Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

(4) CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM

CUỘC CHIẾN TRANH 30 NĂM
K.W. Taylor
Từ Diên Khánh đến Bình Định
Sau khi phá vỡ cuộc bao vây kéo dài 9 tháng ở Diên Khánh, Nguyễn Phúc Ánh đã dành năm 1796 để tổ chức lại quân đội, tạo ra những điểm mới, chăm lo nông nghiệp, tổ chức một kỳ thi văn học, đóng tàu, mua vũ khí, huấn luyện ngựa, mộ quân và chấn chỉnh những vị tướng của mình, những người đang lãng phí thời gian vào bài bạc và đá gà. Khi những cơn gió Nam đến vào năm 1797, ông đã chiếm được cảng Qui Nhơn và sau đó tiến lên Quảng Nam. 
Năm 1802
Trong khi một số tướng lĩnh của ông đẩy quân lên thượng nguồn sông Thu Bồn và chiếm Hội An và Điện Bàn, ông đã đến vịnh Đà Nẵng và tấn công lên phía đèo Hải Vân. Quân địa phương ở Quảng Ngãi gia nhập quân đội của ông và giao tranh nổ từ Phú Yên đến Quảng Nam trong 3 tháng cho đến khi những cơn gió đổi chiều và Nguyễn Phúc Ánh lại quay trở lại Sài Gòn.

Nguyễn Phúc Ánh đã dành những tháng cuối cùng của năm 1797 để đối phó với những người Chăm, những người đã phục vụ quân Tây Sơn và đã trở lại Bình Thuận, kích động một cuộc nổi dậy và gây ra bất ổn. Quân Xiêm hỗ trợ để làm dịu vấn đề này, đổi lại quân Việt giúp đỡ để ngăn chặn một cuộc nổi dậy của các dân tộc thiểu số ở Campuchia một thời gian ngắn trước. Tại thời điểm này, các cuộc thảo luận đã được thực hiện để phối hợp quân Xiêm và Lào với các chiến dịch trong tương lai của Nguyễn Phúc Ánh bằng cách để họ hành quân trên những ngọn núi và xuống thung lũng Sông Cả vào Nghệ An để đe dọa quân Tây Sơn từ phía sau. Một sáng kiến ngoại giao cũng đã được đàm phán một cách tốt đẹp với nhà Thanh. Cướp biển nhà Thanh bị quân Tây Sơn bắt đã phải chịu sự giám sát của chính quyền nhà Thanh ở Quảng Đông, điều này đã làm giảm sức mạnh của quân Tây Sơn.

Năm 1798, Nguyễn Phúc Ánh mua vũ khí, đóng tàu, tái tổ chức lại cơ cấu trang thiết bị vật tư, điều động vào đào tạo quân lính, tăng cường các đơn vị chủ lực ở Diên Khánh và đèo Cả, bên cạnh đó xử lý các vấn đề về việc đào ngũ của binh sỹ bằng cách bỏ tù gia đình của họ. Vào đầu năm 1799 khi gió đổi chiều, ông đã chuẩn bị cho một cuộc Bắc tiến. Ông cho công bố 36 điều lệ về kỷ luật quân đội, một dấu hiệu thể hiện mong đợi của ông một cách nghiêm túc về chiến dịch sắp tới, vì có nhiều điều để nói về hành vi khi chiến thắng một trận đánh, hành vi đối với tù binh, và hành vi đối với cộng đồng dân cư ở những vùng mới chiếm đóng.

Nguyễn Phúc Ánh có một số tướng lĩnh xuất chúng, và tại thời điểm này thì không ai có thể so sánh được với Lê Văn Duyệt (1764-1832). Lê Văn Duyệt quê gốc ở Quảng Ngãi, nơi Nguyễn Cư Trinh đã phục vụ đầu những năm 1750, một nơi nổi tiếng với sự nghèo đói và vô luật pháp. Ông được sinh ra mà không có bộ phận sinh dục và bắt đầu sự nghiệp của mình như là một thái giám ở Phú Xuân. Ông xuất hiện đầu tiên trong đoàn tùy tùng của Nguyễn Phúc Ánh vào cuối những năm 1770, trong những năm chiến đấu và chạy trốn quân Tây Sơn ở Gia Định. Ông là một người sống giản dị và không có khướu hài hước, hay nổi giận với đồng nghiệp và luôn luôn nghiêm khắc với cấp dưới. Tuy nhiên, qua thời gian, ông đã tập hợp được một “gia đình” lớn gồm những con người tài năng mà ông đã xem như con trai, và ông đã hoàn toàn cống hiến cho sự nghiệp của Nguyễn Phúc Ánh. 
Lê Văn Duyệt đã tỏa sáng trong nhiều chiến dịch, ông nổi lên như một chỉ huy linh hoạt và đáng tin cậy mà Nguyễn Phúc Ánh ngày càng tin tưởng trong những năm cuối cùng của cuộc chiến.

Vào cuối mùa xuân năm 1799, Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đội tàu chiến đến Nha Trang. Sau khi thảo luận với Hoàng tử Cảnh – người chỉ huy tại Diên Khánh, ông ra lệnh cho bộ binh hành quân lên phía Bắc qua Phú Yên đến Chà Bàn. Nguyễn Phúc Ánh đi thuyền trước và chiếm cảng Qui Nhơn nhờ sự lục đục nội bộ của nhà Tây Sơn. Ông đã điều Lê Văn Duyệt đến Bình Định để ngăn quân Tây Sơn hành quân về phía Nam. Lê Văn Duyệt liền tập hợp những thủ lĩnh người Ê-đê ở trên cao nguyên để có được sự hỗ trợ của họ trong việc chặn những cuộc hành quân của nhà Tây Sơn từ Quảng Ngãi đến Bình Định. Quân Tây Sơn đã định tiến lên bằng hai đường. Một trong hai đường đã bị thất bại khi một người lính đi trước đã hét lên “Nai” khi nhìn thấy một đàn nai. “Nai” là một tiếng lóng ở miền Bắc để chỉ quân lính từ phía Nam (Gia Định), xuất phát từ sông Đồng Nai là nơi mà người Việt bắt đầu định cư ở khu vực sông Mê Kông. Sự nhầm lẫn này đã làm cho một đường hành quân của quân Tây Sơn thất bại, họ sợ có một cuộc phục kích phía trước và bỏ chạy tán loạn. Quân Tây Sơn đã không còn đáng sợ như họ đã có cách đây 25 năm.

Trong khi đó, Nguyễn Phúc Ánh đã đánh bại một hạm đội Tây Sơn còn bộ binh của ông thì đánh chiếm lấy Chà Bàn – thủ đô cũ của Nguyễn Nhạc, ngày nay là gần thành phố An Nhơn. Trong chiến dịch này, một vị tướng người Việt đã lãnh đạo một đội quân người Khmer và người Xiêm phối hợp với những người dân tộc ở cao nguyên để yểm trợ dọc theo sườn núi. Thời điểm này Nguyễn Phúc Ánh đã đặt tên cho vùng đất này là Bình Định – hiện nay vẫn dùng, bình định tức là sự chinh phục.

Nguyễn Phúc Ánh đã dành hơn 3 tháng ở Bình Định, thu gom lúa gạo, tổ chức khí tài, tuyển quân, bổ nhiệm quan chức, chỉnh sửa các loại thuế, tìm kiếm người giỏi, tổ chức tôn vinh những người đã chết trong chiến dịch, xây dựng kho chứa, tổ chức trạm bưu điện, ổn định lại quân đội bao gồm cả một vạn quân Xiêm. Tổ chức tuyển chọn hơn một ngàn người từ Bình Định và đào tạo họ trở thành lính pháo binh. Pierre Pigneau, người đã hỗ trợ Hoàng tử Cảnh trong chiến dịch đã qua đời vì bệnh kiết lỵ trong thời gian này. Nguyễn Phúc Ánh đã mang thi hài ông trở về Sài Gòn và tổ chức trang lễ trọng thể.

Những vị tướng nhà Tây Sơn vẫn nuôi mối thù với Nguyễn Phúc Ánh. Hai trong số họ, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu, giờ đang ở cùng biên giới phía Nam của Quảng Ngãi, đang lập kế hoạch để tiến về phía Nam khi gió đổi chiều. Tại Sài Gòn, Nguyễn Phúc Ánh bận rộn với việc đóng tàu, điều động thợ rèn để sản xuất vũ khí, chống nạn trộm cướp, nâng cao sức mạnh quân đội, bao gồm cả một đội quân 5 nghìn người Khmer. Trong khi đó, quân Tây Sơn hành quân và đã bao vây Chà Bàn vào đầu năm 1800. Võ Tánh, tướng chỉ huy ở Chà Bàn, đã trái lệnh cố thủ cho đến khi gió Nam đưa quân tiếp viện tới. Một lần nữa, như năm 1795 tại Diên Khánh, Võ Tánh thấy mình đang nắm giữ một vị trí chiến lược và đang bị bao vây.

Sau khi đàn áp một cuộc nổi dậy của người Chăm ở Phan Rang và huy động người Khmer để khống chế nạn cướp bóc ở vùng cao phía Bắc Sài Gòn, Nguyễn Phúc Ánh điều động bộ binh của ông về phía Bắc và chuẩn bị kỹ lưỡng cho thuyền chiến, sẽ xuất phát ngay khi gió đổi chiều. Đồng minh của ông, Charki ở Xiêm La, đã gửi những tàu mang gạo và gia nhập vào đội tàu cung ứng. Vào đầu hè, Nguyễn Phúc Ánh đã đến Nha Trang và kịp hội quân với lực lượng trên bộ của ông tại Diên Khánh trước khi điều động đến Phú Yên, nơi đang hoang mang với nhiều tháng bị bao vây bởi quân Tây Sơn, và một trong những tướng lĩnh của ông đã phản bội. Khi Nguyễn Phúc Ánh nhận được tin vua Campuchia đã gửi một đội quân gồm 5000 người và 10 voi chiến, ông đã hướng dẫn Hoàng tử Cảnh ở Sài Gòn để gửi lên cho người Khmer ở phía Bắc.

Phú Yên đang ở tình trạng hỗn loạn gần như không thể khắc phục được với những đội quân du kích Tây Sơn, những kẻ phản bội, một số lượng lớn đào ngũ, những trại thương bệnh binh, và những người lính mất tinh thần, không có kỷ luật. Hầu hết các tướng của Nguyễn Phúc Ánh muốn tháo lui, với lý do sự mạnh lên của đối phương và mất hết tinh thần chiến đấu. Thời gian trôi qua. Nếu một điều gì không được thực hiện sớm, những cơn gió đổi chiều, và đã thổi họ trở về Sài Gòn để lại Võ Tánh với sự hoang mang cao độ.

Nguyễn Phúc Ánh không chấp nhận tình trạng bế tắc này. Tin tức đồng minh Lào của ông đã tấn công vào Nghệ An được hỗ trở bởi những người vùng cao ở tỉnh đó. Lê Văn Duyệt đưa quân tiến về phía Bình Định và tạo những hàng rào bao vây quân Tây Sơn, nhưng không thể tiến xa hơn được. Tuy nhiên, tàu của Nguyễn Phúc Ánh đã bắt được một thuyền cung ứng của quân Tây Sơn ở bờ biển phía Bắc tỉnh Bình Định, và ngay sau đó, đã bắt được một hạm đội cướp biển người Thanh phục vụ cho quân Tây Sơn.

Vào thời điểm này, Nguyễn Phúc Ánh đưa ra một hành động mang tính quyết định. Cùng năm, ông không quay trở lại phía Nam với những cơn gió Bắc. Vấn đề lớn nhất đặt ra là làm thế nào để duy trì nguồn cung gạo cho quân đội của ông trong suốt mùa đông này. Ông đã gửi một thông báo khẩn về Sài Gòn để đóng nhiều tàu hơn nhằm vận chuyển gạo những vụ thu hoạch Đông phân, trước khi những cơn gió đổi chiều. Tiếp đó ông đã tạo ra một hệ thống vận chuyển gạo ra miền Bắc bằng đường bộ và đã giải quyết được vấn đề bằng cách huy động một số lượng lớn tàu đánh cá loại nhỏ để chở gạo ra miền Bắc, bằng cách ôm dọc bờ biển đi ngược chiều gió. Sau đó ông ra lệnh điều động thêm lính bộ binh từ Sài Gòn.

Vào cuối năm 1800, Lê Văn Duyệt, được hướng dẫn bởi các đồng minh là những người ở vùng cao, đã di chuyển về phía sau của đội quân đang vây Võ Tánh và đột nhập vào những vùng đất thấp ở Bình Định. Một vài tuần sau đó, vào đầu năm 1801, Lê Văn Duyệt đã sử dụng những thuyền lửa để chiếm lấy cảng Qui Nhơn. Những chiến thắng liên tiếp đã thay đổi cục diện chiến trường theo hướng có lợi cho Nguyễn Phúc Ánh, tăng cường đáng kể vị trí của ông ở Bình Định. Ngay lúc đó thì nhận được tin Hoảng tử Cảnh đã chết vì bệnh đậu mùa. Không biết tin tức này đã ảnh hưởng đến Nguyễn Phúc Ánh như thế nào, nhưng sau đó ông đã ra một quyết định mang tính chất định mệnh. Đó là cái chết của con trai ông ở Sài Gòn bằng cách nào đó đã khiến ông xem xét lại vị trí của mình ở Sài Gòn, nơi ông đã xem như là nhà của mình trong nhiều năm, và muốn trở về mảnh đất tổ tiên của mình, nơi ông đã dành cả tuổi trẻ của mình ở đó. Ông quyết định để lại phía sau cuộc khủng hoảng tại Phú Yên và quân đội ở Bình Định và thay vào đó là đi về phía Bắc để chiếm lại Phú Xuân.

Hòa bình mới

Gửi tới những người đồng minh Lào yêu cầu họ giúp đỡ tấn công quân Tây Sơn, ông đã đến Hội An, hội quân với quân địa phương từ Quảng Ngãi và Quảng Nam đã đến và tập hợp dưới ngọn cờ của ông. Sau khi thu gom gạo từ Quảng Nam và bắt được thêm những tên cướp biển người Thanh, ông đã đến vịnh Đà Nẵng để tiến đánh Phú Xuân. Quân Tây Sơn đã kháng cự một cách yếu ớt và Nguyễn Toản phải chạy ra phía Bắc. Nguyễn Phúc Ánh bảo vệ biên giới cũ ở sông Gianh trong khi quân Lào và những người vùng cao theo ông đã tấn công Nghệ An và Thanh Hóa. Đó là mùa hè năm 1801, và hình như Nguyễn Phúc Ánh đang dừng lại để thưởng thức chiến thắng của mình, thì được tin Võ Tánh tự tử do đã không cố thủ được Chà Bàn, Chà Bàn đã rơi vào tay những vị tướng nhà Tây Sơn, Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu. Chiến thắng này của quân Tây Sơn gần như vô nghĩa, mặc dù vậy, trọng tâm của cuộc chiến đã chuyển về phía Bắc, và quân Tây Sơn ở Bình Định đã không còn mạnh mẽ như trước nữa.

Trong nửa cuối của năm 1801, Nguyễn Phúc Ánh chuẩn bị cho một cuộc phản công dự kiến từ Nguyễn Toản từ miền Bắc, bắt đầu xây dựng một chính quyền tại Phú Xuân, và sắp xếp cho việc cung ứng cho quân đội. Lê Văn Duyệt nhận lệnh phải chặn quân Tây Sơn ở Bình Định khi những thành lũy ở Đồng Hới đang được sửa chữa và bố trí lực lượng đồn trú. Một vài trận đánh nhỏ với quân Tây Sơn đã xảy ra quanh sông Gianh, tiếp theo là một cuộc tấn công của quân Lào vào Nghệ An. Đường Cam Lộ sang Lào đã được lập bản đồ và có quân đồn trú. Lực lượng hải quân đã khống chế được những tên cướp biển người Thanh.

Ở Thuận Hóa, Nguyễn Phúc Ánh tìm kiếm hậu duệ của những người tâm phúc đã đi theo Nguyễn Hoàng xuống phía Nam vào năm 1558. Ông đã tìm thấy 469 người. Ông sửa chữa những ngôi mộ của tổ tiên ông mà đã bị Nguyễn Huệ quật lên. Ông cũng đã đào mộ Nguyễn Huệ và 31 người là con cháu và những vị tướng của Nguyễn Huệ và phơi ngoài đường. Ông bắt đầu dành thời gian để đọc sách lịch sử và thảo luận chúng với những học giả, tìm hiểu lịch sử để cân nhắc vị trí của mình.

Nguyễn Toản đã dành thời gian để huy động quân đội ở miền Bắc. Gần cuối năm, sau những cơn mưa không ngớt, ông đã xuất hiện tại biên giới cùng với một hạm đội gồm hơn 100 tàu cướp biển người Thanh. Nguyễn Phúc Ánh đã nhận vị trí của mình tại những chiến lũy như tổ tiên của ông đã làm trong quá khứ. Các trận chiến xảy ra sau đó trong những tuần đầu của năm 1802 là một tiếng vang dữ dội của những chiến dịch thuộc thế kỷ XVII. 

Nguyễn Toản đã tấn công vào thành lũy Trấn Ninh nơi những pháo thủ của quân miền Nam đã gây ra thương vong lớn cho quân của ông. Khi hạm đội của Nguyễn Phúc Ánh bắt được 20 tàu cướp biển nhà Thanh, Nguyễn Toản bắt đầu rút lui. Nguyễn Phúc Ánh điều động tàu của ông đến sông Gianh, nơi họ bắt được đội tàu cung ứng của Nguyễn Toản và ngăn chặn hầu hết những âm mưu vượt sông của quân địch. Một đội quân Xiêm gồm 5000 người phối hợp với quân Lào xuất hiện từ vùng núi Nghệ An đã đẩy quân của Nguyễn Toản trở lại Kẻ Chợ.

Nguyễn Phúc Ánh trở về Phú Xuân, sửa chữa cung điện, cho quân lính nghỉ ngơi, và chờ đợi cuộc chiến ở Bình Định kết thúc. Nhiều binh lính của ông từ Thuận Hóa đã từng đến Sài Gòn nhiều năm trước khi gia nhập vào quân đội của ông. Bây giờ ông cho phép họ về thăm gia đình. Những thương, bệnh binh từ Gia Định đã được gửi về nhà, và gia đình của những binh lính Gia Định đang làm nhiệm vụ ở Thuận Hóa được hướng dẫn để viết thư cho người thân. Nguyễn Phúc Ánh tiếp tục nghiên cứu về lịch sử và tổ chức những buổi thảo luận với những học giả. Ông hiểu rằng ông đang ở vào tình huống chưa từng có trước đây và ông muốn tham khảo góc nhìn của những người được đào tạo bài bản.

Bình Định đã bị thất thủ vào cuối mùa xuân. Các tướng nhà Tây Sơn với khoảng 3000 binh lính đã trốn thoát lên núi và cố gắng để trở ra miền Bắc. Rất ít trong số họ đã đạt được mục đích vì Nguyễn Phúc Ánh đã ra lệnh cho quân lính vào những thung lũng ở Quảng Nam và Thuận Hóa để chặn đường và gửi thư cho những đồng minh Xiêm La và Lào cùng đánh chặn.

Ngay sau khi nhận được tin chiến thắng ở Bình Định, Nguyễn Phúc Ánh đưa ra thảo luận về câu hỏi là nhà Lê liệu có ai còn sống. Tất cả mọi người đều đồng ý rằng hiện không còn có hậu duệ của nhà Lê nữa. Sau khi xưng vua, Nguyễn Phúc Ánh đã làm bước cuối cùng là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ bằng cách từ danh hiệu Triều Lê và mở đầu cho triều đại của ông, Gia Long, triều đại nhà Nguyễn. Kèm theo đó việc là xét khen thưởng cho những người có công và bổ nhiệm quan lại để điều hành bộ máy Nhà nước. Những món quà và sự tôn vinh đã được gửi cho những vị tướng người Khmer và người Xiêm và được gửi về cùng với những người lính của họ. Những vị sứ giả được phái sang nhà Thanh để bàn giao những tên cướp biển đã bắt được.

Vào giữa mùa hè năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh ban hành một sắc lệnh cho người dân ở miền Bắc, thúc giục họ sản xuất và chấp hành pháp luật. Ông cũng ban hành một sắc lệnh khác cho binh lính để hướng dẫn về cách ứng xử đối với tù nhân và người dân. Sau đó ông thành lập hạm đội và quân đội cho miền Bắc. Ông đến Vinh – Nghệ An mà không gặp phải sự kháng cự nào. Ông dành một vài ngày ở đó để tổ chức lại hệ thống cung ứng của mình trước khi đến Thanh Hóa, một lần nữa ông không gặp phải sự chống đối nào. Ở Thanh Hóa, ông đến thăm lăng mộ nhà Lê và nhận được sự đón tiếp nồng hậu. Với việc Lê Văn Duyệt đi trước, ông đã vào Kẻ Chợ sau 30 ngày từ khi rời Phú Xuân mà không vấp phải sự phản kháng nào. Nguyễn Toản và đồng bọn chạy trốn nhưng đã bị bắt ngay sau đó.

Nguyễn Phúc Ánh đã dành gần 4 tháng ở Kẻ Chợ để thiết lập lại trật tự ở phía Bắc, tuyển quân, ban hành các quy tắc và quy định, bổ nhiệm quan lại, xây dựng một đền thờ tổ tiên của nhà Trịnh, và gửi sứ giả đi sứ sang nhà Thanh. Vào mùa thu, ông lệnh cho quân lính về phía Nam và trở về Phú Xuân. Ở đó, ông hành hình Nguyễn Toản và thông báo về vương triều của ông, vương triều của những người nói tiếng Việt từ biên giới với nhà Thanh ở phía Bắc đến Vịnh Xiêm La ở phía Nam.

Ba mươi năm chiến tranh vào cuối thế kỷ XVIII đã tạo ra đất nước Việt Nam mà chúng ta có thể thấy trên bản đồ hiện nay. Những người trứ danh là những người miền Bắc, bao gồm cả người dân Thanh Hóa và Nghệ An, đã đóng hầu hết vai trò. Đến thập niên 70 của thế kỷ XVIII, chế độ Lê – Trịnh, và xã hội miền Bắc nói chung, đã đi xuống bởi những các tác động tích lũy của những nỗ lực hoàn thiện để điều hành trong hai thế kỷ mà không đóng góp được vào sự phát triển bùng nổ ở miền Nam. Nhiều nhất có thể kể đến là việc chiếm Thuận Hóa trong một vài năm khi ở miền Nam mất ổn định do có những cuộc nổi dậy. Miền Bắc đã thành nơi mà giấc mơ của các triều đại chết, cho dù là nhà Mạc, nhà Lê, nhà Trịnh, hay là Nguyễn Huệ và người thừa kế của ông. Ảnh hưởng đau khổ của chiến tranh, sự cai trị kém cỏi, và nạn đói đã biến những ngôi làng miền Bắc phải duy trì sự tự cung tự cấp. Những người nông dân đã trở nên thờ ơ đối với những tham vọng của những vị vua chúa ở đây. Những sự việc xảy ra ở Kẻ Chợ đã không nhận được sự ủng hộ ở những nơi khác. Sau khi chính quyền vua Lê chúa Trịnh ra đi, miền Bắc chỉ đơn giản là chờ đợi kết quả mà được quyết định ở nơi khác. Trong suốt 30 Năm Chiến Tranh, miền Bắc đã đi từ chỗ ngồi của những vị vua trở thành một nơi hoang tàn.

Thuận Hóa là nơi có tầm quan trọng về biểu tượng và vị trí chiến lược, là nơi mà những nhà lãnh đạo Nguyễn Phúc đã tạo ra một triều đại và che chở cho miền Nam trong nhiều thế hệ. Tuy nhiên, khi nhà Nguyễn Phúc di dời khỏi Phú Xuân, Thuận Hóa đã không có sự liên kết với những người sau đó nắm quyền. Nguyễn Huệ và người thừa kế ông đã sử dụng Phú Xuân như một nơi thích hợp, một chỗ đứng trước khi hành động bước tiếp theo. Lòng trung thành chính trị của người dân Thuận Hóa, vẫn còn tồn tại trong gia đình Nguyễn Phúc, vận may cũng đã đến khi mà họ đến những vùng đất khác.

30 Năm Chiến Tranh cơ bản là cuộc chiến giữa hai phần là biên giới của miền Nam, Bình Định và Gia Định. Hầu hết những cuộc chiến là ở trong và giữa hai nơi này. Ngay cả sau khi cuộc chiến đã gần như ngã ngũ, những người ở Bình Định vẫn tiếp tục chiến đấu đến cùng. Tại sao ở Bình Định lại có nhiều người đã chiến đấu rất dũng cảm để bảo vệ nơi này? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm trong sự nghiệp của Nguyễn Nhạc, là người đã cai quản nơi đây trong hai thập kỷ.

Không giống như hai nhân vật chính khác trong thời gian này, Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Nhạc không có tham vọng thống trị ở những nơi xa xôi. Ông đại diện cho những người đàn ông ở biên giới dám chống lại bất kỳ sự tập trung nào của nhà cầm quyền, những người đơn giản chỉ muốn được ở một mình để thưởng thức một phần nhỏ của họ trên thế giới. Đây là một góc nhìn nhỏ so với tầm nhìn của những người đã từng nghiên cứu lịch sử và có ước mơ xây dựng một đế chế rộng lớn. 

Nguyễn Huệ bắt đầu thoát khỏi góc nhìn của Nguyễn Nhạc khi ông tiếp xúc với những trí thức miền Bắc, những người đã thấy ở ông tiềm năng có thể tạo nên một triều đại mới. Nguyễn Phúc Ánh, về phần mình, đã được đào tạo như một người học thức trong một gia đình hoàng gia nhằm cai trị đất nước. Nguyễn Nhạc không quan tâm đến những việc như thế. Sự căng thẳng giữa ông và Nguyễn Huệ, và những người cai trị Phú Xuân sau khi Nguyễn Huệ chết, là về vấn đề này. Quan điểm của ông có vẻ như thiển cận so với góc nhìn ngày nay cho rằng Việt Nam hiển nhiên như ngày nay. Nhưng vào thời đó thì ý tưởng này là bình thường, sau nhiều thế hệ chia cắt giữa hai miền Bắc, Nam. Đối với những người trong thời của Nguyễn Nhạc, ý tưởng rằng tất cả người Việt nên nằm trong một quốc gia là ý tưởng kỳ lạ, họ nghĩ nên tách thành hai, ba, hoặc nhiều hơn, các quốc gia riêng biệt. Nguyễn Nhạc và những người theo ông ở Bình Định chống lại Nguyễn Phúc Ánh vì Nguyễn Phúc Ánh đại diện cho mối đe dọa của một sự thống nhất chung và đồng nhất sẽ đe dọa lối sống của họ.

Nguyễn Phúc Ánh là một trong những nhà lãnh đạo khôn ngoan và bền bỉ nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông là một người sắc sảo trong tính cách và biết cách sử dụng nhiều loại người khác nhau. Ông có một tầm nhìn giúp ông có những mối bang giao thành công với những nhà cầm quyền láng giềng. Ông có sự hiểu biết mang tính chất nền tảng về bộ máy cai trị và biết đưa ra những luật định cụ thể. Dù vậy, nếu không có một nơi như Sài Gòn để thử thách khả năng của ông, thì ông cũng không thể đạt được những điều như ông đã có. Ít nhất như là khả năng lãnh đạo một nơi năng động như Gia Định. Sài Gòn là một cảng biển quốc tế, nơi các thương gia từ nhiều nơi đến để giao thương. Sự đa dạng về văn hóa của vùng đồng bằng sông Mê Kông với người Việt, người Hoa, người Khmer, người Chăm, người Mã Lai, người Xiêm, người Lào, người châu Âu, và những dân tộc ở vùng cao, tất cả đều đang ở hoặc đến để tạo nên một nơi gặp gỡ và sáng tạo. Sức mạnh hải quân đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của Nguyễn Phúc Ánh. Trong khi lực lượng hải quân Tây Sơn gồm những tàu đi đánh chiếm hoặc là tàu của cướp biển, các nhà máy đóng tàu tại Sài Gòn và Mỹ Tho sản xuất những tàu hải quân hiện đại hơn bất kỳ quốc gia châu Á nào tại thời điểm đó. Sự trỗi dậy của miền Nam đã mang 30 Năm Chiến Tranh đến hồi kết, chính là sự trỗi dậy của Sài Gòn và một tầm nhìn rộng lớn về thế giới đã phát triển ở đây. 
Năm 1832

Năm 1835
Dịch, chương 8, từ sách: A History of the Vietnamese
Phan Diệp dịch
Chú thích
Chương 6, 7 và 8 (thế kỷ 17 – 18)
Để phục vụ cho việc nghiên cứu để đưa ra những góc nhìn so sánh của chính phủ và xã hội Đàng Trong và Đàng Ngoài, tham khảo: Nguyễn Thanh Nhã, Tableau Économique du Viet Nam aux XVII et XVIII siècles (Paris: Éditions Cujas, 1970); và Đặng Phương Nghị, Les Institutions Publiques du Viet Nam au XVIII siècle (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1969). Đối với những bản báo cáo của người châu Âu về miền Bắc và miền Nam trong thế kỷ 17, tham khảo Olga Dror and K.W.Taylor, Views of Seventeenth Century Vietnam: Christoforo Borri on Cochinchina and Samuel Baron on Tonkin (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2006). Trong cuộc chiến Trịnh – Nguyễn, tham khảo M. Léopold Michel Cadière, “Le Mur de Dong-Hoi: Étude sur l’Établissement des Nguyen en Cochinchine”,Bulletin de l’École Francaise d’Extrême-Orient 6 (1906): 87-254; Charles B.Maybon,Histoire Moderne du Pays d’Annam (1592-1820) (Paris: Librairie Plon, 1919); K.W.Taylor, “Surfaces Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region”, The Journal of Asia Studies 57, 4 (November 1998): 949-978.
Nghiên cứu tập trung vào miền Bắc, tham khảo: Philippe Langlet, La Tradition Vietnamese: Un État National au Sein de la Civilisation Chinoise (Saigon: B.S.E.I., New Series, Vol.XLV, 2-3, 1970); Nguyễn Ngọc Huy và Tạ Văn Tài, The Lê Code: Law in Traditional Vietnam, 3 vols. (Athens, OH: Ohio University Press, 1978); Insun Yu, Law and Society in Seventeeth and Eighteenth Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, 1990); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); K.W.Taylor, “The Literati Revival in Seventeenth-Century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies, 18, I (March 1987): I-23; A.B.Woodside, “Central Viet Nam’s Trading World in the Eighteenth Century as Seen in Ly Quy Don’s ‘Frontier Chronicles’”, biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essays into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 157-172; A.B.Woodside, “Conceptions of Change and of Human Resposibility for Change in late Traditional Vietnam”, biên tập bởi D.K.Wyatt và A.B.Woodside, Moral Order and the Question of Change: Essays on Southeast Asia Thought, chuyên khảo số 24 (New Haven: Yale Univesity Southeast Asia Studies, 1982), trang 104-150; K.W.Taylor, “Literacy in Early Seventeenth-Century Northern Vietnam”, biên tập bởi M.A.Aung-Thwin và K.R.Hall, New Perpective on the History and Historiography of Southeast Asia: Continuing Explorations (London: Routledge, 2011), trang 138-200.
Nghiên cứu tập trung vào miền Nam, tham khảo: Yang Baoyun, Contribution à l’Histoire de la Principauté des Nguyên au Vietnam Méridional, 1600-1775 (Geneva: Olizane/ Études Orientales, 1992); K.W.Taylor, “Nguyen Hoang and the Beginning of Viet Nam’s Southward Expansion”, biên tập bởi A. Reid, Southeast Asia in the Early Modern Era(Ithaca: Cornell Univesity Press, 1993), trang 42-65; biên tập bởi Li Tana và A. Reid,Southern Vietnam under the Nguyen: Documents on the Economic History of Cochinchina (Dang Trong), 1602-1777 (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1993); và Li Tana,Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 1998); Claudine Ang Tsu Lynn, “Statecraft on the Margins: Drama, Poetry, and the Civilizing Mission in Eighteenth-century Southern Vietnam”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, 2012). Về thương mại và đóng tàu ở thế kỷ 18, tham khảo sách biên tập bởi Nola Cooke và Li Tana, Water Frontier: Commerce and the Chinese in the Lower Mekong Region, 1750-1850 (Lanham, MD: Rowman & Littlefield, 2004). Về người Trung Quốc nhập cư vào miền Nam, tham khảo Nguyễn Hội Chấn, “Some Aspects of the Chinese Community in Vietnam, 1650-1850”, Papers on China 24 (1971):104-124; Émile Gaspardone, “Bonzes des Ming réfugiés en Annam”, Sinologica 2 (1950): 12-30; và Charles Wheeler, “Buddhism in the Re-ordering of an Early Modern World: Chinese Missions to Cochinchina in the Seventeenth Century”, Journal of Global History 2 (2002): 303-324.
Cho những cuộc chiến tranh vào cuối thế kỷ 18, tham khảo George Dutton, The Tay Son Uprising: Society and Rebellion in Eighteenth-century Vietnam (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2001); Dian H. Murray, Pirates of the South China Coast, 1790-1810(Standford, CA: Standford University Press, 1987); và Trương Bửu Lâm, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnamese Relations, 1788-1790” biên tập bởi J. King Fairbank, The Chinese World Order (Cambridge, MA: Havard University Press, 1968), trang 165-179.
Về những đoàn ngoại giao Việt Nam sang triều nhà Thanh, tham khảo Liam C. Kelly,Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino-Vietnamese Relationship (Honolulu: University of Hawai’I Press, 2005).
Về Cambodia, tham khảo Mak Phoeun, Histoire du Cambodge de la Fin du XVI sièclu au Début du XVIII (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1995); Khin Sok, Le Cambodge entre le Siam et le Vietnam de 1775 à 1860 (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1991); và Alfons Van Der Kraan, Murder and Mayhem in Seventeeth-century Cambodia (Bangkok: Silkworm Books, 2009).
Về thương mại quốc tế, tham khảo Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les Côtes du Vietnam et du Campa (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1972); Pierre-Yves Manguin, Les Nguyen, Macau et le Portugal (Paris: École Francaise d’Extrême-Orient, 1984); Hoàng Anh Tuấn, Silk for Silver: Dutch-Vietnamese Relations, 1637-1700 (Leiden: Brill, 2007); Robert LeRoy Innes, “The Door Ajar: Japan’s Foreign Trade in the Seventeenth Century”, Luận án Tiến sỹ (The University of Michigan, 1980); Danny Wong Tze-Ken, “The Nguyen Lords and the English Factory on Pulo Condore at the Beginning of the 18thCentury”, biên tập bởi F. Mantienne và K.W.Taylor, Monde du Viêt Nam-Vietnam World: Hommage à Nguyên Thê Anh (Paris: Les Indes Savantes, 2008), trang 371-384.
Về những nhà truyền giáo châu Âu, tham khảo: André Marillier, Nos Pères dans la Foi: Notes sur le Clergé Catholique du Tonkin de 1666 à 1765 (Paris: Églises D’Asie, 1995); Alain Forest, Les Missionaires Francais au Tonkin et au Siam, XVII-XVIII siècles, 3 vols. (Paris: L’Harmattan, 1998); Alexandre de Rhodes, Histoire du Royaume du Tonkin (Paris: Éditions Kimé, 1999); Olga Dror, Adriano di St.Thecla’s “A Small Treatise on the Sects among the Chinese and Tonkinese”: A study of Religion in China and North Vietnam in the Eighteenth Century (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program, 2002); Peter C. Phan, Mission and Catechesis: Alexandre de Rhodes and Inculturation in Seventeenth-century Vietnam(maryknoll, NY: Orbis Books, 1998); Brian Eugene Ostrowski, “The Nom Works of Geronimo Maiorica, S.J. (1589-1656) and their Christology”, Luận án Tiến sỹ (Cornell University, January 2006); Nola Cooke, “Strange Brew: Global, Regional and Local Factors behind the 1690 Prohibition of Christian Practice in Nguyen Cochinchine”, Journal of Southeast Asian Studies 39, 3 (October 2008): 383-409; Frédéric Mantienne, MGR Pierre Pigneau, Évêque d’Adran, Dignitaire de Cochinchine, Archives des Missions Étrangères, Études et Document 8 (Paris: Églises d’Asie, Série Histoire, 1999); Georges Taboulet, La Geste Francaise en Indochine, vol. I (Paris: Adrien-Maisonneuve, 1955); Micheline Lessard, “Curious Relations: Jusuit Perceptions of the Vietnamese” biên tập bởi K.W.Taylor và J.K.Whitmore, Essay into Vietnamese Pasts (Ithaca: Cornell Southeast Asia Publications, 1995), trang 137-156; Nicole-Domminique Le, Les Missions-Étrangères et le Pénétration Francaise au Viet-Nam (Paris: Mouton, 1975).

Nguồn: http://nguyenducmau.blogspot.com/2015/12/cuoc-chien-tranh-30-nam.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét