Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

(1) CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM

Ba mươi năm chiến tranh vào cuối thế kỷ XVIII đã tạo ra đất nước Việt Nam mà chúng ta có thể thấy trên bản đồ hiện nay. Đến thập niên 70 của thế kỷ XVIII, chế độ Lê – Trịnh, và xã hội miền Bắc nói chung, đã đi xuống; người nông dân đã trở nên thờ ơ đối với những tham vọng của những vị vua chúa ở đây. Những sự việc xảy ra ở Kẻ Chợ đã không nhận được sự ủng hộ ở những nơi khác. Sau khi chính quyền vua Lê chúa Trịnh ra đi, miền Bắc chỉ đơn giản là chờ đợi kết quả mà được quyết định ở nơi khác. 30 Năm Chiến Tranh cơ bản là cuộc chiến giữa hai phần là biên giới của miền Nam, Bình Định và Gia Định. Hầu hết những cuộc chiến là ở trong và giữa hai nơi này. Đối với những người trong thời của Nguyễn Nhạc, ý tưởng rằng tất cả người Việt nên nằm trong một quốc gia là ý tưởng kỳ lạ, họ nghĩ nên tách thành hai, ba, hoặc nhiều hơn, các quốc gia riêng biệt. Nguyễn Phúc Ánh là một trong những nhà lãnh đạo khôn ngoan và bền bỉ nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông là một người sắc sảo trong tính cách và biết cách sử dụng nhiều loại người khác nhau. Ông có một tầm nhìn giúp ông có những mối bang giao thành công với những nhà cầm quyền láng giềng. Ông có sự hiểu biết mang tính chất nền tảng về bộ máy cai trị và biết đưa ra những luật định cụ thể. Sức mạnh hải quân đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của Nguyễn Phúc Ánh. Trong khi lực lượng hải quân Tây Sơn gồm những tàu đi đánh chiếm hoặc là tàu của cướp biển, các nhà máy đóng tàu tại Sài Gòn và Mỹ Tho sản xuất những tàu hải quân hiện đại hơn bất kỳ quốc gia châu Á nào tại thời điểm đó. Sự trỗi dậy của miền Nam đã mang 30 Năm Chiến Tranh đến hồi kết, chính là sự trỗi dậy của Sài Gòn và một tầm nhìn rộng lớn về thế giới đã phát triển ở đây.
CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM

K.W. Taylor
Sự trỗi dậy ở Quy Nhơn
Trong những năm 1770, chiến tranh đã nổ ra giữa những người Việt Nam với nhau. Nguyên nhân trực tiếp là một cuộc nổi dậy ở tỉnh Bình Định chống lại sự cai trị tồi tệ của Trương Phúc Loan. Có những thế hệ ở Bình Định sinh ra đã phải chịu gánh nặng về phục dịch lính, vật tư và giao thông để duy trì chính sách của nhà Nguyễn Phúc ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng như ở những vùng núi hoang vu.

Năm 1757
Bên cạnh đó, sự lớn mạnh của Xiêm La bắt đầu thách thức ảnh hưởng của Việt Nam ở Campuchia và chính quyền Phú Xuân khó lòng có thể vượt lên trên bãi lầy của tham nhũng và lũ quan lại thiếu năng lực, lúc ấy có một lực lượng chính trị mới nổi lên ở Bình Định.

Vào năm 1767, quân xâm lược Miến Điện đã chiếm Ayutthia, thủ đô của Xiêm. Một tỉnh trưởng của Xiêm tên là Taksin sau đó đã đánh đuổi những kẻ xâm lược và cai trị như một ông vua trong 14 năm (1768-1782). Cha của Taskin, là người Triền Châu – Trung Quốc, làm nghề thu thuế ở Xiêm đồng thời cũng sinh hoạt trong một cộng đồng thương gia Trung Quốc ở Xiêm. Taskin đã dành một phần tuổi trẻ của mình buôn bán ở Campuchia và đã học nói được hai thứ tiếng là Khmer và tiếng Việt. Ông bắt đầu trở thành vua của Xiêm La từ Chanthaburi, một tỉnh trên bờ biển phía Đông Nam của Xiêm gần biên giới Campuchia. 

Sự thông thuộc về Campuchia đã thúc đẩy tham vọng biến người hàng xóm thành chư hầu của ông. Lúc ấy, Taskin đã có được sự ủng hộ từ một hoàng tử Khmer, người được biết đến như Chei Chéttha V, con trai của cực Quốc vương Chie Chéttha IV, đã mất năm 1757.
Vua của Campuchia trong những năm 1760 là Outeireachea III. Chính quyền Việt Nam đã đặt ông lên ngôi vào năm 1758 thông qua sự can thiệp của Mạc Thiên Tứ, chúa đất Hà Tiên. Do đó, giữa hai bên đã có mối quan hệ đồng minh thân thiết. 

Đầu năm 1768, Taskin điều động một lực lượng quân lính bằng đường biển chiếm đóng đất đai trên bờ biển Campuchia xung quanh Kampot, chỉ cách 40 cây số về phía tây bắc của Hà Tiên, nhưng Outeireachea III đã từ chối cống nạp. Trong năm 1769, Xiêm và lực lượng Khmer đã hộ trợ Chei Chéttha tấn công Outeireachea III, và cùng một lúc, một nhóm người Triền Châu hoạt động như nội gián của Taksin cùng với một vài thành viên của gia đình Mạc Thiên Tứ đã chống lại vua Campuchia. Nhưng rốt cục thì cả cuộc tấn công và âm mưu đều thất bại.

Mạc Thiên Tứ đã có một vị trí vững chắc ở bờ biển Khmer-Việt, trong đó, không bao gồm tuyến đường bộ, là phương pháp lựa chọn của Taksin để đặt Thủ phủ Khmer. Taksin thấy rằng để đánh bại được Outeireachea III, việc đầu tiên phải làm là đối phó với Mạc Thiên Tứ. Năm 1770, hàng trăm người Khmer và Mã Lai là đồng minh với Taksin, đứng đầu là một kẻ phản bội từ quân đội của Mạc Thiên Tứ, đã tấn công Hà Tiên bằng đường biển. Mạc Thiên Tứ đã giải quyết được thách thức này nhưng nó đã để lại ra sự xáo trộn trong lực lượng của ông. Một số người gốc Hoa ở Hà Tiên bắt đầu thấy hứng thú khi làm ăn kinh doanh với ông vua mang hai dòng máu Triền Châu – Xiêm La và sẵn sàng vứt bỏ sự trung thành của họ với Phú Xuân. Trong năm đó, người dân ở Tây Nguyên, được khuyến khích bởi sự thiếu cảnh giác của Phú Xuân hoặc bởi nội gián của Taskin hay là cả hai, xuất hiện trên những cao nguyên và cướp bóc Quãng Ngãi, nỗi sự hãi và sự lo lắng đã nhanh chóng lan ra những vùng đất dọc bờ biển, từ Quảng Nam đến Phú Yên.

Năm 1771, Taskin đã tấn công bằng đường biển với một đội quân hùng hậu. Ông ta chiếm giữ Hà Tiên và hành quân đến Thủ phủ Khmer tại Oudong, nơi ông đưa Chei Chéttha V lên ngôi. Taskin đã đưa được “con rối” của mình lên ngai vàng Campuchia, do trùng hợp ngẫu nhiên hoặc do sắp đặt, một người tên Nguyễn Nhạc, được hỗ trợ bởi những người ở vùng cao, người Chăm, những thương gia Trung Quốc, và nông dân Việt Nam đã tự thành lập một chính quyền tại An Khê trên trục chính Đông – Tây, tuyến đường thương mại qua Tây Nguyên nối giữa Quy Nhơn với miền Bắc Campuchia và thủ đô Xiêm La. Ông đã phát động một cuộc nổi loạn và do đó đã bắt đầu Cuộc Chiến Tranh 30 Năm.
Năm 1771

Đồng bằng sông Cửu Long đang ở giữa những trận chiến giữa những đội quân Khmer và những quân đồng minh Xiêm La và Việt Nam, như một lực lượng viễn chinh lớn của Việt Nam đã được huy động tại Sài Gòn vào cuối năm 1771 đầu 1772. Giữa năm 1772, lực lượng này đã tiến lên thượng nguồn sông Mê Kông và trao lại ngai vàng cho Outeireachea III. Taksin rút binh sĩ của mình đến bờ biển và trở về Xiêm. Nhưng sau đó, ông đã lợi dụng sự hỗn loạn đang bắt đầu lan rộng ở Việt Nam để phục vụ lợi ích của mình tại Campuchia (gây ảnh hưởng lên chính quyền Outeireachea III – ND).

Đầu năm 1773, Nguyễn Nhạc chiếm Quy Nhơn. Ông tuyên bố mình là con cháu của Hồ Quý Ly. Cố nội của ông đã từng là tù nhân trong một cuộc chiến tranh do những người miền Nam khởi xướng và giao tranh tại Nghệ An, trong thời gian những năm 1650 và đã được giải quyết trên biên giới vùng cao của tỉnh Bình Định tại làng tên là Tây Sơn. Họ của ông đã đổi sang họ Nguyễn, tên họ phổ biến nhất ở miền Nam cho những người phải tha phương cầu thực đối với nhà cầm quyền mới. 

Nguyễn Nhạc là một thương gia trầu lưu và là chân sưu thuế nên đi lại rất nhiều nơi, điều này đã cho ông kiến thức thực tiễn về điều kiện của nhiều vùng khác nhau. Theo như những nhà sử học biết về Nguyễn Nhạc, ông ấy có một nhược điểm là ham mê cờ bạc và có thói quen lấy tiền thu thuế để trả các khoản nợ bạc. Khi điều này bị phát giác bởi chính quyền, ông đã trốn chạy vào núi và tổ chức một cuộc nổi loạn. Nhưng có nhiều điều để nói về cuộc nổi loạn của ông, về việc ông huy động những người dân vùng cao từ Tây Nguyên và ông cũng dựa trên biểu tượng vương quyền của người Chăm để tập hợp rất nhiều người. Hơn nữa ông được sự ủng hộ của cộng đồng thương gia Trung Quốc tại cảng Quy Nhơn. Tây Sơn và An Khê đã liên lạc với cộng đồng thương gia Trung Quốc không chỉ ở dọc bờ biển Quy Nhơn mà còn mở rộng sang phía Tây, ở Campuchia và thủ đô Xiêm La. Việc chiếm giữ Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc đã khiến ông trở thành một nhân vật quan trọng trong thế giới chính trị của cộng đồng những người nói tiếng Việt. Ông sẽ cai trị Quy Nhơn cho đến khi qua đời vào năm 1793.

Nguyễn Nhạc đã được hưởng lợi từ những tai ương xảy ra với đất nước với sự phản bội của Trương Phúc Loan, người đã soán ngôi dòng tộc Nguyễn Phúc. Chính vì thế, ông không gặp khó khăn gì khi tuyển mộ binh lính. Ông sử dụng chiến thuật bất ngờ để làm suy yếu kẻ thù, thủ thuật đơn giản như có những người đàn ông hét và làm huyên náo vũ khí của họ khi tấn công. Ông đã tổ chức các đội quân xung kích và đặc biệt là những người đàn ông cao lớn được đưa vào trận chiến với kiểu tóc Thanh, cởi trần với vàng và bạc giấy dán vào cơ thể của họ như đang làm lễ cúng các vị thần. Binh sĩ ở thành Phú Xuân, do không nể phục Trương Phúc Loan, đã chạy sang quân của Nguyễn Nhạc. Đến cuối năm 1773, biên cương của Nguyễn Nhạc đã trải dài từ Quảng Nam đến thành Gia Định.
Năm 1773

Nguyễn Cửu Đạt, một người thuộc dòng họ Nguyễn Cửu danh tiếng là tâm phúc của nhà Nguyễn Phúc trong một thế kỷ rưỡi, đã đẩy lùi các cuộc tấn công của Nguyễn Nhạc vào Quảng Nam. Vào đầu năm 1774, quân đội Phú Xuân đặt tại Gia Định bị đẩy về phía Bắc và tái chiếm những vùng lãnh thổ có địa hình đồi núi tại đèo Cả ở địa hạt phía Bắc tỉnh Phú Yên. Nhưng trong một vài tuần tình hình đã thay đổi đáng kể khi Trịnh Sâm quyết định gây chiến về phía Nam.

Mặc dù Nghệ An đang gặp nạn đói, nhưng Trịnh Sâm không thể không tận dụng những khó khăn đang gây khó dễ cho kẻ thù ở phía Nam. Chúa Trịnh đã cho triệu lại vị thái giám tâm phúc Hoàng Ngũ Phúc (mất năm 1775), và cho ông ta chỉ huy một chinh phạt vào phía Nam. Khi đã vượt qua sông Gianh năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc cho người đưa tin rằng mình đến để giúp dập tắt quân phiến loạn Nguyễn Nhạc. Ông gặp Sứ giả của nhà Nguyễn Phúc, và vị Sứ giả này đảm bảo với ông rằng điều này là không cần thiết. Nhưng một trong những sứ giả, muốn lật đổ Trương Phúc Loan, đã bí mật giúp đỡ Hoàng Ngũ Phúc hành quân về phương Nam. Tất cả những binh lính tinh nhuệ nhất của quân Nguyễn Phúc đang ở Quảng Nam để chống Nguyễn Nhạc. Đội quân mà sẽ chiến đấu với quân Trịnh là đội quân nhút nhát và có khả năng chiến đấu kém. Sự việc càng khó khăn hơn khi Thuận Hóa đang mắc kẹt trong nạn đói. Một tàu gạo từ Hà Tiên do Mạc Thiên Tứ gửi ra đã bị cướp bởi quân lính của Nguyễn Nhạc. Nhân dân ở Thuận Hóa đã chết rất nhiều và ở nhiều nơi đã có chuyện ăn thịt người. Chính vì thế, khi quân đội Trịnh đến đánh thành Trấn Ninh, quân lính miền Nam đã mở cổng thành và chạy trốn.

Vậy là Hoàng Ngũ Phúc nghiễm nhiên chiếm được thành Trấn Ninh, ông đã đưa ra một thông báo rằng ông không chỉ đến tiểu trừ bọn phiến loạn Nguyễn Nhạc mà còn đánh đuổi sự bạo tàn của Trương Phúc Loan. Ông kêu gọi người dân miền Nam giao nộp Trương Phúc Loan. Một nhóm các hoàng tử Nguyễn Phúc và Nguyễn Cửu Pháp, một thành viên của dòng họ Nguyễn Cửu, đã ra sức truy tìm Trương Phúc Loan và nộp cho Hoàng Ngũ Phúc. Hoàng Ngũ Phúc tiếp tục cuộc Nam tiến với một vị hoàng tử trẻ, Nguyễn Phúc Thuận, và một loạt những hoàng tộc khác, nhẫn nhục trước nhà Trịnh. Trong tháng cuối cùng của năm 1774, Hoàng Ngũ Phúc đã đến Phú Xuân và những người lãnh đạo họ Nguyễn Phúc đã chạy vào Quảng Nam.

Trong vòng vài tuần, lực lượng của Nguyễn Nhạc đã di chuyển lên phía Bắc để tận dụng lợi thế của thành Phú Xuân. Hai thương gia Trung Quốc, Tập Đình và Lý Tài, đã đi theo Nguyễn Nhạc khi ông chiếm được Quy Nhơn vào năm 1773, bên cạnh đó thì đội thủy quân bấy giờ đã có thêm những tên cướp biển nhà Thanh. Lực lượng thủy quân của Nguyễn Nhạc phong tỏa Hội An ở cửa sông Thu Bồn còn lực lượng trên bộ thì hành quân về phía Bắc dọc theo chân núi về phía hạ lưu để hội quân. Nhà Nguyễn Phúc đã bị đánh bại và tìm cách trốn thoát. Nguyễn Phúc Thuần có người cháu trai là Nguyễn Phúc Dương, con trai của một vị Thái tử đã mất năm 1760, đã để lại cho Nguyễn Phúc Dương chỉ huy binh sĩ còn sót lại ở Quang Nam, trong khi ông và nhiều người khác chạy vào Gia Định. Một chiếc thuyền chở tướng quân Nguyễn Phúc đã bị đánh chìm trong một cơn bão, nhưng chiếc tàu chở Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Ánh, con trai mười bốn tuổi của Nguyễn Phúc Côn, người được chỉ định thừa kế Nguyễn Phúc Khoát, người mà Trương Phúc Loan đã giết chết năm 1765, đã đến Nha Trang và được chào đón bởi các quan lại trung thành trước khi tiếp tục cuộc hành trình đến Gia Định.

Nguyễn Nhạc đã bắt Nguyễn Phúc Dương ở Quảng Nam một cách nhanh chóng trước khi Hoàng Ngũ Phúc tiến công từ phía Bắc và đẩy ông trở lại địa bàn cũ. Tập Đình, bị đánh bại bởi nhà Trịnh, đã bỏ trốn lên Quảng Đông, nơi nhà Thanh xem ông như là tên cướp biển và đã giết ông. Lý Tài đi theo Nguyễn Nhạc trở lại Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Dương thuyết phục Nguyễn Nhạc hợp tác với Nguyễn Phúc Thuần ở Gia Định để đối phó với nhà Trịnh, nhưng Nguyễn Nhạc đã có một ý tưởng là tôn Nguyễn Phúc Dương lên làm vua để có thể tập hợp người dân miền Nam đối phó với nhà Trịnh. Nguyễn Phúc Dương đã từ chối lời đề nghị này, và trong vài tháng giữa năm 1775, sự may mắn của Nguyễn Nhạc dường như đã hết khi quân lính nhà Trịnh đã đến địa giới phía Bắc tỉnh Quảng Ngãi và quân đội Nguyễn Phúc đã tái chiếm Phú Yên, phía nam Quy Nhơn. Lý Tài, nghĩ rằng Nguyễn Nhạc đã không đối đãi mình tử tế, đã chạy sang quân Nguyễn Phúc ở Phú Yên.

Dưới sự tấn công của quân nhà Nguyễn Phúc tại Phú Yên ở phía Nam và với quân Trịnh đe dọa từ Quảng Ngãi ở phía Bắc, Nguyễn Nhạc liền gửi một vài vật phẩm tới Hoàng Ngũ Phúc với mong muốn được hòa hoãn. Ông nghĩ họ Trịnh từ nơi xa đến, không quen địa hình thổ nhưỡng, như một kẻ thù ít nguy hiểm so với quân của Chúa Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc đã gửi một trong những vị tướng của ông, Nguyễn Hữu Chỉnh, để gặp Nguyễn Nhạc và đồng ý với lời mong muốn hòa hoãn, và bổ nhiệm Chỉnh để lãnh đạo đối phó với quân nhà Nguyễn Phúc.

Trong vòng một vài tuần, tình hình đã thay đổi đáng kể khi có một dịch bệnh đã làm điêu đứng quân Trịnh ở Quảng Nam. Hoàng Ngũ Phúc rút về Phú Xuân và chết ngay sau đó. Nhà Trịnh bỏ Quảng Nam, định cư ở Thuận Hóa, và từ bỏ ý định tiến về phía Nam. Nguyễn Nhạc hành quân lên phía Bắc và tái chiếm Quảng Nam từ tàn quân nhà Nguyễn Phúc khi nhà Trịnh rút đi. Đồng thời, người em trai của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ, đã tấn công xuống miền Nam vào Phú Yên và đặt một hệ thống phòng thủ đối với nhà Nguyễn Phúc.
Nguyễn Nhạc đã nhanh chóng tận dụng lợi thế của thời cơ hiếm có này. Vào đầu năm 1776, ông đã ra lệnh cho người em trai Nguyễn Lữ hành quân xuống chinh phạt Gia Định. Nguyễn Lữ chiếm được Sài Gòn. Một tâm phúc của nhà Nguyễn Phúc, Bùi Hữu Lê, đã bị bắt và sau đó trở nên nổi tiếng khi đã mắng thẳng vào mặt một trong những vị tướng của Nguyễn Lữ, đã khiến người này tức điên lên, sau đó đã giết và ăn thịt ông.

Vui mừng với những chiến thắng liên tiếp ở Quảng Nam và Gia Định, Nguyễn Nhạc, vào mùa xuân năm 1776, tuyên bố lên ngôi Hoàng đế của Tây Sơn ở thành Chà Bàn, kinh đô cũ của người Chăm cổ Vijaya, khoảng hai mươi lăm cây số về phía Tây Bắc của Quy Nhơn, gần thị trấn sầm uất An Nhơn. Ở đây, ông đã cai trị trong 17 năm tiếp theo. Nhưng chỉ hai tháng sau, tướng nhà Nguyễn Phúc ở Mỹ Tho, Đỗ Thanh Nhân, đã chiếm lại Sài Gòn, nhà Nguyễn Phúc phải chạy trở về Quy Nhơn. Trong năm tiếp theo, từ giữa năm 1776 đến giữa năm 1777, việc cai quản của nhà Nguyễn tại Sài Gòn gặp vấn đề khi Lý Tài từ Phú Yên đến và giữa Lý Tài và Đỗ Thanh Nhân xảy ra mối bất hòa. 

Khi Nguyễn Phúc Dương đến Sài Gòn sau khi chạy thoát khỏi Nguyễn Nhạc, Lý Tài đã tôn xung ông lên làm Vua và lấn át lực lượng của Nguyễn Phúc Thuần. Tại Mỹ Tho, Đỗ Thành Nhân (mất năm 1781) và Nguyễn Phúc Ánh vẫn đi theo Nguyễn Phúc Thuần, “ông vua chính thống”.
Năm 1774

Trong cuộc giao tranh với Nguyễn Lữ hồi đầu năm, Nguyễn Phúc Thuần kêu gọi sự ủng hộ từ Campuchia. Vào năm trước, 1775, Outereachea III bình thường hóa quan hệ với ứng viên của Taksin cho Vương triều Khmer, Chei Chéttha V. Chei Chéttha V trở thành Vua và Outeireachea III lui về “nghỉ ngơi”. Trong năm 1776, Chei Chéttha V từ chối lời khẩn cầu của Nguyễn Phúc Thuần. Đến cuối năm, Nguyễn Phúc Ánh đã chỉ huy một đoàn quân đi ngược dòng Mê Kông trừng phạt ông vua Khmer này. Mặc dù chỉ mới mười bốn tuổi, ông đã tổ chức quân đội của mình, ông đã cho thấy phẩm chất khác thường của một nhà lãnh đạo bẩm sinh.

Sau năm năm chiến đấu, hai chế độ Việt Nam đã trở thành ba. Miền Bắc đến Thuận Hóa nhưng không có khả năng di chuyển xa hơn nữa. Lãnh thổ của Nguyễn Nhạc miền Bắc từ đèo Hải Vân đến vùng đất khô nóng Bình Thuận ở phía Nam. Tàn dư của tôn thất nhà Nguyễn Phúc và những người theo họ cố gắng xây dựng một trung tâm quyền lực mới ở Sài Gòn. Đây không phải là cuộc chiến giữa miền Bắc và miền Nam. Đối với hầu hết các giai đoạn, miền Bắc đã quan sát một cách thụ động trong cuộc chiến này, vì một tập đoàn không có khả năng lãnh đạo, rối loạn bộ máy và nhân dân không còn tin tưởng và chế độ. Điều này đã khiến cuộc chiến tranh giữa hai nhóm người miền Nam có bản doanh tại Quy Nhơn và Sài Gòn. Vị trí quan trọng của Sài Gòn ngày càng thể hiện qua cuộc chiến tranh. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, việc kiểm soát được Sài Gòn xem như là chiến lợi phẩm của bên thắng trận.

còn tiếp

Chú thích
Chương 6, 7 và 8 (thế kỷ 17 – 18)
Để phục vụ cho việc nghiên cứu để đưa ra những góc nhìn so sánh của chính phủ và xã hội Đàng Trong và Đàng Ngoài, tham khảo: Nguyễn Thanh Nhã, Tableau Économique du Viet Nam aux XVII et XVIII siècles (Paris: Éditions Cujas, 1970); và Đặng Phương Nghị, Les Institutions Publiques du Viet Nam au XVIII siècle (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1969). Đối với những bản báo cáo của người châu Âu về miền Bắc và miền Nam trong thế kỷ 17, tham khảo Olga Dror and K.W.Taylor, Views of Seventeenth Century Vietnam: Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2006). Trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn, tham khảo M. Léopold Michel Cadière, “Le Mur de Dong-Hoi: Étude sur l’Établissement des Nguyen en Cochinchine”,Bulletin de l’École Francaise d’Extrême-Orient 6 (1906): 87-254; Charles B.Maybon,Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820) (Paris: Librairie Plon, 1919); K.W.Taylor, “Surfaces Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, The Journal of Asia Studies 57, 4 (November 1998): 949-978.
Nghiên cứu tập trung vào miền Bắc, tham khảo: Philippe Langlet, La Tradition Vietnamese: Un État National au Sein de la Civilisation Chinoise (Saigon: B.S.E.I., New Series, Vol.XLV, 2-3, 1970); Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài, The Lê Code: Law in Traditional Vietnam, 3 vols. (Athens, OH: Ohio University Press, 1978); Insun Yu, Law and Society in Seventeeth and Eighteenth Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, 1990); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); K.W.Taylor, “The Literati Revival in Seventeenth-Century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies, 18, I (March 1987): I-23; A.B.Woodside, “Central Viet Nam’s Trading World in the Eighteenth Century as Seen in Ly Quy Don’s ‘Frontier Chronicles’”, biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essays into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 157-172; A.B.Woodside, “Conceptions of Change and of Human Resposibility for Change in late Traditional Vietnam”, biên tập bởi D.K.Wyatt và A.B.Woodside, Moral Order and the Question of Change: Essays on Southeast Asia Thought, chuyên khảo số 24 (New Haven: Yale Univesity Southeast Asia Studies, 1982), trang 104-150; K.W.Taylor, “Literacy in Early Seventeenth-Century Northern Vietnam”, biên tập bởi M.A.Aung-Thwin và K.R.Hall, New Perpective on the History and Historiography of Southeast Asia: Continuing Explorations (London: Routledge, 2011), trang 138-200.
Nghiên cứu tập trung vào miền Nam, tham khảo: Yang Baoyun, Contribution à l’Histoire de la Principauté des Nguyên au Vietnam Méridional, 1600-1775 (Geneva: Olizane/ Études Orientales, 1992); K.W.Taylor, “Nguyen Hoang and the Beginning of Viet Nam’s Southward Expansion”, biên tập bởi A. Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era(Ithaca: Cornell Univesity Press, 1993), trang 42-65; biên tập bởi Li Tana và A. Reid,Southern Vietnam under the Nguyen: Documents on the Economic History of Cochinchina (Dang Trong), 1602-1777 (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1993); và Li Tana,Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 1998); Claudine Ang Tsu Lynn, “Statecraft on the Margins: Drama, Poetry, and the Civilizing Mission in Eighteenth-century Southern Vietnam”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, 2012). Về thương mại và đóng tàu ở thế kỷ 18, tham khảo sách biên tập bởi Nola Cooke và Li Tana, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1850 (Lanham, MD: Rowman & Littlefield, 2004). Về người Trung Quốc nhập cư vào miền Nam, tham khảo Nguyễn Hội Chấn, “Some Aspects of the Chinese Community in Vietnam, 1650-1850”, Papers on China 24 (1971):104-124; Émile Gaspardone, “Bonzes des Ming réfugiés en Annam”, Sinologica 2 (1950): 12-30; và Charles Wheeler, “Buddhism in the Re-ordering of an Early Modern World: Chinese Missions to Cochinchina in the Seventeenth Century”, Journal of Global History 2 (2002): 303-324.
Cho những cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ 18, tham khảo George Dutton, The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-century Vietnam (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2001); Dian H. Murray, Pirates of the South China Coast, 1790-1810(Standford, CA: Standford University Press, 1987); và Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” biên tập bởi J. King Fairbank, The Chinese World Order (Cambridge, MA: Havard University Press, 1968), trang 165-179.
Về những đoàn ngoại giao Việt Nam sang triều nhà Thanh, tham khảo Liam C. Kelly,Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2005).
Về Cambodia, tham khảo Mak Phoeun, Histoire du Cambodge de la Fin du XVI sièclu au Début du XVIII (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1995); Khin Sok, Le Cambodge entre le Siam et le Vietnam de 1775 à 1860 (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1991); và Alfons Van Der Kraan, Murder and Mayhem in Seventeeth-century Cambodia (Bangkok: Silkworm Books, 2009).
Về thương mại quốc tế, tham khảo Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les Côtes du Vietnam et du Campa (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1972); Pierre-Yves Manguin, Les Nguyen, Macau et le Portugal (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1984); Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007); Robert LeRoy Innes, “The Door Ajar: Japan’s Foreign Trade in the Seventeenth Century”, Luận án Tiến sỹ (The University of Michigan, 1980); Danny Wong Tze-Ken, “The Nguyen Lords and the English Factory on Pulo Condore at the Beginning of the 18thCentury”, biên tập bởi F. Mantienne và K.W.Taylor, Monde du Viêt Nam-Vietnam World: Hommage à Nguyên Thê Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008), trang 371-384.
Về những nhà truyền giáo châu Âu, tham khảo: André Marillier, Nos Pères dans la Foi: Notes sur le Clergé Catholique du Tonkin de 1666 à 1765 (Paris: Églises D’Asie, 1995); Alain Forest, Les Missionaires Francais au Tonkin et au Siam, XVII-XVIII siècles, 3 vols. (Paris: L’Harmattan, 1998); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); Olga Dror, Adriano di St.Thecla’s “A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese”: A study of Religion in China and North Vietnam in the Eighteenth Century (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2002); Peter C. Phan, Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-century Vietnam(maryknoll, NY: Orbis Books, 1998); Brian Eugene Ostrowski, “The Nom Works of Geronimo Maiorica, S.J. (1589-1656) and their Christology”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, January 2006); Nola Cooke, “Strange Brew: Global, Regional and Local Factors behind the 1690 Prohibition of Christian Practice in Nguyen Cochinchine”, Journal of Southeast Asian Studies 39, 3 (October 2008): 383-409; Frédéric Mantienne, MGR Pierre Pigneau, Évêque d’Adran, Dignitaire de Cochinchine, Archives des Missions Étrangères, Études et Document 8 (Paris: Églises d’Asie, Série Histoire, 1999); Georges Taboulet, La Geste Francaise en Indochine, vol. I (Paris: Adrien-Maisonneuve, 1955); Micheline Lessard, “Curious Relations: Jusuit Perceptions of the Vietnamese” biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essay into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 137-156; Nicole-Domminique Le, Les Missions-Étrangères et le Pénétration Francaise au Viet-Nam (Paris: Mouton, 1975).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét