Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

(1) Lịch sử phát triển của sách

Lịch sử phát triển của sách
Sách là gì? Ban đầu sách chỉ được coi là một thiết bị/công cụ để lưu trữ thông tin. Rất lâu sau đó, sách mới được coi là công cụ để truyền tải và thể hiện ý tưởng của loài người.
Yếu tố đầu tiên cần quan tâm về lịch sử của sách đó chính là động lực nào đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của sách? Một quy luật chung được tìm thấy cho những cột mốc phát minh trong lịch sử của sách nói chung và các phát minh ở mọi lĩnh vực khác nói riêng là nó đều được khởi tạo và thúc đẩy bởi nhu cầu xã hội.
Những ký hiệu, nét vẽ đầu tiên được tìm thấy trong lịch sử loài người là một di chỉ trên đá có niên đại vào khoảng 75,000 năm TCN. Những hình vẽ như vậy trong các hang động, trên xương động vật hay trên đá được tìm thấy tương đối phổ biến cho đến tận khoảng năm 10,000 TCN. Nhưng việc thay đổi lớn trong cơ cấu xã hội, kinh tế dẫn đến một cách sống mới, một xã hội với những vấn đề mới về quản trị, thương mại và sản xuất mới là động lực chính dẫn đến việc lưu trữ thông tin một cách có ý thức và hệ thống. Sách ra đời nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu đó.

Hình vẽ trên đá có niên đại cổ nhất được tìm thấy

Khoảng 10,000 TCN, trái đất bước vào thời kỳ kết thúc của kỷ băng hà cuối cùng. Băng tan, đất đai đã bắt đầu có thể trồng trọt. Con người bắt đầu kết thúc thời kỳ săn bắt, hái lượm với cuộc sống du canh du cư vốn là cách tồn tại duy nhất trong thời kỳ băng hà và chuyển sang thời kỳ định canh và trồng trọt. Khoảng 8500 năm TCN đã xuất hiện những bộ lạc từ bỏ lối sống du canh du cư và định cư làm nông nghiệp; hình thành nên các nền văn minh sơ khai đầu tiên ở dọc những lưu vực sông lớn và gần xích đạo. Nổi tiếng nhất là những nền văn minh ở lưu vực sông Nile ở Ai Cập; Lưỡng Hà ở Ả rập, sông Hằng ở Ấn Độ và Hoàng Hà/Trường Giang ở Trung Quốc

Có 7 cột mốc lớn trong lịch sử phát triển của các thiết bị lưu trữ thông tin. Thiết bị lưu trữ thông tin đầu tiên được sử dụng là tablet làm bằng đất sét ra đời vào khoảng 2500 TCN ở vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia). Trong khi đó ở Ai Cập, người Ai cập lại sử dụng cuộn giấy papyrus (tên một loại cây chỉ có ở Ai Cập) làm thiết bị để viết. Đột phá lớn thứ ba đó là sự ra đời của sách ở dạng lật trang như thời hiện đại thay vì là một cuộn giấy dài. Sau đó là sự ra đời của máy in sử dụng khuôn là các chữ cái Latin bằng kim loại do Gutenberg phát minh vào năm 1450. Tiếp đó, máy in của Gutenberg được cải tiến và sử dụng đầu máy hơi nước thay vì sức người vào năm 1800. 2 phát minh gần đây nhất chính là kỹ thuật in offset (máy in hiện đại) và sự ra đời của sách điện tử.

——————————————————–

Tablet đất sét
Vào khoảng 3700 năm TCN, người Summer ở vùng Lưỡng Hà (nơi vốn rất thiếu gỗ và đá, tài nguyên phổ biến nhất chính là đất sét) đã chế tạo ra những tablet bằng đất sét kích thước khoảng một bàn tay để làm thiết bị lưu trữ thông tin đầu tiên. Họ nặn đất sét, tạo ra một mặt phẳng, và khi đất sét vẫn còn ướt dùng những đầu nhọn để gạch lên đó. Sau đó đem miếng đất sét đó đi phơi hoặc cho vào lò nung.
Tablet bằng đất sét

Thời kỳ này, các nhà nước cổ đại đã hình thành, xã hội đã phân hóa ra các tầng lớp khác nhau. Nông nghiệp và kinh tế đã sản xuất ra của cải vật chất dư thừa đủ để một bộ phận người không cần tham gia vào sản xuất mà có thể làm những công việc khác như quản trị hay thương mại. Các ký hiệu trên những tablet đầu tiên được tìm thấy chủ yếu để đếm số lượng con vật trong đàn, những đồ đã trao đổi hay ai nợ của ai bao nhiêu thực phẩm. Với người Summer, tablet chỉ để ghi lại những thương vụ làm ăn hay luật lệ.

Thời này, người ta vẫn vẽ một cách tùy hứng lên các tablet, không có quy chuẩn thống nhất nào, mỗi người vẽ theo một cách khác nhau.
Hình ảnh được vẽ trên tablet thời kỳ đầu

Đến năm 3100 TCN, người Summer đã bắt đầu quy chuẩn những hình vẽ của mình, và đó được coi là chữ viết đầu tiên của loài người với tên gọi pictograph. Chữ viết ngày càng được đơn giản hóa giúp dễ dàng hơn cho cả người đọc và người viết.

Pictographic của người Summer năm 2800 TCN
Pictographic của người Summer năm 2500 TCN.

Tuy vậy các ký hiệu trên vẫn còn phức tạp và khó để vẽ. Tablet đất sét có một nhược điểm lớn đó là không hề dễ dàng để sử dụng một vật nhọn kim loại vẽ ra được các đường cong phức tạp trên bề mặt. Do đó đến năm 2500 TCN, một loại chữ viết mới có tên cuneiform chủ yếu sử dụng các đường thẳng đã ra đời để phù hợp với việc viết trên tablet đất sét. Việc sử dụng các đường thẳng cũng giúp việc quy chuẩn chữ viết trở nên dễ dàng hơn, khi người nào cũng có thể viết na ná giống nhau, chứ khó có thể giống nhau như khi sử dụng pictographic. Do đó năm 2500 TCN được coi là dấu mốc cho việc ra đời chữ viết quy chuẩn.
Chữ viết cuneiform để tính toán tiền lương năm 2100 TCN

Sau 2000 TCN, người Babylon và Assyrian tìm cách học hỏi những nền văn minh lân cận và tìm cách cải tiến cuneiform theo hướng đơn giản hóa. Nếu ở năm 2500 TCN, số lượng ký hiệu quy ước trong chữ cuneiform là khoảng 2000 ký tự thì đến những năm 1500 TCN số lượng này đã giảm xuống khoảng 570 ký tự, trong đó khoảng 200 ký tự được sử dụng phổ biến. Việc đơn giản hóa và giảm thiểu số lượng ký tự cần biết khiến cho việc viết trên tablet đất sét được phổ biến rộng rãi hơn và đòi hỏi ít trí năng hơn; giúp việc ghi nhớ truyền tải đúng thông điệp dễ dàng hơn.

Bản đồ, loại hình “nonverbal writing” cũng bắt đầu xuất hiện khoảng 1500 TCN ở Lưỡng Hà, chứng minh cho việc người thời này đã bắt đầu có khả năng tư duy trừu tượng tốt và đòi hỏi một hệ thống tư duy mới ra đời để có thể đọc và hiểu được các tấm bản đồ này. Cách tư duy trừu tượng dựa trên hình ảnh bắt đầu xuất hiện.

Trường học đầu tiên ra đời khoảng 2500 TCN dưới thời người Summer, có tên “tablet house”. Mục đích của các trường này là để đào tạo ra đội ngũ trẻ biết đọc biết viết thường được biết với cái trên “scribe”. Với việc xã hội hình thành và ngày càng phát triển, nhu cầu với những người biết đọc biết viết ngày càng cao để xử lý/tính toán những tài liệu về thu nhập, thuế má, thiết bị, vũ khí, nguyên vật liệu các công trình xây dựng. Thường chỉ con cái tầng lớp tinh hoa được học những trường này, và chúng được đào tạo ra cũng để trở thành các nhà quản trị, lãnh đạo, thầy tu hay kế toán; vốn là những nghề rất được coi trọng trong xã hội thời đó.

Bắt đầu vào khoảng 2500 TCN, người Summer bắt đầu dùng tablet để nhằm mục đích truyền tải tư tưởng và thơ văn thay vì chỉ sử dụng nó vào mục đích thương mại và luật lệ như thời gian trước. Những thần thoại, truyện huyền bí, thơ ca, bài cầu khấn thần linh đã bắt đầu xuất hiện tương đối nhiều. Trong khoảng 2100-1800 TCN, số lượng tablet về thơ ca, thần thoại được tìm thấy là khoảng 5000. Hệ thống toán học ở Lưỡng Hà cũng phát triển rất mạnh, đặc biệt là so với các nền văn minh khác tồn tại cùng thời kỳ. Người Summer đã biết tính toán những phương trình bậc hai, số thập phân chứ không chỉ những phép tính số học đơn giản.

Số lượng tablet được sản xuất ra nhiều dẫn đến nhu cầu xây dựng những kho chứa để lưu trữ những văn bản này. Thư viện chứa tablet đất sét lớn nhất được tìm thấy dưới thời vua Ashurbanipal, vị vua cuối cùng của Assyria (650 TCN). Hiện có hơn 20,000 tablet lấy từ thư viện này được lưu trữ tại Bảo tàng Anh Quốc. Thư viện này cũng đã bắt đầu phân loại tablet theo các nhóm.

Sự đi xuống của tablet đất sét khi hệ thống chữ alphabet đầu tiên xuất hiện và ngày càng phổ biến suốt thời kỳ 1500-1000 TCN. Sự giao lưu mạnh mẽ giữa các nền văn minh, trao đổi những phát kiến ở thời kỳ này, du nhập của những thiết bị lưu trữ tiên tiến hơn đã khiến tablet đất sét hoàn toàn được ngừng sử dụng vào khoảng thế kỷ thứ 2 SCN.

Giấy papyrus ở Ai Cập

Ai Cập, một nền văn minh rực rỡ khác, cũng tự phát triển một hệ thống chữ viết và thiết bị lưu trữ hoàn toàn khác so với người Lưỡng Hà. Vào khoảng 2500 TCN, xã hội Ai Cập cũng đã hình thành và phát triển thịnh vượng theo cách thức tương tự với nền văn minh Lưỡng Hà, cho dù 2 nền văn minh này rất ít có sự giao lưu với nhau do vị trí địa lý cách biệt.

Ai Cập vốn nổi tiếng với chữ tượng hình (hielogryphic) của mình. Vào khoảng 2600 năm TCN, người Ai cập đã phát triển tương đối hoàn thiện chữ tượng hình, nhưng chủ yếu họ cũng khắc trên những hang động hay phiến đá mà thôi.
Chữ tượng hình của người Ai Cập

Tuy vậy, chữ tượng hình của người Ai cập lại đi theo một con đường khác, chứ không phải theo hướng đơn giản hóa cả về hình thức lẫn số lượng ký tự tương tự như chữ cuneiform của người Summer. Ra đời vào khoảng 3400 năm TCN, vào thời kỳ khoảng 2500 năm TCN, số lượng ký tự của người Ai Cập sử dụng đã lên đến 800. Nhưng không giống với người Summer, số lượng ký tự của chữ viết Ai Cập tiếp tục tăng lên, và đến công nguyên, con số này đã lên đến 5000. Tuy vậy chữ tượng hình của Ai cập có 3 loạị trong đó có một loại được cải tiến theo hướng tối giản hóa cho số đông người dân có thể sử dụng. Và đến khoảng năm 700 TCN, hình thức đơn giản nhất của chữ Ai Cập là chữ Demotic ra đời. Tuy vậy cả 3 vẫn tồn tại song song và bổ sung cho nhau, ví dụ chữ được viết trên giấy papyrus chủ yếu là Demotic; còn chữ tượng hình gốc chủ yếu được sử dụng trong các văn bản chính thống hay chạm khắc trên lăng miếu, đền đài hay những đồ vật quý, linh thiêng.

Trong khi đó loại chữ tượng hình còn lại được coi là động lực chính để ra đời loại chữ alphabet đầu tiên sau này ở Lưỡng Hà. Loại chữ này bao gồm 23 ký tự được sử dụng như các chữ để bắt đầu biểu diễn cho một từ, giống với vai trò của các phụ âm trong ngôn ngữ hiện đại. Người Ai Cập phát mình và sử dụng loại chữ này song song với 2 loại còn lại từ khoảng năm 2700 TCN. Tuy vậy người Ai Cập lại không tiếp tục cải tiến và sử dụng loại chữ tượng hình này nhiều (lý do khiến số lượng ký tự tượng hình chỉ có tăng lên chứ không giảm xuống).
Sự cải tiến của chữ viết Ai Cập

Thiết bị viết chính của người Ai Cập là giấy papyrus. Đây là một loại giấy được làm từ cây papyrus vốn chỉ tồn tại ở dọc bờ sông Nile của Ai Cập. Cây papyrus sau khi được lột vỏ sẽ được cắt thành từng lát mỏng, ngâm vào nước để các chất đường hoàn toàn được loại bỏ, sau đó ghép nối với nhau thành tấm và được phơi khô dưới áp lực của những tảng đá lớn trong khoảng 7 ngày để thành sản phẩm hoàn chỉnh. Cách thức sơ chế giấy papyrus có thể xem tại video sau:

How To Make Papyrus Paper - The Ancient Ways & Modern Fakes




2 tấm giấy papyrus cổ nhất được tìm thấy ở Ai Cập trong một lăng mộ hoàn toàn chưa được sử dụng và có niên đại khoảng 3000 năm TCN. Sau đó giấy papyrus được cải tiến, và tồn tại phổ biến dưới dạng cuộn. Giấy papyrus tồn tại dưới dạng cuộn cổ nhất được tìm thấy có niên đại khoảng 2000 năm TCN.
Giấy papyrus dạng cuộn là công cụ viết phổ biến ở Ai Cập

Để viết trên giấy papyrus này, người Ai Cập sử dụng mực và bút lông. Ai cập có 2 loại mực, màu đen làm từ muội than và màu đỏ làm từ hoàng thổ. Mực được đúc thành bánh và khi sử dụng thì được trộn với nước và nghiền đều ra tương tự như mực được sử dụng ở Trung Quốc. Chữ màu đỏ được sử dụng nhằm nhiều mục đích : như là để nhấn mạnh, hay được dùng với vai trò tương tự dấu ngoặc đơn trong ngữ pháp hiện đại. Các chữ cái hay từ đầu tiên, chữ trên tiêu đề, các ký hiệu hay dấu chấm ngắt câu đều sử dụng màu đỏ.
Một văn bản trên giấy papyrus dạng tấm, chữ demotic và dùng 2 loại mực

Cũng tương tự vùng Lưỡng Hà, ban đầu chủ yếu giấy papyrus được sử dụng vào mục đích ghi chép những văn bản thương mại, trao đổi hay luật pháp rồi sau đó đến văn thơ, những truyền thuyết, thần thoại hay khoa học dần dần xuất hiện. Có nhiều văn bản trên giấy papyrus viết về toán học ở Ai Cập được tìm thấy, sớm nhất vào khoảng 1650 TCN nhưng chỉ giải quyết những bài toàn số học tương đối sơ khai. Người Ai Cập cũng sử dụng hệ đếm thập phân chứ không phải thập lục phân như người Babylon; và cách thể hiện số tương tự cách viết của số La Mã. Tuy vậy y học là một lĩnh vực phát triển và được người Ai cập ghi chép rất nhiều. 2 cuộn giấy papyrus về y học đầu tiên được tìm thấy có niên đại khoảng 1900 TCN. Trường học cũng được mở ra ở Ai Cập vào khoảng năm 2000-1800 TCN.

Ưu điểm của giấy papyrus đó là việc viết trên giấy dễ dàng hơn nhiều trên tablet đất sét, và cũng hơn trong việc vẽ những đường cong, do đó chữ demotic của người Ai Cập có rất nhiều đường cong, thay vì chỉ toàn gạch và nét thẳng như cuneiform như của người Summer. Chính việc này đã dẫn đến việc tranh, ảnh xuất hiện rất nhiều trong các văn bản của người Ai cập, thậm chí có nhiều cuộn giấy papyrus chỉ toàn là tranh. Bản đồ đầu tiên được tìm thấy ở Ai Cập có niên đại khoảng 1300 năm TCN.

Chính vì ưu điểm đó của giấy papyrus mà khi các nền văn minh có sự giao lưu trao đổi cả về thương mại, buôn bán cũng như khoa học, kỹ thuật bắt đầu từ 1500 TCN đã dẫn đến việc giấy papyrus của Ai cập được biết đến và sử dụng rộng rãi ở những vùng đất, nền văn minh khác. Đặc biệt nó được coi là công cụ viết và trao đổi thông tin, tư tưởng chính để làm nên một nền văn minh Hy Lạp – La Mã vô cùng rực rỡ. Tuy vậy giấy papyrus cũng có nhược điểm chung là dễ rách, dễ bị phá hủy bởi thiên tai hay chiến tranh hay từ các vi sinh vật. Do đó không có một thư viện giấy papyrus nào được tìm thấy, mà hầu hết là những bản thảo nhỏ lẻ.

Châu Âu không có những nền văn minh cổ đại nổi tiếng và rực rỡ như 2 vùng đất láng giềng; tuy vậy thông qua việc giao thương và học hỏi, họ đã dần dần nắm bắt được những sự ưu việt của 2 nền văn minh kia. Qua một thời kỳ hấp thu và sáng tạo lâu dài, họ đã cho ra đời một nền văn minh Hy Lạp – La Mã rực rỡ nhất, vượt qua cả những nền văn minh cổ đại láng giềng; mà cho đến 2000 năm sau, Châu Âu mới tìm thấy lại một thời kỳ rực rỡ tương tự như thế.

Châu Âu thời Hy Lạp – La Mã (1000 TCN đến 400 SCN) có một số đóng góp cho lịch sử của chữ viết. Trong đó có một phát minh lớn, đặc biệt quan trọng đó là việc cho ra đời một hệ thống chữ alphabet hoàn chỉnh, chính là các con chữ Latin được sử dụng ngày nay. Ngoài ra nền văn minh Hy-La cũng biết dùng giấy da để thay thế cho giấy papyrus vốn dần khan hiếm vào thời kỳ công nguyên.
Bản đồ Hy Lạp cổ đại

Chữ viết đầu tiên được tìm thấy ở Châu Âu là vào khoảng năm 2200 TCN ở vùng đảo Crete của người Minoan. Cũng tương tự như Ai Cập hay Lưỡng Hà, chữ viết thời kỳ này đều là dạng pictographic. Tuy vậy người Minoan nhanh chóng rút gọn chữ viết của mình còn 57 ký tự vào khoảng năm 1700 TCN. Và các văn bản đầu tiên cũng chủ yếu là những ghi chép về thương mại hay quản trị.

Văn bản thơ ca, văn chương được tìm thấy đầu tiên ở châu Âu là những bài thơ của Homer vào năm 850 TCN với những tác phẩm nổi tiếng như Odyssey hay Illiad.

Công lớn của người Hy Lạp với lịch sử phát triển của sách đó chính là việc sáng tạo ra một hệ chữ alphabet hoàn chỉnh đầu tiên. Gọi là “hoàn chỉnh” vì so với các chữ alpabet ra đời trước đó, chữ alphabet của người Hy Lạp có chia ra nguyên âm và phụ âm, là cơ sở để phân biệt giữa các từ sau này.

Nguồn gốc của chữ alphabet hiện tại vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi, tuy vậy một học thuyết được nhiều người ủng hộ nhất cho rằng nguồn gốc của chữ alphabet xuất phát từ loại chữ gồm 23 ký tự tượng hình của Ai Cập cổ đại. Các nhà nghiên cứu cho rằng Proto-Sinaitic, chữ của người ở Canaan, một vùng nằm giữa Ai Cập và Lưỡng Hà chính là chữ alphabet đầu tiên. Chữ của người Canaan mang nhiều dáng dấp của chữ tượng hình Ai Cập, tuy vậy nó được cải tiến theo hướng đơn giản hóa tương tự như chữ ở vùng Lưỡng Hà. Đến năm 1850 TCN, chữ Proto-Canaanite đã chỉ gồm có 27 ký tự.
Vị trí quan trọng của Canaan khiến ngôn ngữ của nó 
trở thành trung chuyển giữa 2 loại ngôn ngữ phổ biến

Người ta tin rằng chữ Proto-Canaanite chính là trung gian giữa chữ tượng hình Ai Cập và chứ alphabet tương đối hoàn chỉnh của người Phoenician ở Lưỡng Hà sau này. Chữ của người Phoenician cũng là loại chữ alphabet không phải tượng hình đầu tiên mà dùng những ký hiệu tương đối vô nghĩa. Nó bao gồm 22 ký tự, ra đời vào khoảng 1050 TCN và viết từ phải sang trái.

So sánh giữa các ngôn ngữ cho thấy một số sự tương đồng nhất định
Chữ của người Phoenician là chữ alphabet không phải tượng hình đầu tiên

Rồi sau đó người Hy Lạp đã học hỏi rất nhiều từ chữ viết của người Phoenician. Một ví dụ minh chứng rõ nét cho việc giống nhau giữa chữ alphabet của người Hy Lạp và Phoenician là các từ alpha, beta, gamma, delta là các từ vốn không có nghĩa trong tiếng Hy Lạp, nhưng lại có những chữ tương ứng alef, bet, gimel, and dalet trong tiếng Phoenician. Người Hy Lạp phát minh ra cách thức dùng nguyên âm và phụ âm vào khoảng 700 TCN, thêm 4 ký tự biến ngôn ngữ của mình thành 26 ký tự và được coi là hệ chữ alphabet hoàn thiện đầu tiên.
Di chỉ cổ nhất được tìm thấy có chữ alphabet của Hy Lạp niên đại 730 TCN

Lúc đầu người Hy Lạp cũng sử dụng cách viết của người Phoenician, đó là viết từ phải qua trái, sau đó dòng tiếp theo lại từ trái qua phải, cứ luân phiên như vậy. Rồi đến khoảng năm 400 TCN đều chuyển sang cách viết từ trái qua phải như ngày nay.
Sự tương đồng giữa chữ alphabet của Hy Lạp và Phoenician

Khi cuộc chinh phục của người La Mã kết thúc vào năm 146 TCN, người La Mã đã học hỏi, tiếp thu rất triệt để những tinh hoa của nền văn minh Hy Lạp, trong đó có cả hệ thống chữ viết. Người La Mã đã cải tiến hệ thống chữ viết của người Hy Lạp để trở thành hệ thống chữ viết Latin chuẩn được sử dụng cho đến tận ngày nay.

Tuy vậy, việc viết một vài nét, đường thẳng trên giấy là một việc khá buồn tẻ. Đến khoảng 400 SCN, người La mã sáng tạo ra kiểu chữ nét cong gọi là hệ thống chữ viết uncial giúp việc viết nhanh chóng và dễ dàng hơn. Tuy vậy, chữ uncial này có nét rất to và tốn giấy, sau đó được kiểu chữ cỡ nhỏ “minuscule” ra đời vào khoảng 800 SCN thay thế. Chữ cỡ nhỏ có thể giúp viết nhiều từ trên một diện tích giấy hơn, giúp tiết kiệm chi phí vào thời điểm giá của giấy khá đắt đỏ.
Các ký tự Latin viết theo kiểu uncial

Như đã nói ở trên, người Hy Lạp – La Mã cũng đã sáng tạo ra giấy da (parchment) để sử dụng thay thế cho giấy papyrus. Với việc nền văn minh phát triển rực rỡ, nhu cầu viết lách và trao đổi thông tin, tư tưởng rất lớn đã dẫn đến nhu cầu về giấy của Hy Lạp rất cao. Trong khi đó giấy papyrus; vốn được làm từ cây papyrus chỉ sống ở Ai Cập và đã được khai thác đến mức gần như tuyệt chủng vào khoảng năm 100 TCN đã khiến cho các loại thiết bị lưu trữ thông tin mới giá thành rẻ hơn và phổ biến hơn phát triển. Người ta từ lâu đã biết dùng da động vật để làm quần áo, túi đựng hay các vật phẩm khác; tuy vậy da thú lần đầu tiên được sử dụng như giấy là vào khoảng 1600 TCN và dần dần thay thế giấy papyrus bằng những ưu điểm của mình.

Giấy da có thể có kích thước lớn hơn, khó rách, đàn hồi và bảo quản được lâu hơn so với giấy papyrus; và do bề mặt tốt hơn và ít ăn mực hơn nên có thể viết trên cả 2 mặt hoặc có thể xóa chữ đi để viết lại nếu cần. Mặc dù có nhiều ưu điểm như vậy so với giấy papyrus nhưng phải nhờ đến sự xuất hiện của sách dạng lật trang (codex) thay phương thức cuộn cổ điển vào khoảng năm 100 SCN mới thực sự thúc đẩy việc dùng giấy da. Giấy papyrus dần dần ít được sử dụng và biến mất vào 600 SCN.

Người Hy lạp cũng sử dụng một loại bút làm từ cây sậy với một đầu vót nhọn để làm công cụ viết thay thế cho bút lông của người Ai Cập giúp nét chữ nhỏ hơn và có thể viết được nhiều chữ trên cùng một diện tích bề mặt hơn.
Bút viết của người Hy Lạp

Thời Hy-La là thời kỳ thịnh vượng cả về mặt kinh tế, chính trị, quân sự cũng như văn chương, thơ ca, khoa học, y học, lịch sử, tôn giáo, triết học, nghệ thuật với rất nhiều nhà tư tưởng vĩ đại.

Các trường học đã tồn tại rất lâu ở các nền văn minh trước, tuy nhiên mục đích nó lập ra chỉ nhằm đào tạo cho tầng lớp quý tộc. Hy Lạp vào những năm 800-600 TCN là nơi đầu tiên có hệ thống trường học đại trà nơi mở cửa cho tất cả những ai có khả năng đến học; vốn nằm trong khả năng chi trả của hầu hết giới trung lưu. Rồi tiếp đó xuất hiện nhu cầu về đào tạo bậc cao và những trường như của Plato hay Aristotle ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó. Khoảng năm 300 TCN, tỷ lệ biết đọc biết viết của người Hy Lạp là khoảng 5-10% dân số. Cho đến năm 200 SCN, dưới thời La Mã, con số này là khoảng 20-30% với nam và 10% với nữ.

Hy Lạp cũng chứng kiến một hệ thống sản xuất, phân phối sách đầu tiên xuất hiện. Các cửa hiệu bán sách, cũng như các thư viện công cộng nở rộ trên khắp đất nước. Tiệm bán sách thời kỳ này có rất nhiều sách từ cũ đến mới, và có liệt kê giá cả của từng quyển. Các thư viện cũng được xây dựng, có nơi chỉ dành cho giới học thuật, nhưng cũng có rất nhiều thư viện công cộng, nơi người dân được đọc miễn phí. Có 3 thư viện công cộng lớn nổi tiếng đó là : thư viện Alexandria (năm 284 CN), Serapeum (246 TCN), Pergamum (220 TCN). Thư viện Alexandria là một thư viện cực kỳ nổi tiếng, được coi là chứa đến 700,000 cuộn giấy papyrus, trong khi con số của Pergamum là khoảng 200,000 cuộn. Thời La Mã thế kỷ thứ 4 SCN có khoảng 28 thư viện hoạt động trên toàn đế chế.

Tuy vậy sự suy yếu của thành Rome từ những năm 200 SCN và trước những cuộc xâm lấn liên tiếp của các tộc người ở miền Bắc đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế La Mã vào năm 476. Sự sụp đổ này kéo theo theo hệ thống trường học, thư viện và hiệu sách bị đình trệ hoàn toàn. Số lượng sách sản xuất ra giảm sút rất đáng kể. Thế kỷ thứ 3 TCN, số sách được sản xuất chỉ bằng 2/3 thế kỷ thứ 2 và thế kỷ thứ tư chỉ bằng 1/3 thế kỷ thứ 3. Châu Âu rơi vào thời kỳ Trung Cổ đen tối.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét