm, bao gồm cả Mạc Thiên Tứ và một người con trai của Nguyễn Phúc Khoát. Trong suốt mùa đông khô ráo 1781-1782, ông đã cử tướng Charki tấn công Việt Nam và các đồng mình Khmer tại Campuchia. Ở giai đoạn giữa chiến dịch, ông bị lật đổ trong một cuộc đảo chính. Chakri có cuộc gặp gỡ với các vị tướng Việt Nam và đàm phán để chấm dứt xung đột, sau đó quay trở lại Xiêm và lên ngôi vua. Đây là khởi đầu của một liên minh giữa Chakri và Nguyễn Phúc Ánh cho 20 năm tiếp theo, cho đến khi cuộc nội chiến ở Việt Nam kết thúc.

Một thời gian ngắn sau khi quân đội Việt Nam quay về từ Campuchia vào mùa xuân năm 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đến với hàng trăm chiến thuyền và hàng ngàn quân lính ở cửa sông Cần Giờ, các lối chính vào sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Quân Tây Sơn tiến lên thượng nguồn đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt của chiếc tàu Châu Âu được chỉ huy bởi một người Pháp có tên Việt Nam là Hòe (Manuel). Người đàn ông này là một nhà thám hiểm người Pháp đã được giới thiệu với Nguyễn Phúc Ánh bởi Pierre Pigneau. Ông đã chết với con tàu của mình, và nhà Tây Sơn chiếm được Sài Gòn. Quân Tây Sơn hành quân chống lại Nguyễn Phúc Ánh ở Mỹ Tho, quân nhà Nguyễn từ bờ biển phía Bắc đến và tấn công quân Tây Sơn từ một hướng khác. Trong trận chiến xảy ra sau đó, quân đội dưới sự chỉ huy của một vị tướng từ cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn đã giết một người bà con của Nguyễn Nhạc, vị tướng này rất căm thù Nguyễn Nhạc vì đã giết hơn mười ngàn người trong cộng đồng người Hoa – xác những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em ngập trên những con sông. Nguyễn Phúc Ánh buộc phải chạy trốn ra đảo Phú Quốc từ rất sớm, ngoài khơi bờ biển Hà Tiên, ông đã gửi một yêu cầu đến vua Xiêm Chakri để được giúp đỡ.

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ trở về Qui Nhơn vào giữa mùa hè. Đến mùa thu, Nguyễn Phúc Ánh đã quay trở lại để chiếm Sài Gòn. Trong 6 tháng, ông chuẩn bị một cách vội vã để kịp tiến độ dự kiến phản công quân Tây Sơn đồng thời cũng huy động một đội quân Khmer từ Campuchia. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ quay trở lại tấn công vào mùa xuân năm 1783, một đội quân lớn đã hành quân đến Gia Định bằng đường biển. Liên quân Khmer – Việt của Nguyễn Phúc Ánh đã bị đánh bại, và lần nữa ông lại chạy trốn ra Phú Quốc.

Lời kêu gọi của Nguyễn Phúc Anh tới Chakri đã được trả lời vào mùa thu năm 1783 với đội quân Xiêm di chuyển qua Campuchia để tấn công quân Tây Sơn. Quan nhiếp chính ủng hộ Việt Nam, Mou, đã bị giết bởi kẻ thù của mình và được thay thế bằng một nhiếp chính thân với Xiêm, Ben, người đã nhường các tỉnh miền Tây Campuchia cho Xiêm La và gửi vị vua trẻ tuổi, Ang Eng, đến Băng Cốc để giữ an toàn. Một người em trai của Mou tên là Ten đã tập hợp những thân tín theo Tây Sơn và chống lại sự trỗi dậy của Xiêm. Đội quân thứ hai của Xiêm đến bằng đường biển ở Hà Tiên. Quân Tây Sơn và quân Xiêm đối mặt nhau và đã chiến đấu nhiều trận trong khu vực Sa Đéc cho đến khi người Xiêm buộc phải rút lui vào năm 1783. Tây Sơn tiến vào Phnôm Pênh và đưa Ten lên ngôi. Người Khmer thân Việt Nam đã tìm thấy sự bảo hộ mới từ nhà Tây Sơn. Trong khi đó, lực lượng Xiêm ở Campuchia đã hộ trợ Ben tại Oudong. Nguyễn Phúc Ánh và thân tín của ông đã được sự che chở của Chakri ở Băng Cốc – thủ đô mới của Xiêm La.

Vào giữa năm 1784, một cuộc chinh phạt rất lớn của Xiêm La đối với nhà Tây Sơn đã diễn ra trên cả đường bộ và đường biển. Quân Xiêm đã đánh bại quân Tây Sơn ở Sa Đéc và tiếp tục xuôi về Mỹ Tho, cửa ngõ vào Sài Gòn. Nguyễn Phúc Ánh phàn nàn với tướng quân Xiêm rằng binh lính của họ đã cướp bóc của cải của người dân địa phương và để lại tiếng xấu cho ông. Các tướng Xiêm không quan tâm tới những điều đó. Không biết gì về các dòng thủy triều ở hạ lưu sông Mê Kông, quân Xiêm đã rơi vào ổ phục kích của quân Tây Sơn trong khi đang chuẩn bị tấn công vào Mỹ Tho bằng đường sông. Trong những tháng Âm lịch cuối cùng của năm, trận Rạch Gầm – Xoài Mút đã đi vào lịch sử, Nguyễn Huệ đã đánh bại cuộc chinh phạt của quân Xiêm và quân Xiêm đã phải chạy thục mạng trên con đường họ đã đến.

Nguyễn Phúc Ánh lại một lần nữa phiêu bạt. Vào cuối năm 1785 ông tìm thấy nơi ẩn náu ở Xiêm La. Ông đã xây dựng một khu ẩn náu bên ngoài Băng Cốc với những người thân tín. Trong vòng vài tháng đã có hàng ngàn người dưới sự chỉ huy của ông. Những năm tiếp theo, ông phục vụ như là một đồng minh trung thành của Chakri đồng thời gửi gián điệp để do thám tình hình ở Gia Định. Ông đã lãnh đạo quân đội sử dụng hỏa lực chống lại sự xâm lược của Miến Điện. Khi quân Mã Lai xâm lược phía Nam Xiêm La, ông đã gửi quân đội để giúp đỡ. Sau hai năm sống lưu vong ở Xiêm La, ông đã có cơ hội trở lại Gia Định nhân một sự bất đồng giữa anh em nhà Tây Sơn.

Trong năm 1785, miền Bắc gặp khó khăn với mưa liên tục, côn trùng phá hoại mùa màng, hải tặc tàn phá bờ biển Quảng Yên (nay là Quảng Ninh), giá gạo tăng cao, nạn đói tăng cao. Tại Kẻ Chợ, Trịnh Khải bất lực nhìn binh lính xứ Thanh – Nghệ đóng quân xung quanh thành và đe dọa bộ máy quan lại. Ở Thuận Hóa, quan nhà Trịnh đã không quan tâm tới vấn đề quân đội. Bọn họ dành thời gian để tích cóp tài sản cá nhân từ buôn bán kinh doanh và không quan tâm đến việc bảo vệ biên giới.

Sau khi quân Tây Sơn giành quyền kiểm soát Gia Định và đánh đuổi Nguyễn Phúc Ánh chạy sang Xiêm lưu vong, và sau khi nhận được tin từ miền Bắc nhà Trịnh đang gặp khó khăn, Nguyễn Nhạc quyết định hành động theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh để đánh chiếm Thuận Hóa và giành lại giang sơn cũ của nhà Nguyễn. Hè năm 1786, Nguyễn Nhạc đã cử Nguyễn Huệ thống lĩnh quân đánh chiếm Thuận Hóa. Nguyễn Hữu Chỉnh và Võ Văn Nhậm chỉ huy bộ binh và Nguyễn Lữ chỉ huy thủy quân. Nhờ sự phản bội của một vài tướng lĩnh cấp cao nhà Trịnh mà việc chiếm Thuận Hóa diễn ra tương đối dễ dàng.

Nguyễn Huệ sau đó đã thực hiện một hành động mang tính quyết định. Nguyễn Hữu Chỉnh và một vài người miền Bắc khác đã thúc giục ông chiếm lấy Kẻ Chợ, chỉ ra rằng chính quyền miền Bắc đang bị xáo trộn nghiêm trọng. Không cần tham khảo ý kiến của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ để Nguyễn Lữ ở lại Phú Xuân và tiếp tục hành quân lên miền Bắc, thông báo rằng mục đích của cuộc hành quân là “phò Lê diệt Trịnh”. Gặp rất ít kháng cự trên đường đi, ông chiếm được Kẻ Chợ trong chưa đầy một tháng. Trịnh Khải chạy trốn và sau đó đã tự tử, quân Tây Sơn đàn áp lính Bắc Hà để ổn định lại trật tự.

Nguyễn Huệ đã đến gặp vua Lê Duy Diêu, người được biết đến như một vị vua tốt bụng và điềm đạm. Ông đã 70 tuổi và sức khỏe rất yếu, ông cố gắng để xoa dịu Nguyễn Huệ bằng cách gả một người con gái của mình cho Nguyễn Huệ. Sau đó ông đột ngột qua đời. Lê Duy Khiêm, vị thái tử 21 tuổi, đã được kế vị. Ngay sau đó, khi Lê Duy Diêu vừa được chôn cất ở Thanh Hóa, Nguyễn Nhạc xuất hiện, tức giận về cuộc chinh phạt của người em trai Nguyễn Huệ.

Nguyễn Nhạc xem xét tham gia vào công việc phía Bắc là một sai lầm lớn và không có giá trị như mong đợi là một nơi để cướp bóc, và cướp bóc là những gì mà ông và đội quân của ông đã làm. Nhưng trên tất cả, Nguyễn Nhạc đã không thích việc Nguyễn Huệ đã hành động theo sáng kiến riêng của mình. Về phần mình, Nguyễn Huệ đã bắt đầu nhìn xa hơn góc nhìn của anh trai mình và bực tức vì việc Nguyễn Nhạc cố gắng giữ mình trong vòng kiềm tỏa. Ông cũng hiểu rằng miền Bắc là một nơi khó khăn để để quản lý và ông cần một cơ sở vững chắc ở phía Nam.

Hai anh em đã cãi nhau, và sau đó đã quyết định giải quyết trên chiến trường. Nguyễn Nhạc huy động quân đội ở Gia Định hành quân về phía Bắc để giúp ông. Nguyễn Huệ đã phục kích đội quân ấy ở Phú Yên và buộc đội quân ấy phải ra hàng. Hai anh em đã chiến đấu trong nhiều tháng tại quê nhà Bình Định. Nguyễn Huệ bao vây Nguyễn Nhạc trong Thủ phủ của ông ở Chà Bàn, nhưng hai người đều đã mệt mỏi, và cuối cùng vào đầu năm 1787, hai bên đàm phán trong hòa bình, cùng phân chia quyền lực. Nguyễn Huệ cai quản Thuận Hóa và phía Bắc Quảng Nam. Ông đã đến Phú Xuân và tự xưng là “Bắc Bình Vương”. Nguyễn Nhạc tự xưng là “Trung ương Hoàng đế” ở Chà Bàn và sai Nguyễn Lữ giữ Gia Định.

Việc bất hòa giữa anh em nhà Tây Sơn đã mang đến cho Nguyễn Phúc Ánh cơ hội mà ông chờ bấy lâu. Đầu năm 1787, các cơ sở của ông đã sẵn sàng hành động ở dọc bờ biển Hà Tiên, Rạch Giá, và Cà Mau. Vào đầu thu, ông và những người thân tín của mình rời Xiêm bằng đường biển. Ông tập hợp đội quân của mình ở đảo Hòn Tre ngoài khơi bờ biển Rạch Giá. Lãnh đạo quân Tây Sơn ở các vùng đất dọc bờ biển ở phía Tây Việt Nam đã quy phục ông, hay như một tên cướp biển người Thanh ở Côn Đảo đã làm. Chỉ trong vòng vài tuần, ông đã thu phục được tất cả lãnh thổ phía Nam của hạ lưu sông Mê Kông.

Một cuộc tấn công vội vã vào Sài Gòn đã thất bại, nhưng nó đã khiến Nguyễn Lữ phải sợ hãi mà bỏ chạy vào Qui Nhơn, nơi mà ông đã chết không lâu sau đó. Mặc dù vậy, một số tướng lĩnh Tây Sơn vẫn ở lại và tiếp tục chống cự. Ten, người Khmer thân với Tây Sơn, đã chống lại Nguyễn Phúc Ánh một cách ác liệt. Kẻ thù của Ten, Ben, là người thân với Xiêm La, đã về phe Nguyễn Phúc Ánh. Đến cuối năm, Nguyễn Phúc Ánh đã bắt được Ten và giao nộp cho Xiêm La.

Vào mùa xuân năm 1788, Nguyễn Phúc Ánh đã giành được những chiến thắng liên tiếp trên chiến trường và các đơn vị Tây Sơn ra hàng rất nhiều. Đến mùa hè, Nguyễn Phúc Ánh đã tổ chức lại bộ máy, ban hành luật và các chế độ thuế trong các vùng đất thuộc quyền kiểm soát của ông, đến mùa thu, ông đã lấy lại Sài Gòn và tập trung để cấu trúc lại bộ máy. Tại thời điểm đó, nguyễn Huệ chuẩn bị thực hiện tham vọng của ông của phía Bắc. Lúc đó, Nguyễn Nhạc chỉ để ý duy trì vùng đất mình cai quản và sự bất lực của Nguyễn Lữ, đã mở đường cho Nguyễn Phúc Ánh trở về từ Xiêm La.
Năm 1788

Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ

Khi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ vội về phía Nam để chống lại nhau vào cuối năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh vẫn ở Nghệ An. Nguyễn Huệ giữ lại gia đình của Chỉnh làm con tin và mong đợi Chỉnh sẽ trông coi phía Bắc cho ông. Tại Kẻ Chợ, các tập đoàn du kích tập trung sau Trịnh Bồng - một người em trai của Trịnh Khải, và Trịnh Lê - chú của hai người. Vị vua không cùng phía với Trịnh Bồng và Trịnh Lê đã bị cho ra rìa. Trịnh Bồng là một người lười biếng và thiếu sự nhạy cảm chính trị, nhưng những người ủng hộ ông mong muốn sẽ tái lập lại sự thống trị của nhà Trịnh với chế độ quân chủ. Nhà vua uyên bác nhưng thiếu kinh nghiệm để làm chính trị. Ông muốn khẳng định triều đại của mình nhưng lại không biết làm như thế nào. Khi biết rõ ràng rằng Trịnh Bồng chuẩn bị để tiếm ngôi, ông đã triệu tập Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra để dẹp Trịnh Bồng.

Nguyễn Hữu Chỉnh hành quân ra miền Bắc, đánh bại đội quân Trịnh chống lại ông ở Thanh Hóa. Ông đã nắm quyền kiểm soát Kẻ Chợ, Trịnh Bồng và tay chân bỏ trốn. Nguyễn Hữu Chỉnh bắt đầu thay thế vai trò của chúa Trịnh. Nhà vua không hài lòng nhưng cũng đành cam chịu . Mùa hè năm 1787, Nguyễn Huệ đã trở về Phú Xuân sau cuộc chiến đấu với Nguyễn Nhạc. Ông đã xem những hành động của Nguyễn Hữu Chỉnh ở Kẻ Chợ như là sự không tuân phục. Ông cũng cảnh giác với những người thân thiết với anh trai của mình, và Nguyễn Hữu Chỉnh là một người như vậy. Nguyễn Huệ liền cử Võ Văn Nhậm để chiếm lại Nghệ An và triệu hồi Nguyễn Hữu Chỉnh. 

Nguyễn Hữu Chỉnh đã không về, lấy cớ là đang ở giữa một loạt những chiến dịch chống lại kẻ thù của mình ở miền Bắc, bao gồm cả Trịnh Bồng, người mà cuối cùng đã chạy tới biên giới nhà Thanh. Vua đã gửi một người chú trong hoàng tộc và một người trí thức cao tuổi, người đã từng dạy Nguyễn Hữu Chỉnh để yêu cầu Nguyễn Huệ rút lui ra khỏi Nghệ An. Nguyễn Huệ đã dìm chết hai người ở một con sông và ra lệnh cho Võ Văn Nhậm hành quân về phía Bắc để đánh Nguyễn Hữu Chỉnh.

Vào cuối năm 1787, Võ Văn Nhậm đánh bại Nguyễn Hữu Chỉnh và tiến lên để đánh chiếm Kẻ Chợ. Ông đã bắt và giết Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng nhà vua đã trốn thoát ra vùng ngoại thành, nơi mà rất nhiều tướng lĩnh vẫn ủng hộ ông. Khi Võ Văn Nhậm đang bận rộn để chiến đấu, ông đã gây ra mối hận thù với một vị tướng cấp dưới, Ngô Văn Sở. Ngô Văn Sở đã báo với Nguyễn Huệ rằng Võ Văn Nhậm đã không còn trung thành nữa. Nguyễn Huệ đã tin điều này vì Võ Văn Nhậm là em rể của Nguyễn Nhạc, kẻ địch của ông trong cuộc chiến trước đó. Nguyễn Huệ, chỉ huy một đội kỵ binh, đột nhiên xuất hiện ở Kẻ Chợ vào mùa hè năm 1788. Võ Văn Nhậm cố gắng thanh minh cho sự vô tội của mình nhưng Nguyễn Huệ đã trả lời: “Ngay cả khi người không có tội, ngươi vẫn làm ta lo lắng, và đấy là một trọng tội”. 

Nguyễn Huệ giết Võ Văn Nhậm và thay thế bằng Ngô Văn Sở. Ông đã gặp các quan lại ở Kẻ Chợ và để lại những người mà ông tin tưởng để đảm đương công việc. Nhận thấy cần gia tăng binh lính để kiểm soát miền Bắc, ông đã trở lại Phú Xuân để phát triển quân đội.
Trong khi vị vua Lê đang ở ngoại thành và suy nghĩ cách đối phó thì mẹ của ông đã sang nhà Thanh để cầu cứu sự giúp đỡ. Tổng đốc “lưỡng Quảng” (tức là Quảng Đông và Quảng Tây, các tỉnh cực nam của vương triều nhà Thanh), Sun Shiyi, mong muốn đạt được được vinh quang, và ông đã thuyết phục nhà Thanh chấp thuận hành động. Hoàng đế Càn Long (giữ ngôi 1735-1796) đã không quan tâm đến việc mở rộng lãnh thổ ở miền Nam, nhưng nghĩ mình là Thiên Tử đứng đầu một nước lớn, khi các nước lân bang nguy khốn cũng phải ra tay cứu giúp, ông đã điều động quân lính để hỗ trợ nhà Lê.

Khi vua Lê Duy Khiêm được tin quân Thanh chuẩn bị vượt qua biên giới, ông đã gửi những sứ giả đến để gặp các vị tướng nhà Thanh và dẫn đường họ đến Kẻ Chợ. Mùa thu năm 1788, quân đội nhà Thanh đã chiếm được Kẻ Chợ và Ngô Văn Sở rút về Thanh Hóa. Lê Duy Khiêm về lại cung và thúc giục quân Thanh chuẩn bị để đối phó với Nguyễn Huệ. Quân Thanh đã chủ quan khi đạt được mục tiêu của họ là đưa vua Lê Duy Khiêm chiếm lại được Kẻ Chợ.

Triều đình nhà Thanh không muốn xem một hoạt động nhỏ mở rộng thành một cam kết lớn, và hơn nữa, đã có những nghi ngờ của quan quân nhà Thanh về tương lai của nhà Lê. Quân Thanh đang trong quá trình chuẩn bị để rút lui thì vào Tết Nguyên Đán năm 1789, Nguyễn Huệ bất ngờ đột kích tiến đánh quân Thanh. Sau khi lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, ông đã hành quân thần tốc lên phía Bắc và đánh quân Thanh sang bên kia sông Hồng.

Nhờ sự hỗ trợ của các trí thức mà Nguyễn Huệ đã nhanh chóng đàm phán hòa bình với triều đình nhà Thanh, gửi lời xin lỗi, cống nạp, và chấp nhận thuần phục. Một phần trong đó là Nguyễn Huệ nhận lời tham dự lễ mừng thọ 80 của hoàng đế Càn Long năm 1790. Theo các nhà sử học Việt Nam, một người bà con bên ngoại của Nguyễn Huệ là Phạm Công Trị, người rất giống ông, đã đóng giả ông để sang dự lễ mừng thọ. Mặc dù quan quân nhà Thanh biết được điều này, nhưng bọn họ giữ im lặng để tránh bối rối và bất kỳ sự tham gia nào nữa vào công việc ở Việt Nam.

Những gì được biết về Nguyễn Huệ khiến cho việc ông thực hiện các nghi lễ và giao thức nghiêm ngặt tại triều đình nhà Thanh mà không tạo một sự khó chịu. Những điều này như là sự tô điểm của một nước lớn như triều Thanh, nên ông đã quyết định cho người khác đi thay mình. Ngoài ra, Nguyễn Huệ thiếu tin tưởng vào người khác nên ông không thể vắng mặt trong vài tháng được. Trong khi Nguyễn Phúc Ánh dành nhiều năm để tạo một cơ cấu hành chính phức tạp và nâng cấp sức mạnh quân sự của mình ở Sài Gòn, Nguyễn Huệ, trong suốt 4 năm cai trị ngắn ngủi, ông đã để lại một bộ máy không có nhiều sự thay đổi và đặt sự chú ý của mình vào việc xây dựng kinh đô mới và chuẩn bị để xâm lược nhà Thanh.

Nguyễn Huệ cai trị từ Phú Xuân. Ông bắt đầu xây dựng kinh đô mới ở Nghệ An, gần thành phố hiện đại Vinh bây giờ, nằm giữa Phú Xuân và Kẻ Chợ, nhưng nó không bao giờ được hoàn thành. Không có cải cách hành chính hay dấu hiệu của sự nỗ lực cải cách các vấn đề thông thường của bộ máy, ông đã để sang một bên các biện pháp kiến thiết hệ thống chính quyền mà đã được đưa ra từ các triều đại trước. Chế độ pháp luật và thuế để giữ các hoạt động công cộng đã được các nhóm trí thức nằm trong chính quyền nhà Trịnh trước đây nắm giữ. Một số vị quan duy trì sự trung thành với nhà Lê và từ chối phục vụ hoàng đế mới, nhưng cũng có không ít những người sẵn sàng ra phục vụ. Nguyễn Huệ không đặc biệt quan tâm lắm đến việc quản lý dòng thu thuế vì ông thu được một nguồn ổn định từ sự giàu có của những tên cướp biển người Thanh mà ông đã đưa vào lực lượng thủy quân và từ việc đánh cướp những con thuyền ở phía Nam biển Đông.

Thay đổi dường như có ý nghĩa nhất là sử dụng ngôn ngữ địa phương trong các văn bản của người Việt (chữ Nôm) thay vì dùng chữ của người Trung Quốc (chữ Hán) trong giáo dục, quản lý, và các văn bản hành chính. Không còn bằng chứng nào về điều này còn hiện hữu, vì Nguyễn Phúc Ánh đã phá hủy tất cả những tàn dư vào đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, không có lý do gì để nghi ngờ về điều này, chữ Nôm là một xu hướng mới trong văn học của thế kỷ XVIII.

Đóng góp quan trọng đầu tiên của chữ Nôm là đã sử dụng thi pháp Song thất lục bát từ những năm 1790 ở Kẻ Chợ. Đó là Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741-1798). Nguyễn Gia Thiều là là cháu ngoại của Trịnh Doanh, người đã giả vờ điên khi Nguyễn Huệ đánh đuổi họ Trịnh ở Kẻ Chợ. Ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ, nhưng đáng chú ý nhất là Cung Oán, được viết để nói lên tiếng nói của cung phi sống trong hoàng cung, đã có những khoảnh khắc được vua chú ý, còn sau đó thì sống phần đời còn lại trong sự cô đơn ở hậu cung, trách ông Trời đã quay lưng lại với mình. Sự cùng cực không được giải tỏa này có phần hơi khác so với Chinh phụ ngâm được viết trước đó hàng thế kỷ bởi Đặng Trần Côn, trong đó sự chờ đợi của người vợ được xoa dịu bằng việc cuối cùng người chồng cũng trở về như một anh hùng.

Việc sử dụng chữ Nôm có lẽ là phù hợp với Nguyễn Huệ vì trình độ học vấn và sự nghiệp của mình. Ông có thể đã được học với một người thầy của Nguyễn Nhạc, tên là Trương Văn Hiến, người đã chạy trốn từ Phú Xuân sau khi Trương Phúc Loan giết người anh trai của ông. Nguyễn Huệ chắc chắn đã có một kiến thức cơ bản về chữ Hán, nhưng chữ Nôm thì tiện hơn cho việc giao tiếp, điều hành quân đội và chỉ huy quân lính, là những việc ông biết và làm tốt nhất. Ông đã cố gắng để chuyển từ chữ Hán sang chữ Nôm trong khoa cử và điều hành quan lại, tuy nhiên lại không đạt được kết quả gì đáng kể trong vài năm ông làm hoàng đế.

Nguyễn Huệ có kế hoạch để tấn công nhà Thanh. Thay vì tập trung sự chú ý vào kẻ thù không đội trời chung ở Sài Gòn, ông có mộng tưởng sẽ thôn tính hai tỉnh của nhà Thanh là Quảng Đông và Quảng Tây. Suốt đời ông luôn tìm kiếm những cuộc chiến. Ông đã gửi những đội quân để cướp bóc Lào vào năm 1790 và 1791. Ông đã đánh bại một đội quân nhà Thanh, và điều này khiến ông nghĩ rằng mình có thể đánh bại những đội quân khác. Kế hoạch tấn công phía Bắc luôn gây sự hứng thú với ông hơn là lo lắng về những kẻ thù cũ ở miền Nam, những người mà ông đã từng đánh bại trong quá khứ và ông tin rằng ông có thể đánh bại bất cứ khi nào. Hơn nữa, sự chú ý của ông tập trung cho miền Bắc vì có rất nhiều tàu cướp biển đang đậu ở cảng của ông. Sự bất lực của chính quyền nhà Thanh trong việc bảo vệ bờ biển của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây là một dấu hiệu cho thấy ông có thể dễ dàng chiếm được hai tỉnh này. Ông đã chết năm 1792 ở tuổi 40, vào thời điểm đó ông đã xây dựng những hạm đội tàu lớn để vận chuyển voi chiến đến Quảng Đông và gửi sứ giả đến triều đình nhà Thanh để xin được kết hôn với một công chúa và xin của hồi môn là hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Khi những vị sứ giả nghe tin về cái chết của ông, họ đã đốt hết tài liệu và quay trở về.

Nguyễn Huệ, còn được gọi là hoàng đế Quang Trung, đã trở thành một anh hùng trong sử liệu của các sử gia bất chấp sự ngắn ngủi của triều đại ông. Điều này là do sức mạnh về quân sự khi ông đánh bại đội quân Xiêm ở phía nam và quân Thanh ở phía bắc. Tuy nhiên, sự tỏa sáng của ông trên chiến trường không tương ứng với khả năng điều hành đất nước. Khác với những người đã trở thành người sáng lập các triều đại, ông đã không dành nhiều tâm trí cho việc xử lý các công việc điều hành đất nước. Trong khi Nguyễn Huệ chiến thắng trong các trận chiến và mơ về tương lai của những cuộc chinh phục ở phía Bắc, thì ở phía Nam, Nguyễn Phúc Ánh bận rộn với việc đặt nền móng cho một chính quyền mới.
còn tiếp

Dịch, chương 8, từ sách: A History of the Vietnamese
Phan Diệp dịch
Chú thích
Chương 6, 7 và 8 (thế kỷ 17 – 18)
Để phục vụ cho việc nghiên cứu để đưa ra những góc nhìn so sánh của chính phủ và xã hội Đàng Trong và Đàng Ngoài, tham khảo: Nguyễn Thanh Nhã, Tableau Économique du Viet Nam aux XVII et XVIII siècles (Paris: Éditions Cujas, 1970); và Đặng Phương Nghị, Les Institutions Publiques du Viet Nam au XVIII siècle (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1969). Đối với những bản báo cáo của người châu Âu về miền Bắc và miền Nam trong thế kỷ 17, tham khảo Olga Dror and K.W.Taylor, Views of Seventeenth Century Vietnam: Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2006). Trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn, tham khảo M. Léopold Michel Cadière, “Le Mur de Dong-Hoi: Étude sur l’Établissement des Nguyen en Cochinchine”,Bulletin de l’École Francaise d’Extrême-Orient 6 (1906): 87-254; Charles B.Maybon,Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820) (Paris: Librairie Plon, 1919); K.W.Taylor, “Surfaces Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, The Journal of Asia Studies 57, 4 (November 1998): 949-978.
Nghiên cứu tập trung vào miền Bắc, tham khảo: Philippe Langlet, La Tradition Vietnamese: Un État National au Sein de la Civilisation Chinoise (Saigon: B.S.E.I., New Series, Vol.XLV, 2-3, 1970); Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài, The Lê Code: Law in Traditional Vietnam, 3 vols. (Athens, OH: Ohio University Press, 1978); Insun Yu, Law and Society in Seventeeth and Eighteenth Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, 1990); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); K.W.Taylor, “The Literati Revival in Seventeenth-Century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies, 18, I (March 1987): I-23; A.B.Woodside, “Central Viet Nam’s Trading World in the Eighteenth Century as Seen in Ly Quy Don’s ‘Frontier Chronicles’”, biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essays into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 157-172; A.B.Woodside, “Conceptions of Change and of Human Resposibility for Change in late Traditional Vietnam”, biên tập bởi D.K.Wyatt và A.B.Woodside, Moral Order and the Question of Change: Essays on Southeast Asia Thought, chuyên khảo số 24 (New Haven: Yale Univesity Southeast Asia Studies, 1982), trang 104-150; K.W.Taylor, “Literacy in Early Seventeenth-Century Northern Vietnam”, biên tập bởi M.A.Aung-Thwin và K.R.Hall, New Perpective on the History and Historiography of Southeast Asia: Continuing Explorations (London: Routledge, 2011), trang 138-200.
Nghiên cứu tập trung vào miền Nam, tham khảo: Yang Baoyun, Contribution à l’Histoire de la Principauté des Nguyên au Vietnam Méridional, 1600-1775 (Geneva: Olizane/ Études Orientales, 1992); K.W.Taylor, “Nguyen Hoang and the Beginning of Viet Nam’s Southward Expansion”, biên tập bởi A. Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era(Ithaca: Cornell Univesity Press, 1993), trang 42-65; biên tập bởi Li Tana và A. Reid,Southern Vietnam under the Nguyen: Documents on the Economic History of Cochinchina (Dang Trong), 1602-1777 (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1993); và Li Tana,Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 1998); Claudine Ang Tsu Lynn, “Statecraft on the Margins: Drama, Poetry, and the Civilizing Mission in Eighteenth-century Southern Vietnam”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, 2012). Về thương mại và đóng tàu ở thế kỷ 18, tham khảo sách biên tập bởi Nola Cooke và Li Tana, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1850 (Lanham, MD: Rowman & Littlefield, 2004). Về người Trung Quốc nhập cư vào miền Nam, tham khảo Nguyễn Hội Chấn, “Some Aspects of the Chinese Community in Vietnam, 1650-1850”, Papers on China 24 (1971):104-124; Émile Gaspardone, “Bonzes des Ming réfugiés en Annam”, Sinologica 2 (1950): 12-30; và Charles Wheeler, “Buddhism in the Re-ordering of an Early Modern World: Chinese Missions to Cochinchina in the Seventeenth Century”, Journal of Global History 2 (2002): 303-324.
Cho những cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ 18, tham khảo George Dutton, The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-century Vietnam (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2001); Dian H. Murray, Pirates of the South China Coast, 1790-1810(Standford, CA: Standford University Press, 1987); và Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” biên tập bởi J. King Fairbank, The Chinese World Order (Cambridge, MA: Havard University Press, 1968), trang 165-179.
Về những đoàn ngoại giao Việt Nam sang triều nhà Thanh, tham khảo Liam C. Kelly,Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2005).
Về Cambodia, tham khảo Mak Phoeun, Histoire du Cambodge de la Fin du XVI sièclu au Début du XVIII (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1995); Khin Sok, Le Cambodge entre le Siam et le Vietnam de 1775 à 1860 (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1991); và Alfons Van Der Kraan, Murder and Mayhem in Seventeeth-century Cambodia (Bangkok: Silkworm Books, 2009).
Về thương mại quốc tế, tham khảo Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les Côtes du Vietnam et du Campa (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1972); Pierre-Yves Manguin, Les Nguyen, Macau et le Portugal (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1984); Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007); Robert LeRoy Innes, “The Door Ajar: Japan’s Foreign Trade in the Seventeenth Century”, Luận án Tiến sỹ (The University of Michigan, 1980); Danny Wong Tze-Ken, “The Nguyen Lords and the English Factory on Pulo Condore at the Beginning of the 18thCentury”, biên tập bởi F. Mantienne và K.W.Taylor, Monde du Viêt Nam-Vietnam World: Hommage à Nguyên Thê Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008), trang 371-384.
Về những nhà truyền giáo châu Âu, tham khảo: André Marillier, Nos Pères dans la Foi: Notes sur le Clergé Catholique du Tonkin de 1666 à 1765 (Paris: Églises D’Asie, 1995); Alain Forest, Les Missionaires Francais au Tonkin et au Siam, XVII-XVIII siècles, 3 vols. (Paris: L’Harmattan, 1998); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); Olga Dror, Adriano di St.Thecla’s “A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese”: A study of Religion in China and North Vietnam in the Eighteenth Century (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2002); Peter C. Phan, Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-century Vietnam(maryknoll, NY: Orbis Books, 1998); Brian Eugene Ostrowski, “The Nom Works of Geronimo Maiorica, S.J. (1589-1656) and their Christology”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, January 2006); Nola Cooke, “Strange Brew: Global, Regional and Local Factors behind the 1690 Prohibition of Christian Practice in Nguyen Cochinchine”, Journal of Southeast Asian Studies 39, 3 (October 2008): 383-409; Frédéric Mantienne, MGR Pierre Pigneau, Évêque d’Adran, Dignitaire de Cochinchine, Archives des Missions Étrangères, Études et Document 8 (Paris: Églises d’Asie, Série Histoire, 1999); Georges Taboulet, La Geste Francaise en Indochine, vol. I (Paris: Adrien-Maisonneuve, 1955); Micheline Lessard, “Curious Relations: Jusuit Perceptions of the Vietnamese” biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essay into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 137-156; Nicole-Domminique Le, Les Missions-Étrangères et le Pénétration Francaise au Viet-Nam (Paris: Mouton, 1975).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét