Bốn người đàn ông trên một cái bè:
Nổi nênh Giỏ Cùng
Trên cái bè dựng ngôi nhà gỗ rộng chừng 30 m2, bốn kiểm lâm viên làm bạn với một con chó. Dù có cơ hội chuyển đi nhưng họ tình nguyện ở lại, người 7 năm, người 6 năm để gác rừng, gác voọc, gác biển đảo quê hương.
Chiếc bè nơi trạm Giỏ Cùng đóng
Từ VQG Cát Bà (huyện Cát Hải, Hải Phòng) muốn vào đến Giỏ Cùng - Trạm kiểm lâm độc nhất vô nhị ở Việt Nam, là một hành trình đầy khổ ải với khúc dạo đầu là 9 cây số đi bộ xuyên rừng già.9 cây số đầy ải ở rừng già
Anh Vũ Quang Mạnh, tổ kiểm lâm cơ động, tình nguyện làm người dẫn đường cho chúng tôi. Anh hiểu rõ những khúc cua, con dốc của cung đường này vì từng nếm trải cảnh đi tuần đêm căng lều bạt ngủ giữa rừng, từng phải hái ngọn rau dướn, chặt lõi báng lót lòng cho khỏi đói.
Bên vách đá nhọn hoắt, bên vực sâu cận kề, chúng tôi như những con thằn lằn, nhoài, trườn, bò, chui rúc mà tiến lên phía trước. Lắm chỗ mặt người sau chạm vào gót chân người trước.
Qua dốc Áng Dạng, mặt người đồng nghiệp của tôi nhợt nhạt như đuối nước, mũi mồm tranh nhau phì phò. Thấy cảnh ấy, một người dân bản địa đi phía trước kêu ầm lên: “Anh này quay lại ngay, đi tiếp để chết ở giữa rừng à?”. Ngần ngừ. Lo sợ. Nhưng rồi tính tự ái đã chiến thắng tất cả. Anh bạn tôi thập thõm đi tiếp.
Rừng mỗi lúc một thâm u mở ra những cảnh vật độc đáo. Nào là Ao Ếch - một khu vực đất ngập nước độc đáo rộng đến 3,2 ha treo giữa lưng chừng trời. Nào là giống cọ Hạ Long quen đứng chon von trên các đỉnh núi như những cái ô khổng lồ cách xa hàng vài cây số đã có thể nhìn thấy. Nào là các kỳ hoa, dị thảo, dị thú chưa từng gặp, chưa từng nghe thấy một lần trong đời…
Nắng tràn trên đầu, bùn nhòa dưới chân. Đám vắt rừng trực sẵn dưới lớp lá mục nhảy tanh tách tranh nhau cắm vòi vào da thịt. Chúng tôi đi như trong một cơn mê hoang vì sức lực đã cạn kiệt, đi mà không lý giải được tại sao mình nhấc chân lên nổi. Cơ bắp căng cứng. Từng khúc xương cũng kêu lốc cốc trong ổ khớp.
Rừng lùi dần, đất bằng mở ra, biển cả bao la phía trước. Cheo leo bám bên hom đá là Trạm Kiểm lâm Việt Hải, một ngôi nhà cũ kỹ dột nát.
Từ Việt Hải chúng tôi đi nhờ xuồng ra Giỏ Cùng. Gió phần phật bên tai. Sóng ràn rạt trước mặt. Chiếc xuồng mong manh như một chiếc lá cứ trồi lên rồi lại hụp xuống. Nửa giờ sau, trên nền xanh thẫm của biển hiện ra một ngôi nhà gỗ dựng trên chiếc bè bé tẹo được kết bằng các thùng phuy nhựa. Bên hông nhà, lá cờ đỏ sao vàng căng phồng trong gió biển.
Chuyện sóng, chuyện gió
Giỏ Cùng đấy! Nơi mỗi bước chân người đều phải khẽ khàng vì sợ ngôi nhà nhỏ lung lay. Chật chội quá! Mất vài bước là tôi đi hết trạm. Nào có nhiều nhặn gì. Một ngôi nhà gỗ chừng 30m2. Một cái bếp nhỏ chừng 1m2. Một lối đi vòng quanh kết bằng gỗ rộng chừng 30 cm.
Một buổi tuần rừng
Cái lối đi mà Phó Giám đốc VQG Cát Bà Phạm Văn Thương ám ảnh mãi vì chứng kiến người nhân viên bước hụt, ngã nhào lăn xuống biển. Bì bõm lội từ dưới nước lên, ướt nhèm mà anh này vẫn còn cười: “Giá có thể cạp thêm cho nó rộng ra chừng một gang nữa thì tốt thủ trưởng nhỉ?”.
Một con chó có cái tên rất độc, con Giềng. Nó luôn miệng ư ư, ngoăn ngoắn đuôi mừng rỡ. Chốn hoang vắng, bản năng giữ nhà của con chó dường như đã biến mất. Hễ thấy bóng người lạ từ xa, những người mà một vài tháng mới xuất hiện một lần là nó xoắn tới.
Con vật khôn đến nỗi không bao giờ đi vệ sinh trên bè mà biết bơi vào bờ cách đó chừng 50 m, xong xuôi đâu đấy lại bơi ra. Ngoài Giềng, bạn bè với các anh thi thoảng còn có lũ quạ láu lỉnh mỗi bữa ăn cứ sà xuống chực trộm cơm, trộm cá.
Trên không gian sống con con ấy tôi lặng ngắm mấy cây xanh trồng trong hai cái chậu. Một trồng me, chanh, ớt. Một trồng bí đao. Cây bí đã già, thân mốc thếch nhưng mới chỉ bò cao chừng 1 m, chìa ra những cái lá bé như vành tai con trẻ. Ai đó đã khéo bắc chiếc giàn cho nó bằng những sợi dây cước tháo ra từ tấm lưới cũ. Cái cây nhỏ bé đến mức chẳng ai nghĩ là có thể bò lên nổi giàn và đậu quả được nhưng nó là một mảng xanh, là nơi để anh em nhìn vào đó đỡ thấy nhớ chênh chao làng xóm.
Tài sản quý nhất của các anh là mấy thùng phuy nước ngọt. Nước ở đây có giá 150.000 đồng/m3 mà không phải lúc nào cũng mua được vì trạm quá biệt lập. Tiêu chuẩn mỗi người được cấp 1,5m3 một tháng, đông cũng như hè, muốn dùng thêm là phải móc túi ra mà bù vào.
Từng giọt nước cũng được tính toán chi li. Khăn tắm là thứ xa xỉ vì nó… ngấm nước rất kinh còn khăn mặt chỉ dám dùng loại be bé. Rửa mặt xong để dành nước tưới cây, vo gạo rồi dành để rửa rau, rửa bát.
Quần áo ngâm xà phòng bằng nước ngọt, giặt bằng nước mặn, giũ lại bằng nước ngọt. Bởi thế áo trắng là một thứ của hiếm ở đây. Đến ngay cả việc tắm cũng toàn bằng nước mặn rồi tráng qua quýt vài ca nước ngọt là xong.
Kỷ luật thép ấy được thực hiện cả năm chỉ trừ những lần bão gió, nước mặn táp vào mấy chậu cây, sợ chúng chết, các anh phải dội cho vài ca nước ngọt.
Những chuyến đi rừng vắt bám đen chân hút no máu rồi tự rụng nhưng đám ve bám thì chìm hẳn vào thịt da không thể gỡ. Vết ve cắn mưng mủ như nốt ghẻ, ngứa ran chừng mươi ngày rồi vỡ. Vết cũ chưa lành lại thêm chi chít vết mới.Những chuyến đi rừng vắt bám đen chân hút no máu rồi tự rụng nhưng đám ve bám thì chìm hẳn vào thịt da không thể gỡ. Vết ve cắn mưng mủ như nốt ghẻ, ngứa ran chừng mươi ngày rồi vỡ. Vết cũ chưa lành lại thêm chi chít vết mới.
Hầm hập! Giữa biển, mặt trời như một cái hỏa lò khổng lồ sà xuống thấp và chói chang. Nóng từ trên trời dội xuống. Nóng từ mái tôn bốc lên. Nóng trong những luồng gió mặn mòi nhơm nhớp thịt da. Mồ hôi vã ra như tắm.
Trạm trưởng Nguyễn Quang Khải mau mắn bảo nhân viên: “Cậu không bật điều hòa hay bấm nhầm chế độ sưởi mà nóng thế?”. Thấy khách ngơ ngác: “Ở đây sang thế, các anh có cả điều hòa?”, các anh bật cười ha hả. Điện chẳng có, sóng đài cũng không, điện thoại phải treo ở một vị trí cố định thỉnh thoảng mới hiển thị một vạch thì làm sao có điều hòa nóng với chả lạnh.
Thoắt cái trời đất bỗng đen sầm. Gió thổi từng cơn. Mưa rào rào trút xuống mái tôn như ngàn viên đá nhỏ. Đối với các anh đó là cơn mưa tiền, mưa bạc. Tất cả xô chậu đều được huy động ra để hứng, kể cả nước nhỏ ra từ những lỗ rỉ trên mái nhà.
Bữa ăn dọn ra dưới mái hiên, bát cơm cũng chan hòa cùng nước trời. Lũ gián thuyền trốn mưa chạy loăng quăng từng đám khắp bè.
Một bóng thuyền xuất hiện ngoài xa. Trạm trưởng Khải buông bát đũa bật dậy, tháo dây buộc xuồng rồi giật máy. Chiếc xuồng rẽ sóng, lao đi như một mũi tên. Bóng anh liêu xiêu chìm dần vào màn mưa.
Biển xa, những cơn bão cũng khủng khiếp hơn trong đất liền. Trạm như một cái giỏ hứng chịu sóng gió. Nghe tin dự báo trước mỗi trận bão, anh em phải kéo bè vào sát ghềnh đá để tránh bị đập vỡ.
Sóng ào ào đuổi nhau dưới gầm giường. Sóng dịch chuyển cả những phuy nước nặng vài tạ. Sóng hất xuồng chồm lên cả bè. Gió thốc những tấm tôn lợp nhà tung lên trời như một đám vụn bào. Những con voọc lúc ấy cũng bỏ thói quen ngủ bám tay vào vách đá mà trốn biệt vào hang.
Mạng người lắm lúc như ngàn cân treo sợi chỉ mảnh nhưng các anh vẫn không chịu rời bè một bước. Hỏi tại sao thì ai nấy đều bảo: “Chúng tôi ở đây như những người lính. Mà đã là lính thì không bao giờ bỏ công sự, bỏ chiến hào!”.
DƯƠNG ĐÌNH TƯỜNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét