Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

(1) Báo quân đội thế nào, sức mạnh của quân đội thế ấy

Nghĩ về các báo quân đội
Nhìn vào một tập san quân đội, thấy sức mạnh của quân đội ấy
Thắng lợi vĩ đại của quân và dân Việt Nam trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được ví như một cuộc “chiến đấu thần kỳ” và trở thành biểu tượng của lương tri và phẩm giá con người. Mỗi chiến công trong cuộc chiến đấu ấy là một kỳ tích. “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” 40 năm trước là một chiến công như thế - tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tầm cao trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh Đại tướng Phùng Quang Thanh nói.
Điều làm nên một quân nhân, là phẩm chất suy nghĩ độc lập biết lĩnh hội sức mạnh phản chiếu từ nhiều tấm gương lịch sử - Gerhard von Scharnhorst


1. Tập san quân đội Pháp
Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy. Không ngẫu nhiên mà vào thời hoàng kim của đế chế Pháp, đầu thế kỷ 19, Journal Militaire dầy 800 trang đậm đặc các tranh luận học thuật về đạn đạo, cự ly, cách vẽ xạ bảng hay phân bố đại bác trên trận địa… Pháo binh, là một vũ khí mới ở thời kỳ này. Trung pháo 75 ly là vũ khí xương sống làm nên sức mạnh của quân đội Pháp.

Từ giữa thế kỷ 19, Journal Militaire đổi tên thành Journal Militaire Officiel [Tập san Quân đội Chánh thức] mất dần đi chất học thuật, số trang mỏng đi và thay vào các chủ đề Hướng dẫn Tác xạ [Instructions du Tir] là những huấn thị của Bộ Quốc phòng, rồi danh sách các sĩ quan được thăng thưởng phía sau. Tính chất tuân thủ nhiều thêm, cùng lúc tính kỹ thuật giảm đi, và, một cách trùng hợp, quân đội Pháp suy yếu.

Khi chiến tranh tái diễn, các hậu duệ của Nã Phá Luân nhanh chóng thảm bại. Tuy quân số đông hơn và các chiến xa nặng Renault B1 được bọc thép dầy hơn, nhiều hơn, so với kẻ thù truyền kiếp là quân Đức, quân Pháp vẫn phải đầu hàng. Các sử gia đều đồng thuận khi phán quyết: Học thuyết chiến tranh của Pháp lỗi thời là nguyên nhân chính. Lấy vận tốc hành binh dựa trên bước chân bộ binh trong Thế chiến thứ nhất làm chuẩn, các tướng lãnh Pháp không theo kịp vận tốc động cơ của quân Đức. Vắn tắt, tụt hậu tư duy so với thời đại.

Journal Militaire Officiel trưng bày những tụt hậu này.

Khác tập san quân đội Đức đương thời tràn ngập các tiểu luận mổ xẻ ưu khuyết điểm giữa hai học phái quân sự đối nghịch, giữa Clausewitz Phổ và Antoine-Henri de Jomini từng làm tham mưu cho Nã Phá Luân, các khảo luận trên tập san quân đội Pháp về những trận đánh xưa cũ Marengo, Ulm, Austerlitz, Jena, Wagram thiên về ca ngợi thiên tài của Nã Phá Luân, hoặc, ca ngợi công trạng của Pétain và Foch khi viết về những trận đánh gần hơn nhưng không đúc kết, không đề xuất chiến lược mới. Một góc cạnh khác: Clausewitz gần như vắng bóng trên Journal Militaire Officiel, trong lúc Clausewitz đã trở thành bậc thầy tư duy của Bộ Tổng Tham mưu Đức. Các quân nhân Pháp sở hữu duy nhất một bản dịch Clausewitz của trung tá de Vatry xuất bản năm 1866 bị xem là rối rắm đầy lỗi. Cho đến bản dịch thứ nhì của Denise Naville in năm 1955, không có bản hiệu đính, chú giải hay diễn dịch nào khác. Không phân tích kẻ thù suy nghĩ gì nên không hiểu học thuyết chiến tranh của kẻ thù, là khiếm khuyết lớn nhất của quân đội Pháp. Khiếm khuyết càng nặng nề vì Moltke kế thừa Clausewitz, Schlieffen kế thừa Moltke và Manstein tiếp nối truyền thống. Chính các thống chế Đức kể trên tiêu hủy nền Đệ nhị rồi Đệ tam Cộng hòa Pháp.

Không phải đã không có những cố gắng cập nhật. Một vài trường hợp lẻ loi, như thiếu tá Henri Navarre thuộc Phòng Nhì, từ 1938 đến 1939 cho phiên dịch và đăng tải một số lý thuyết chiến xa của Guderian nhưng đã quá muộn, chiến tranh đã áp sát. Trước đó, trong một nỗ lực cá nhân về sau được xem là viễn kiến, trung tá de Gaulle yêu sách tái cơ cấu và cơ khí hóa tức khắc quân đội Pháp: thay vì phân tán các thiết đoàn thành những đơn vị độc lập làm nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho bộ binh, cần tập trung chiến xa thành lập những sư đoàn thiết giáp làm nên mũi nhọn kỵ binh. Tiếng nói của de Gaulle lạc lõng trên mặt báo ưu tiên cho những trang về quy chế hưu bổng, cấp dưỡng, và chìm dưới các huấn lệnh của Weygand, Gamelin là những đại tướng của chiến tranh quá khứ. Tiểu luận Hướng về Quân đội Nhà nghề [Vers l’Armée de Métier] của de Gaulle không gây tiếng vang, không tạo ra tranh luận, ít tác động, vì hầu hết các tác giả viết bài trên Journal Militaire Officiel là những sĩ quan cao tuổi, quyền chức, trung thành với đường lối suy nghĩ của các thống chế Pétain, Joffre, Foch. Khái niệm “Vận tốc tương đương với hỏa lực” của de Gaulle, xa lạ đối với họ.

Có thể viết: Tập san quân đội Pháp vào nửa đầu thế kỷ 19 mang sức mạnh chinh phạt của quân đội Pháp; đến nửa đầu thế kỷ 20 phản ảnh tính cách hoài niệm thụ động của quân đội này. Tuy vinh danh Nã Phá Luân, nhưng quân đội Pháp không kế thừa vị hoàng đế. Thiếu tá Henri Navarre, mà về sau trở thành Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Đông Dương, không biết đến những phê phán kịch liệt của Moltke đối với tính hữu dụng của những pháo đài cố định. Nếu đã biết, Navarre sẽ, hay không xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ? Navarre biểu trưng cho giai cấp tướng lãnh quên đi lời dặn của Nã Phá Luân: “Một trong hai đối thủ, kẻ nào ngồi lại trong giao thông hào, kẻ đó bị tiêu diệt.” Điện Biên Phủ, chính là cánh tay nối dài của chiến lũy Maginot đã bất lực trước các xa đoàn Panzer của Guderian. Điện Biên Phủ sẽ bất lực trước Việt Minh.

Hôm nay khi sùng bái các chiến thắng anh hùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các tạp chí Quốc phòng Toàn dân, Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân Việt Nam khá giống với tập san Quân đội Pháp vào thời kỳ suy vi: Say sưa với Nã Phá Luân mà quên đi học thuật, trống vắng dự phóng vào tương lai, cùng lúc tránh né uy hiếp hiện tại. Càng giống ở tính chính thống lặp lại tư duy độc nhất của thượng tầng lãnh đạo quân đội. Tiếng nói của các sĩ quan trẻ bị gạt sang bên, như de Gaulle từng bị buộc im tiếng.

 2. Tập san quân đội Đức



Nhìn vào một tập san quân đội, trông thấy sức mạnh của quân đội ấy.

Giám định này đúng với tập san quân đội Đức. Không ngẫu nhiên mà tập san Militär-Wochenblatt, xuất bản từ 1816 đến 1942, trải qua ba thời kỳ sinh động: Thời gian Moltke rồi Schlieffen làm Tổng Tham mưu trưởng và giai đoạn khi Hitler lên cầm quyền. Cả ba thời kỳ trên, đạt đến sức mạnh tối ưu, quân đội Đức làm nên những chiến thắng sấm sét: Sedan 1870, Tannenberg 1914, Sedan 1940, Kiev 1941, Sébastopol 1942 và Tobrouk cùng năm. Cũng vẫn trùng hợp như khi Journal Militaire Officiel đánh mất tính chất học thuật thì quân đội Pháp suy yếu, sau khi Militär-Wochenblatt phải đình bản vì bị kiểm duyệt, quân đội Đức đi từ thất bại này sang thất bại khác. Stalingrad, El Alamein, Koursk, Normandie là chuỗi thất trận mà những chiến thắng địa phương Monte Cassino, Kharkhov không thể cứu vãn. Cái chết của quân đội Wehrmacht, tuy vậy, vẫn không ngăn các sử gia đánh giá quân đội này như một đạo quân tiên phong trong nhiều lĩnh vực và giá trị học thuyết chiến tranh Đức tiếp tục được giảng dạy. Tập san quân đội Đức, trước và giữa hai Thế chiến, đóng góp không nhỏ cho sức mạnh trí tuệ của quân đội hoàng gia Deutsches Heer, rồi quân đội Cộng hòa Reichswehr, sau cùng là quân đội Wehrmacht.

Hơn nửa thế kỷ sau, lật bất kỳ những số Militär-Wochenblatt nào in trong khoảng từ 1930 đến 1939 qua bản dịch Pháp văn, người đọc cũng đều choáng ngợp vì tính chất học thuật cao cấp của tuần san này. Đôi khi người đọc bắt gặp những tên tuổi sẽ lừng danh: Erich von Manstein phác thảo chiến lược Phòng ngự Co giãn [Elastische Verteidigung]; Walter Model, một trung tá đang đảm nhiệm giảng dạy môn lịch sử quân sự ở Bộ Quốc phòng đề xuất lập những Chiến đoàn Liên Binh chủng [Kampfgruppen] bên trong hệ thống sư đoàn mà về sau được Hoa Kỳ cấu trúc thành những Brigade Combat Team và tướng Jean de Lattre áp dụng xây dựng những Binh đoàn Lưu động trên chiến trường Đông Dương. Sang phần hồi ký, một đại úy khiêm tốn, Erwin Rommel khởi đăng những chương trong tập Bộ binh Tấn công [Infanterie greift an]. Đến phần dich thuật, Guderian giới thiệu những lý thuyết cấp tiến Anh-Pháp của John Frederick Charles Fuller, Basil Liddell Hart và Charles de Gaulle. Vẫn chính Guderian sẽ tổng hợp các bài viết lý thuyết của mình làm nền cho binh chủng thiết giáp Đức dưới tựa Achtung Panzer! Không duy nhất dành riêng cho các sĩ quan Lục quân, Militär-Wochenblatt đăng tải nhiều nghiên cứu chiến tranh tiềm thủy đỉnh [U-bootswaffe und U-Bootkrieg] của đại tá hải quân Hugo von Waldeyer-Hartz và trung tá hải quân Karl Dönitz, bên cạnh các phân tích chiến thuật oanh kích đâm bổ của phóng pháo cơ Junkers 87 Stuka qua ngòi viết của trung tá Heinz Greiner và thiếu tá Braun. Nổi bật trên nhiều số báo là tranh luận giữa trung tướng pháo binh Ludwig Ritter von Eimannsberger và trung tá Heinz Guderian về học thuyết chiến xa. Với Guderian, nếu phải hành binh vì mục đích gì, toàn Xa đoàn Panzergruppe cùng hành quân tấn công mục tiêu ấy mà không nên phân tán từng đơn vị. Von Manstein thêm vào tranh luận này một tiên đề khác: Một quân đoàn thiết giáp Panzerkorps chỉ an toàn cạnh sườn một khi di chuyển liên tục khiến đối phương không bắt kịp vận tốc hành binh. Hai tiên đề trên gộp lại làm nên nguyên nhân thất trận của quân đội Pháp trên chiến trường Sedan tháng 5-1940. Von Manstein, Rommel, Model, Dönitz, Guderian là những gương mặt hoàn toàn vô danh khi ấy, và trừ von Manstein, hầu hết giữ những chức vụ thấp không quyền quyết định. Nhưng chính họ phô bày sức mạnh tri thức của quân đội Wehrmacht.

Đặc điểm của Militär-Wochenblatt là qua tiêu chí “Tuyển chọn các đề xuất quân sự khả thi do các sĩ quan trẻ đóng góp” đã tiếp nối một truyền thống có từ Moltke và Schlieffen. Một truyền thống xem tập san quân đội phải là diễn đàn của giai cấp sĩ quan trung cấp, nơi trao đổi những tư duy quân sự mới mẻ, chưa chính quy hóa, để từ đây Bộ Tổng Tham mưu quy nạp những phát kiến từ hạ tầng không thông qua hệ thống quân giai. Militär-Wochenblatt tuân thủ các yêu sách của Moltke: đặt việc nghiên cứu lịch sử chiến tranh trên mặt bằng sự thật làm tâm điểm phát triển tri thức quân sự của quân nhân, với điều kiện – phải xây dựng những chiến thuật thích ứng làm nền cho chiến lược mới; nếu không, việc nghiên cứu chỉ thỏa mãn duy nhất hành động thưởng ngoạn. Trong nhãn quan của Moltke, chính sức mạnh tri thức của một tập thể sĩ quan ưu tú tạo ra chiến pháp tinh vi và vũ khí tương ứng. Trước vũ khí tân kỳ uy hiếp của đối phương, cũng chính sức mạnh này tìm ra kế sách phòng ngự. Nếu một tri thức cần phô diễn và tranh luận, thì một tập san quân đội phải làm phương tiện truyền bá và kho trữ liệu đóng góp cho tri thức ấy. Tập san quân đội Đức không ra ngoài đề cương này.

Các tạp chí Quốc phòng Toàn dân, tạp chí Lịch sử Quân sự và báo Quân đội Nhân dân Việt Nam, ngược lại, không chú trọng chức năng trí tuệ này.

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét