Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Tây Nguyên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn

Tây Nguyên tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn 
SÀI GÒN (NV).- Mâu thuẫn về kinh tế, văn hóa giữa các sắc tộc cùng cư trú ở Tây Nguyên đang gia tăng. Cũng vì vậy, khu vực này đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn tới bất ổn. Một khu tái định cư cho những người thiểu số bị mất nhà, mất đất vì các dự án thủy điện ở Tây Nguyên bị bỏ hoang vì quá tồi tệ, dân không chịu ở. (Hình: Lao Động)
Theo ông Phạm Thành Thôi, làm việc tại Khoa Nhân học của trường Đại học Khoa học Xã hội - Nhân văn Sài Gòn, trước đây, ở Tây Nguyên chỉ có khoảng mười sắc tộc bản địa. Nay, Tây Nguyên là nơi chứa tất cả các sắc tộc ở Việt Nam. Cũng vì vậy, từ chỗ mỗi sắc tộc có một không gian sinh tồn riêng, hiện giờ những sắc tộc bản địa phải cư trú xen kẽ với các sắc tộc khác, trong đó đa số là người Kinh.

Phần lớn thành viên của các sắc tộc bản địa đang thiếu đất canh tác. Một báo cáo của Ủy ban Dân tộc của chế độ Hà Nội xác nhận, tại Tây Nguyên hiện có hơn 20,000 gia đình thiếu cả đất để ở lẫn đất canh tác.

Ban Dân tộc tỉnh Đắk Lắk loan báo, so với năm 2000, riêng tại Đắk Lắk, tình trạng thiếu đất canh tác tăng hơn 60%. Ở Kon Tum, nơi từng được xem là “đất rộng, người thưa”, nay ít nhất có khoảng 6,400 gia đình không có đất canh tác.

Tỷ lệ gia đình nghèo trong số các cộng đồng thiểu số bản địa ở Tây Nguyên đang tăng nhanh. Phúc lợi xã hội dành cho họ lại giảm. Con cháu người thiểu số bản địa chỉ chiếm tỷ lệ 13.6% học sinh trung học ở Đắk Lắk, 13.9% học sinh trung học ở Đắk Nông, 27.5% học sinh trung học ở Kon Tum,…

Ông Thôi nhận định, tình trạng phân hóa về mức sống, quyền sử dụng đất giữa các nhóm sắc tộc đang tạo ra mâu thuẫn trầm trọng trong cộng đồng cư dân Tây Nguyên. Thiếu đất canh tác, đói nghèo tạo ra những “hệ lụy xã hội” không thể dự đoán nhưng “chắc chắn” sẽ rất lớn.

Ông Thôi không phải là cá nhân đầu tiên cảnh báo về những bất ổn tiềm ẩn ở Tây Nguyên. Trong vài năm vừa qua, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên đã đưa ra những cảnh báo tương tự.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên là một cơ quan hỗn hợp, bao gồm một số sĩ quan cao cấp của công an, quân đội CSVN và những viên chức cao cấp là lãnh đạo các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên (Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum), nhằm ngăn chặn cũng như đối phó với những bất ổn về an ninh, chính trị ở khu vực này.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên được thành lập năm 2002, sau khi người thiểu số ở Tây Nguyên nổi dậy lần đầu tiên để đòi tự do tôn giáo, đòi quyền sống, chống cưỡng đoạt đất đai hồi 2001. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên do Bộ trưởng Công an làm Trưởng ban.

Tại Hội nghị Sơ kết 6 tháng đầu năm 2014 của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, các thành viên của cơ quan này, thừa nhận, Tây Nguyên vẫn tiềm ẩn nhiều bất ổn do di dân tự do, thủy điện và phá rừng tạo ra. Suốt từ giữa năm ngoái đến nay, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên liên tục cảnh báo về những bất ổn đang tiềm ẩn tại khu vực này.

Ở Hội nghị Sơ kết 6 tháng đầu năm 2013, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên từng chính thức đề nghị nhà cầm quyền CSVN “tạm dừng khởi công các dự án thủy điện ở khu vực Tây Nguyên cho đến hết năm 2014 để giải quyết các tồn đọng về môi trường và xã hội”. Nhưng đến nay, vẫn theo cơ quan này, hậu quả của việc phê duyệt cho phép thực hiện tràn lan các dự án thủy điện ở Tây Nguyên vẫn chưa thể khắc phục.

Theo ông Hoàng Văn Thắng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp – Phát triển nông thôn CSVN, gần như 1,400 hồ và đập ở khu vực Tây Nguyên đều trong tình trạng không an toàn. Trong đó có 140 hồ và đập đang trong tình trạng báo động về mức độ an toàn.

Các dự án thủy điện được phép thực hiện trong thời gian vừa qua không chỉ đe dọa tính mạng, tài sản của hàng triệu người mà còn khiến 32,000 gia đình mất đất, không còn sinh kế. Cũng vì vậy, rừng tại Tây Nguyên đang mất rất nhanh, chỉ từ giữa năm ngoái đến nay đã có hàng trăm cánh rừng bị biến thành đồi trọc để dân chúng có đất trồng trọt.

Việc tổ chức định cư cho những gia đình bị mất đất, mất nhà vì các dự án thủy điện, cũng như tổ chức bồi thường, hỗ trợ sinh kế cho những nạn nhân của các dự án thủy điện được nhìn nhận là “chưa giải quyết dứt điểm và có trách nhiệm”. Chưa kể Tây Nguyên vẫn còn là túi chứa di dân tự do từ khu vực rừng núi phía Bắc đổ đến, khiến tình trạng phá rừng và an ninh, trật tự đã phức tạp càng thêm phức tạp.

Cho đến nay, người thiểu số ở Tây Nguyên đã nổi dậy hai lần. Ngoài lần đầu tiên vào năm 2001 và sau đó có hàng ngàn người vượt biên sang Cambodia xin tị nạn chính trị, họ còn đồng loạt nổi dậy thêm một lần nữa vào tháng 4 năm 2004. Hiệp hội người thiểu số Việt Nam tại Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng tố cáo chế độ Hà Nội giam giữ từ vài trăm đến hàng ngàn người thiểu số tham gia các cuộc nổi dậy này. Đồng thời kêu gọi cộng đồng quốc tế can thiệp để những tù nhân đó không “chết dần, chết mòn” trong tù.

Tuy nhà cầm quyền CSVN đã đề ra nhiều chính sách, kế hoạch để ngăn chặn, hóa giải bất ổn song ông Thôi nhận định, những chính sách, kế hoạch đó “chồng chéo, phân tán, không phù hợp với đặc điểm của từng sắc tộc”. Nguồn lực đầu tư phát triển từ các chính sách, kế hoạch mang tầm vóc quốc gia khi xuống đến các địa phương chỉ còn là những công việc “vụn vặt” để lấy “thành tích”.

Năm ngoái, Bộ Công an CSVN đã dùng các vụ nổi loạn của người thiểu số ở vùng Tây Bắc Việt Nam và Tây Nguyên để vận động Ủy ban Thường vụ của Quốc hội của chế độ gia tăng đầu tư cho cảnh sát cơ động – lực lượng vũ trang của công an, chuyên thực hiện nhiệm vụ trấn áp.

Ngoài trang bị cá nhân, hơn hẳn quân nhân, năm ngoái, cảnh sát cơ động được trang bị thêm cả B.40, xe bọc thép. Qua “Pháp lệnh Cảnh sát cơ động”, Ủy ban Thường vụ của Quốc hội Việt Nam còn cho phép lực lượng này mua phi cơ, tàu thủy và “nổ súng trấn áp bạo loạn, tụ tập đông người phá rối an ninh”. (G.Đ)

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=194322&zoneid=2#.VAUUJsV_t7Q

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét