Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

(2) Lịch sử phát triển của sách

Lịch sử phát triển của sách
Sách dạng lật trang (codex) ra đời
Sách dùng phương thức lật trang (codex) thay vì phương thức cuộn ra đời vào khoảng năm 100 SCN và được coi là một phát minh vĩ đại; tồn tại hơn 2000 năm cho đến tận ngày nay đã biến sách thành một thiết bị lưu trữ, tra cứu và truyền tải thông tin cực kỳ hữu dụng và phổ biến.
Người ta không biết ai là người đầu tiên phát minh ra cách thức làm sách hoàn chỉnh như vậy. Tuy nhiên ý tưởng về việc ghép nối những trang giấy lại với nhau lại tương đối phổ biến.
Ý tưởng đầu tiên là ghép các miếng giấy lại với nhau thông qua một sợi dây và được thúc đẩy bởi động lực viết ra những văn bản dài. Tablet đất sét là một thiết bị mà thông tin lưu trên đó rất hạn chế, và không dễ để ghép nối hay tìm lại thông tin trên các tablet đó. Giấy papyrus theo dạng cuộn giải quyết tốt hơn vấn đề đó, nhưng vào thời kỳ đó, chữ viết dùng ký tự tượng hình và bút lông cũng khó có thể viết nhiều thông tin trên một cuộn giấy. Giải pháp đầu tiên được ra đời vào khoảng năm thứ 4 TCN với một dạng sách khá lạ ở các nước Ả rập

Sách được làm bằng cách ghép các miếng lá cọ với nhau
Trong khi đó vào khoảng năm 500 TCN ở Hy Lạp cũng có một thiết bị có vai trò tương tự là tablet bằng sáp. Thiết bị này có chức năng như tấm bảng cho học sinh tiểu học tập viết thời kỳ trước; hoặc cũng có vai trò như một cuốn sổ tay ghi chép thường được dùng để ghi chép trong các buổi họp. Lượng thông tin viết trên đây có thể tương đối lớn.
Ai Cập, Pompeii và Romania là những nơi mà số tablet bằng sáp được tìm thấy nhiều nhất. Pompeii là nơi có đến 200 tablet xưa với niên đại 131-167 được khai quật.

Tablet bằng sáp là công cụ như tấm bảng cho học sinh thời trước


Một bức ảnh miêu tả cách một người Hy Lạp viết trên tablet bằng sáp

Book of Psalms được coi là quyển sách hoàn chỉnh có niên đại cổ nhất (350 SCN) được tìm thấy, sách dày đến 490 trang. Các nhà khảo cổ cũng tìm thêm được khoảng 15 quyển sách khác dày trên 100 trang có niên đại khoảng 200-400 SCN. Hầu hết các sách tồn tại dưới dạng codex ở thời kỳ này đều là những quyển sách liên quan đến Thiên chúa giáo hay Kinh Thánh. Do đó có người cho rằng chính những người theo Thiên chúa là những người đã phát minh ra sách dạng codex và truyền bá tôn giáo cũng như công nghệ của mình khắp Châu Âu như là một cách để đạo Thiên chúa được lan tỏa rộng rãi hơn.

Cuốn sách hoàn chỉnh đầu tiên được tìm thấy

Do Hy Lạp đến thế kỷ thứ 6 bắt đầu bước vào thời kỳ đen tối trong lịch sử của mình, khi mà lượng sách sản xuất ra giảm sút đáng kể, số người biết đọc biết viết giảm hẳn, các thư viện và hiệu bán sách không tồn tại được nữa. Nhà thờ và tu viện là nơi sản xuất gần như tuyệt đối số sách ở châu Âu thời kỳ này; và hầu hết cũng là để đáp ứng nhu cầu sách tự thân của mình. Tình hình như vậy kéo dài cho đến tận đầu thế kỷ 13. Trong suốt thời kỳ đen tối đó, vùng đất của người đạo Hồi lại nổi lên như là trung tâm tri thức của phương Tây và Cận Đông.

Trong suốt 400 năm phát triển rực rỡ nhất, từ năm 800 đến 1200. Trong 400 năm này, số sách mà người đạo Hồi đã sản xuất ra là khoảng 600,000 cuốn; vượt xa số sách của cả Chấu Âu thời kỳ trước và đế quốc Byzantine phía đông có thể làm ra được. Sách trong thời kỳ này chủ yếu là theo dạng codex. Vật liệu ban đầu người đạo Hồi sử dụng là giấy da, nhưng sau đó giấy hiện đại; một phát minh của Trung Quốc du nhập đến vùng của người đạo Hồi vào những năm 600 và nhanh chóng được sử dụng rộng rãi để thay giấy papyrus và giấy da. Đến năm 900, giấy Trung Quốc gần như đã thống trị hoàn toàn.

Người đạo Hồi có một số đóng góp lớn cho lích sử phát triển của sách. Họ là người du nhập và cải tiến giấy và kỹ thuật làm giấy từ Trung Quốc để cho phù hợp với thực tế của họ và tiếp tục truyền bá nó sang châu Âu. Giấy của Trung Quốc chủ yếu là được làm từ gỗ cây dâu tằm, một loại cây mà ở Cận Đông hay Châu Âu không hề có. Người đạo Hồi đã sử dụng gỗ và sợi của cây lanh để thay thế. Họ cũng cải tiến khuôn và dùng búa để cán mỏng và ép các tấm bột gỗ thay vì sử dụng tay như người Trung Quốc. Phương thức đóng sách của họ cũng tương đối khác so với Châu Âu hay người Byzantine khi họ sử dụng keo dán để dán gáy sách thay vì đục lỗ và dùng kim để khâu như các thời kỳ trước. Đó cũng là cách thức đóng sách hiện đại.

Họ cũng là nơi tiếp tục duy trì, bảo tồn và cải tiến những thành tựu của nền văn minh Hy-La để lại. Khoa học hay y học, vốn chẳng thể tồn tại được ở Châu Âu mãi cho đến tận thế kỷ 13 với những công trình toán học đầu tiên của Fibonacci thì lại rất phát triển ở những nước Hồi giáo. Người Hồi giáo thời kỳ này có đến 10 phát minh khoa học lớn, trong đó có 2 phát kiến quan trọng về quang học làm tiền đề cho việc sản xuất ra thủy tinh và kính; có tác động rất lớn tới việc đọc sách của những người lớn tuổi thời kỳ sau. Những kiến thức của người đạo Hồi là tiền đề quan trọng khi chúng được truyền bá và sử dụng trong các trường đại học đầu tiên ở Châu Âu sau này.

Người Hồi giáo rất thích sách cũng như việc sưu tập chúng. Hệ thống thư viện công cộng, cửa hàng bán sách và trường học như thời Hy-La không thể tồn tại ở Châu Âu nhưng lại rất phát triển ở các nước đạo Hồi thời kỳ này vì nhu cầu về sách và tri thức rất lớn. Riêng ở Baghdad vào thế kỷ thứ 10 có đến hơn 100 cửa hiệu bán sách tồn tại.

Những quý tộc Hồi giáo thời kỳ này thường đầu tư rất lớn vào sách và sở hữu một số lượng sách khổng lồ. Bộ sưu tập lớn nhất là của Ibn Abbad với một kho sách mà phải cần đến 400 con lạc đà mới tải hết, ước chừng khoảng 4000 quyển. Có những quý tộc sẵn sàng bỏ ra tới 10,000 dirhem để mua và sở hữu sách; số tiền tương đương với việc họ đầu tư vào trang thiết bị; vũ khí hay lạc đà và vật nuôi. Điều đó chứng tỏ giới quý tộc và trí thức sẵn sàng chi nhiều tiền thế nào để trả công cho những người sao chép sách cho họ. Tuy vậy họ cũng bị chỉ trích vì việc dựa dẫm quá nhiều vào thư viện sách thay vì trí nhớ của mình.

Thời kỳ rực rỡ của người Hồi giáo chấm dứt vào khoảng đầu thế kỷ 13, khi quân đội Mông Cổ đánh chiếm và phá hủy nền kinh tế; các công trình kiến trúc hay giết hàng trăm nghìn người đạo Hồi. Thời kỳ vàng của người đạo Hồi coi như chấm dứt.

Trong khi đó ở Châu Âu thời kỳ đầu thế kỷ 13 xã hội đã có những chuyển biến theo hướng tích cực hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho tri thức và những cải tiến nhanh chóng diễn ra. Trong suốt 700 năm, từ 500-1200, nhà thờ là nơi có quyền lực tuyệt đối, ảnh hưởng và quyết định mọi mặt đời sống của người dân khắp Châu Âu. Một trong số những sự kiểm soát đó chính là sự kiểm soát việc sản xuất sách và truyển bá thông tin trong xã hội.

Thời kỳ này, nhà thờ và tu viện là nơi duy nhất sách được làm ra. Một trong các công việc chính của các tu sĩ là việc chép lại các bản thảo tôn giáo, tín ngưỡng hoặc một số ít các tài liệu khác. Giáo hội là nơi quyết định quyển sách nào được chép ra; tu sĩ nói riêng và mọi người nói riêng không có quyền tự sao chép theo những quyển sách mà mình mong muốn. Tu sĩ cũng không được trao đổi bản thảo chép tay cho người khác hay từ chối khi nhận được lệnh. Nếu không họ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

Trong sự quản lý nghiêm ngặt đó của nhà thờ, không nhiều phát minh liên quan đến tri thức được ra đời ở thời kỳ này. Đột phá lớn nhất chính là sự chuyển dịch dần từ văn hóa nói; diễn thuyết và truyền miệng trong một nhóm người sang đọc sách một một cách yên tĩnh và một mình. Sự chuyển dịch này bắt nguồn từ sự ra đời của dấu cách trong khi viết.

Thừa hưởng từ nền văn minh Hy-La, sách của thời kỳ trước là những chuỗi ký tự dài lê thê, không biết bắt đầu và kết thúc khi nào, được gọi dưới một cái trên đặc trưng “Scriptio continua – Continuous script” vốn được thừa hưởng từ kiểu viết cuneiform của người Summer và sau đó là hệ chữ alphabet chỉ toàn phụ âm của người Phoenician. Đọc sách thời kỳ trước là kiểu đọc thành tiếng to cho nhiều người cùng nghe; vì văn hóa lời nói rất phát triển.

Một văn bản chữ Latin theo cách “Scriptio continua”

Tuy nhiên vào thế kỷ thứ 7, một tu sĩ người Ai Len đã phát minh ra cách thức viết có dấu cách để phân biệt rõ từ nọ và từ kia. Ai Len hay nước Anh nói chung vốn chưa bao giờ là thuộc địa của Hy Lạp hay đế chế La Mã, ít chịu ảnh hưởng từ văn hóa nói của nền văn minh Hy-La nên việc phải đọc to một văn bản toàn chữ dài lê thê, vừa đọc vừa phải đoán từ này kết thúc ở đâu, câu này kết thúc ở đâu là một cực hình và cũng tốn nhiều trí năng. Tuy nhiên cũng phải đến tận thế kỷ 11 phát minh này mới được áp dụng phổ biến trong cách viết sách trong các nhà thờ trên toàn bộ châu Âu. Và việc đọc sách yên lặng này cũng là một yếu tố quan trọng dẫn đến nhu cầu sách ở châu Âu tăng lên rất nhiều, dẫn đến việc nhà thờ không thể kiểm soát hết được việc sản xuất và mua bán sách.

Thêm một yếu tố chủ chốt khác đó là sang thế kỷ 12, với rất nhiều biến động về kinh tế chính trị đã khiến đời sống cư dân châu Âu bắt đầu thay đổi. Những thành phố lớn bắt đầu được hình thành, giai cấp giàu nghèo cũng bắt đầu được phân chia rõ rệt hơn. Các thành phố lớn nhất thời kỳ này phải kể đến Venice và Genoa có khoảng 100 nghìn người; Florence có khoảng 90 nghìn; Palermo và Pisa khoảng 50 nghìn; Paris khoảng 80 nghìn; Bruges và London khoảng 35 nghìn.

Nền kinh tế mới đòi hỏi một hệ thống giáo dục hoàn toàn mới, có khả năng đào tạo ra những người làm trong các ngành y dược, thương mại, luật hay nhà thờ. Các trường đại học đầu tiên được ra đời. Mở đầu là trường Bologna năm 1088 rồi đến Paris và Oxford. Sang thế kỷ 13, xuất hiện thêm nhiều trường có tiếng khác như Cambridge, Montpellier, Toulouse, Angers, Padua, Naples, Salamanca, Valladolid. Rất nhiều trường trong số này vẫn tồn tại đến tận bây giờ. Việc ra đời trường học khiến các sinh viên và giáo sư rất cần sách trong việc dạy và học. Các hiệu sách nằm gần trường đại học được ra đời nhằm cung cấp sách cho 2 đối tượng trên, mặc dù giá và nội dung vẫn do trường học kiểm soát. Từ khi trường đại học đầu tiên ra đời, một làn sóng kiến thức từ các nước Hồi giáo tràn vào Châu Âu,và trong 2 thể kỷ; đã có vài trăm đầu sách tiếng Do Thái và Ả rập được dịch ra và lưu hành trong các trường đại học.

Một phòng trong đại học Bologna

Việc văn hóa đọc sách yên lặng phổ biến đã dẫn đến rất nhiều cải tiến trong cấu trúc của sách được ra đời ở thể kỷ 14 theo chiều hướng cải thiện hiệu năng và tốc độ đọc. Ở thể kỷ 13, sách đã bắt đầu được phân chia thành các chapter, và mục lục cũng đã được ra đời. Dấu chấm, dấu phẩy và dấu ngoặc đơn đều ra đời trong thời kỳ này. Dấu ngoặc đơn được sử dụng thay cho phương thức sử dụng mực đỏ để gạch chân đoạn cần ghi chú là một điều rất được chào đón, nhất là với công nghệ in ra đời sau này. Rồi tiếp đến là tiêu đề của chương, mục lục về nội dung của chương hay tiêu đề từng trang sách tiếp tục được sinh ra. Đến năm 1400, cấu trúc của sách đã hầu như giống với cấu trúc của sách hiện đại. Sách tham khảo cũng bắt đầu xuất hiện. Văn hóa đọc mới cũng khiến kiến trúc của thư viện phải thay đổi. Nếu như trước đây, thư viện phải chia làm nhiều phỏng nhỏ để việc diễn thuyết của nhóm nọ không ảnh hưởng đến nhóm kia thì nay thư viện đã được thiết kế theo hướng có không gian chung rất lớn và thoáng.

Sách ở thời kỳ này đã biết sử dụng những cú pháp như chấm câu

Có 2 yếu tố quan trọng nữa cần đề cập đến ở Châu Âu thời kỳ này chính là sự du nhập của giấy hiện đại từ Trung Quốc thông qua thế giới Hồi giáo và việc ra đời của kính mắt. Kính mắt là một công cụ nâng cao đáng kể thời gian đọc sách cho những người lớn tuổi; ra đời ở Châu Âu vào năm 1280. Ở các thời kỳ trước, việc đọc sách dành cho những người tuổi trên 45, vốn mắt đã bị lão hóa và viễn là điều rất khó khăn. Với việc sử dụng kính đã có thể giúp những người đó có thêm được khoảng 15 năm đọc sách. Đó cũng là một yếu tố thúc đẩy nhu cầu đọc sách tăng lên, mặc dù không nhiều. Lý do chủ yếu là giá thành của kính vẫn quá đắt và chỉ những tầng lớp giàu có mới có thể sử dụng. Theo thống kê, vào năm 1384, London trung bình nhập 384 chiếc hàng tháng. 1 thế kỷ sau con số này là 480.

Yếu tố quan trọng thứ hai là một kiểu giấy mới. Được sử dụng bắt đầu ở vùng Hồi giáo những năm 600 nhưng phải đến năm 1074, xưởng chế tạo giấy đầu tiên sử dụng cối xay gió thay cho sức người mới được xây dựng ở Tây Ban Nha. Cái thứ 2 được xây gần Rome năm 1270. Ở Pháp, Đức, Anh lần lượt là 1326, 1390 và 1490. Giấy Trung Quốc ít được chuộng ở châu âu thời kỳ này, và ưu điểm duy nhất của nó so với giấy da chỉ là giá thành rẻ hơn. Nhược điểm chính của nó là hút quá nhiều mực, và điều này đã được cải thiện bằng quy trình làm khô giấy tốt hơn giúp tăng chất lượng của nó lên đáng kể. Động lực chính của việc sử dụng rộng rãi loại giấy mới là từ việc ra đời công nghệ in mới của Gutenberg vào năm 1450.

Công nghệ in hàng loạt của Gutenberg

Ý tưởng về việc sản xuất hàng loạt và nhanh chóng một văn bản, thông tin đã có từ rất lâu. Người Summer đã chế tạo ra những bản khắc bằng gỗ hay đá để ấn lên những miếng đất sét vẫn còn đang ướt để sản xuất hàng loạt một văn bản nào đó, thông thường liên quan đến văn chương và thơ ca.
Kỹ thuật in trên đất sét đầu tiên vào năm 2300 TCN

Công nghệ in tiếp theo đó là bôi mực lên một bản khắc bằng gỗ hoặc kim loại, rồi sau đó in lên mặt một tờ giấy. Kỹ thuật này được người Trung Quốc phát minh vào khoảng năm 200 SCN. Kỹ thuật này được sử dụng rộng rãi khắp thế giới cổ đại, chủ yếu nhằm in ra các bức tranh hay hình minh họa.

Một bản khắc gỗ với những họa tiết của người Ấn Độ

Công nghệ in sắp chữ (movable type) cũng được phát minh lần đầu tiên ở Trung Quốc vào năm 1040 SCN dưới thời Bắc Tống. Vật liệu để làm khuôn in là ban đầu bằng gỗ, sau đó được chuyển sang là gốm. Khuôn in làm bằng kim loại đầu tiên được Hàn Quốc sử dụng vào năm 1234 và sau đó được nhà Tống sử dụng để in tiền giấy. Ở châu Âu, Gutenberg là người sử dụng công nghệ in sử dụng khuôn kim loại đầu tiên vào năm 1450. Mặc dù phát minh ra công nghệ in ấn rất sớm trước Gutenberg nhưng việc in ấn ở các nước Á Đông không thể phát triển mạnh và nhanh được bởi lý do chủ yếu là trong khi châu Âu sử dụng hệ thống ký tự Latin gồm 26 chữ cái thì các nước Châu Á hầu hết sử dụng chữ tượng hình với hàng nghìn ký tự. Việc in ấn đại trà sử dụng công nghệ in dùng khuôn và sắp chữ là một việc rất khó khả thi với các nước Châu Á.

Gutenberg, vốn xuất thân từ một gia đình làm nghề rèn và chế tác kim loại đã phát triển một công nghệ in hoàn chỉnh vào những năm 1450. Ông có 3 đóng góp lớn, đó là việc phát minh ra khuôn in các chữ cái bằng kim loại; phát hiên và sử dụng mực gốc dầu để thay mực gốc nước vốn được sử dụng hơn 3000 năm nhưng lại vô tác dụng trong việc bám lên bề mặt kim loại, và thiết kế ra một chiếc máy sắp chữ hoàn chỉnh. Kim loại mà Gutenberg sử dụng là một hợp kim giữa chì, thiếc và antimony được phát triển vào khoảng những năm 1439 và tiếp tục được sử dụng giữ nguyên thành phần cho đến tận những năm 1800.

Chiếc máy in mà Gutenberg đã phát minh ra

Mặc dù là một kỹ sư lành nghề và nhà phát minh xuất chúng, nhìn ra được tiềm năng to lớn từ phát minh của mình nhưng Gutenberg lại chẳng giỏi trong việc kinh doanh. Thời điểm 1450 ông có vay của Fust, một gia đình giàu có thời đó một số tiền lớn tương đương với 1 triệu $ Mỹ vào những năm 1990; hay tương đương với 10 năm lương của một công chức cao cấp thời kỳ đó để phát triển công nghệ của mình. Năm 1455, tình hình kinh doanh không khả quan và bị Fust siết nợ, Gutenberg đã phải bán toàn bộ máy móc và công nghệ của mình cho Fust tiếp quản.

Khuôn chữ cái bằng kim loại của Gutenberg

Ra đời vào đúng thời điểm nhu cầu sách đang rất cao, phát minh của Gutenberg nhanh chóng được khắp Châu Âu đón nhận và sử dụng. 30 năm sau, 1480 có đến 110 thị trấn ở Châu Âu đã sử dụng máy in của Gutenberg mà tập trung nhất là ở Venice với 156 đầu sách được in ra. Con số này của các thành phố khác là Milan (82), Augsburg (67), Nuremberg (53), Florence (48), Cologne (44), Paris (35) và Rome (34). Trong 3 năm từ 1495-1497, có 1821 đầu sách được in, trong đó có 24.5% là từ Venice. Đến năm 1500, đã có 236 thị trấn có máy in và 35 nghìn đầu sách đã được xuất bản. Trước năm 1500, hầu hết sách đều không có đánh số trang. Nhưng đến năm 1600, đã có 4/5 số sách có sử dụng số của người Ả rập ở cuối trang sách của mình.

So sánh giữa bản sách viết tay và bản in từ máy của Gutenberg

Nhu cầu thông tin của con người ngày càng cao. Đến khoảng đầu những năm 1600 đã xuất hiện những tờ báo in để cung cấp thông tin nhanh chóng đến người dân. Báo Nieuwe Tijd-inghen xuất bản năm 1605 là tờ báo đầu tiên. Khoảng 1650, các thành phố lớn đều đã có những tờ báo của riêng mình. Trong khi đó các tạp chí chuyên ngành bắt đầu được in vào 1660.

Máy in sử dụng động cơ hơi nước ra đời năm 1814 và công nghệ sản xuất giấy mới ra đời năm 1802 càng khiến việc in ấn dễ dàng với chi phí rẻ hơn. Trong vòng 20 năm từ 1820 đến 1840, ở Anh đã có đến 2000 tờ báo và tạp chí mới xuất hiện. Cùng với đó là tỷ lệ biết chữ tăng lên đáng kể. Đến năm 1840, ở Anh đã có khoảng 68% đàn ông và 52% phụ nữ biết đọc biết viết.

Phát minh của Gutenberg đã được đánh giá là một trong những phát minh quan trọng của lịch sử loài người, ra đời rất đúng thời điểm và là động lực chính dẫn đến các cuộc cách mạng Phục Hưng, Khai sáng hay cách mạng công nghiệp sau này; đưa nền văn minh châu Âu bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng mới tương tự như nền văn minh Hy-La trước đó 2000 năm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét