Chiến tranh và ung thư
Việt Nguyên - 13 năm sau biến cố 9.11 ở Nữu Ước, Tổng Thống Barack Obama nay phải đương đầu với quân khủng bố ISIS khác với Tổng Thống George W. Bush năm 2001 phải đối đầu với quân Al Qaeda.Tổng Thống Obama nhất định tiêu diệt quân ISIS bằng giải pháp quân sự, ông đã gọi quân ISIS như “chứng bệnh ung thư cần phải diệt tân gốc” “ví khủng bố với ung thư có lẽ vì Tổng Thống Obama bị ám ảnh về chứng bệnh ung thư đã giết mẹ ông. Bốn mươi ba năm trước, năm 1971, một vị tổng thống khác của Hoa Kỳ đã nói ngược với Tổng Thống Obama, Tổng Thống Richard Nixon, xem ung thư như quân khủng bố cần phải tiêu diệt, tuyên bố, “Chiến tranh chống ung thư” lập viện ung thư quốc gia, nhất định diệt ung thư với tất cả khả năng Hoa Kỳ có trong tay. Hai trận chiến của hai tổng thống, một Dân Chủ, một Cộng Hòa, đều chưa đưa đến chiến thắng, nhưng cuộc chiến ung thư và cuộc chiến chống khủng bố quả có nhiều điểm tương đồng trên phương diện chiến thuật.
Ðời người, theo triết lý Ấn Giáo Hindu, có bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu từ khi sinh ra cho đến thời thanh niên, con người phải học tập, làm người học trò trong nhà phải biết vâng lời cha mẹ đến trường đi học phải nghe lời giảng của thầy cô, học đức tính vâng lời, học những nguyên tắc sống trong xã hội, học hỏi nhận trách nhiệm và nghe những lời chỉ trích của bạn bè, cha mẹ thầy cô và người lớn.
Giai đoạn hai khi trưởng thành bước vào giữa đời, lập gia đình, nhận trách nhiệm gia đình và xã hội. Giai đoạn thứ ba vào buổi chiều của cuộc hành trình của cuộc đời, khi con cái lớn nhận bớt trách nhiệm, con người bắt đầu phủi bớt những trách nhiệm trong xã hội, đi vào rừng sống một cuộc đời ẩn dật. Giai đoạn chót, con người hiền triết Sadhu sống hòa đồng với thiên nhiên, sống một cuộc đời tự do không ràng buộc, lang thang như Lão Tử triết gia Trung Hoa cùng thời với Phật Thích Ca.
Triết lý của Ấn Giáo là một triết lý đẹp nhưng khó áp dụng trong thế kỷ 21, một thế kỷ vật chất với đầy những ràng buộc. Tôi đã gặp nhiều người đi như triết gia nhưng ở một nơi không thơ mộng như cánh rừng triết lý.
Năm 2008, tôi làm việc ở trung tâm cấp cứu viện ung thư M.D. Anderson Houston, ban đêm săn sóc những bệnh nhân ung thư đăm chiêu đi với những cột treo dây truyền nước biển thay cho những cây gậy chống từng bước trong rừng già. Những nạn nhân ung thư khắc khổ như những nạn nhân chiến tranh.
Chiến tranh chống ung thư do Tổng Thống Richard Nixon khởi xướng từ năm 1971 đã đi một bước xa từ việc định bệnh, khám phá sớm cho đến trị liệu và đi tìm nguyên nhân ung thư. Chiến tranh chống ung thư của Tổng Thống Nixon dựa vào niềm tin của y giới thập niên 1960 cho rằng nguyên nhân chính gây ung thư là vi khuẩn ngoài những nguyên nhân khác như hoá chất gây ung thư nhưng sau đó các nhà nghiên cứu nhận ra lầm lỗi, vi khuẩn là nguyên nhân chính gây ra ung thư ở các loài động vật hơn là trên loài người.
Trị liệu ung thư tiến bước xa nhưng nguyên tắc cũng giống như hơn 40 năm trước khi chúng tôi học ung thư với Giáo Sư Ðào Ðức Hoành trưởng khoa ung thư trường đại học y khoa Sài Gòn, giải phẫu, xạ trị, hoá trị, các phương pháp thường được ông gọi đùa là cắt, đốt và đầu độc. Các phương pháp chữa trị đã tiến bộ rất xa nhưng vẫn còn biến chứng bất lợi cho bệnh nhân nhất là hóa trị. Các biến chứng ấy cũng giống như vũ khí chống chiến tranh khủng bố, diệt địch nhưng thường dân vô tội chết oan.
Các bệnh nhân ung thư đã căng thẳng vì bệnh còn bị lo âu về những phương cách điều trị hiện tại. Ðể giết tế bào ung thư bác sĩ giải phẫu cắt bướu và các tế bào lành bên cạnh cùng với hạch nếu có di căn. Hóa trị dùng các chất hóa học độc giết tế bào ung thư. Xạ trị tạo ra những phân tử độc phá vỡ chất đạm và DNA của tế bào ung thư. Cách chữa ít độc là phương pháp trị miễn nhiễm nhằm tăng tính miễn nhiễm trong cơ thể bệnh nhân, phương pháp chữa trị miễn nhiễm có hiệu quả đối với ung thư thận và ung thư da loại nốt ruồi ác tính (melanoma). Năm 1998, Bác Sĩ James Watson, giải Nobel Y Học, đã có cách giết tế bào ung thư bằng cách chặn đường máu tiếp tế đến bướu ung thư (antiangiogenesis) với chất Avastatin, một phương pháp công hiệu.
Năm 1989, các bác sĩ Harold Varmus và Michael Bishop đoạt giải Nobel Y Học nhờ công trình khám phá 13 năm trước đó cho thấy di thể thường lành mạnh có thể biển đổi thành di thể gây ung thư. Các di thể này làm tế bào sinh sôi nảy nở bất thường không kiểm soát được trở thành tế bào ung thư. Khác với năm 1971, hiện nay ung thư được xem là bệnh di truyền do sự biến đổi của di thể, trong vài trường hợp như ung thư vú thử nghiệm di thể sẽ cho thấy bệnh nhân nào có thể có rủi ro ung thư (high risk). Tiến bộ về kỹ thuật DNA và điện toán dẫn đến thành lập bản đồ di thể. Ðây là một chương trình của Tổng Thống Obama. Các khoa học gia tin tưởng sẽ biết được để giải mã sớm khi nào ung thư xảy ra và tìm cách ngăn chặn.
Chữa ung thư bằng tế bào mầm (stem cell) vẫn còn trong giai đoạn thực nghiệm mặc dù là vấn đề nóng. Ngày 5 tháng 8 năm 2014, khoa học gia Yoshiki Sasai đã treo cổ tự sát, sau khi viết thơ tự thú một tháng trước đó, xấu hổ vì những lỗi ngụy tạo trong các bài nghiên cứu về tế bào mầm: Cái chết của ông gây náo động trong giới khoa học nhất là ở Nhật và Ðại Hàn với những sản phẩm tế bào mầm đang đuợc quảng cáo rầm rộ trên thị trường. Năm 1994, Giáo Sư John Dick đại học Toronto đặt giả thuyết tế bào ung thư có thể xuất phát từ chính tế bào mầm của cơ thể sau đó các nhà nghiên cứu khác cho thấy sự hiện diện của tế bào mầm trong ung thư vú, ruột già, nốt ruồi ác tính (melanoma), ung thư phổi, tụy tạng và ung thư nhiếp hộ tuyến. Nghiên cứu đang ở giai đoạn thực nghiệm, nhưng đại dược phòng và các nhà đầu tư đã đổ tiền vào các chưong trình thương mại. Trong cơ thể có nhiều tế bào mầm chuyên loại, có loại tế bào mầm thần kinh ở óc, tế bào mầm ở ruột, tế bào mầm ở tim. Họ đang tìm kiếm nguyên nhân nào khiến các tế bào mầm phân hóa và phát triển thành các cơ quan. Verastem, Oncomed, Regeneron chạy đua với hàng tỷ Mỹ Kim hy vọng đem đến những thuốc nhắm vào tế bào mầm ít gây phản ứng phụ cho bệnh nhân.
Hóa trị (chemotherapy), phương pháp chữa trị ung thư gây nhiều khổ sở cho bệnh nhân đang bước vào khúc quanh mới với hai thuốc mới AG-221 và ATRA qua việc trị liệu ung thư máu. Ung thư máu là bệnh của tế bào máu được tạo ra từ trong tủy xương, các tế bào vì nhiều lý do như ảnh hưởng của bom nguyên tử không phát triển thành tế bào bình thường, các tế bào bất thường gia tăng nảy nở tràn lấn các tế bào máu bình thường.
Bệnh nhân chết vì nhiễm trùng và chảy máu. Có nhiều loại ung thư máu trong đó bệnh ung thư máu loại A.M.L (Acute Myelogenous Leukemia là loại nặng, mỗi năm có khoảng 50,000 bệnh nhân trên toàn thế giới, hầu hết là người lớn tuổi, đa số chết, chỉ có khoảng 25% số bệnh nhân sống đến 5 năm. Khoảng 15% bệnh nhân ung thư máu loại A.M.L. mang phân hóa tố bất thường IDH-2 sinh ra từ sự biến đổi của di thể. Thuốc AG-221 do hãng Agios chế tạo được thử trong giai đoạn đầu đã cho thấy sự hiệu quả đáng kể. Trong 10 bệnh nhân đầu, 3 bệnh nhân chết trước khi hiệu quả thuốc được đánh giá nhưng trong 7 bệnh nhân còn lại 5 bệnh nhân hoàn toàn bình phục, một bệnh nhân hồi phục bán phần còn một bệnh nhân không có kết quả khả quan ung thư vẫn tiến triển. Thử nghiệm thuốc được dùng ở bệnh nhân ung thư Memorial Sloan Kettering ở Manhattan, Nữu Ước.
Tháng 4 năm 2014, Bác Sĩ Eytan Stein đã trình bày phương pháp điều trị mới trong hội nghị thường niên Hội Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ ở San Diego. Cách trị liệu ung thư máu A.M.L đến giờ vẫn dựa trên hai thuốc cực độc Daunorubicin và Cytarabine với phản ứng phụ mạnh như suy tim (Daunorubicin) hay tác dụng trên hệ thống thần kinh (Cytarabine). Bệnh nhân thường phải nằm phòng săn sóc đặc biệt truyền máu, truyền trụ sinh và nằm máy thở khi tim phổi suy. Hai thứ thuốc thường được các bác sĩ gọi là “tử thần đỏ” vì có màu đỏ như máu. Hai thuốc vào cơ thể bệnh nhân giết tế bào ung thư máu nhưng đồng thời giết cả tế bào máu lành mạnh.
Tháng 6 năm 2014 ở Hội Nghị Huyết Học Âu Châu tại Milan, Bác Sĩ Stephanie de Botton của Viện Ung Thư Gustave Roussy gần Paris trình bày kết quả trị liệu bệnh A.M.L. với thuốc AG-221 với con số bệnh nhân nhiều hơn. Trong 35 bệnh nhân, mười bệnh nhân chết vì biến chứng bệnh, mười bốn bệnh nhân khá hơn với chín bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, năm bệnh nhân không thay đổi, sáu bệnh nhân với ung thư tiếp tục tiến triển, tất cả các bệnh nhân đều không bị các phản ứng phụ ói mửa buồn nôn.
Cũng giống như chiến tranh, thuốc trị ung thư từ xưa đến nay tạo nên oán thù. Phật dạy “lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng.” Thuốc AG-221 lấy ân báo oán, thay vì giết tế bào ung thư máu thuốc dẫn các tế bào ung thư về “đường ngay nẻo chính” để trở thành tế bào máu bình thường hữu dụng.
Triết lý của Ấn Giáo là một triết lý đẹp nhưng khó áp dụng trong thế kỷ 21, một thế kỷ vật chất với đầy những ràng buộc. Tôi đã gặp nhiều người đi như triết gia nhưng ở một nơi không thơ mộng như cánh rừng triết lý.
Năm 2008, tôi làm việc ở trung tâm cấp cứu viện ung thư M.D. Anderson Houston, ban đêm săn sóc những bệnh nhân ung thư đăm chiêu đi với những cột treo dây truyền nước biển thay cho những cây gậy chống từng bước trong rừng già. Những nạn nhân ung thư khắc khổ như những nạn nhân chiến tranh.
Chiến tranh chống ung thư do Tổng Thống Richard Nixon khởi xướng từ năm 1971 đã đi một bước xa từ việc định bệnh, khám phá sớm cho đến trị liệu và đi tìm nguyên nhân ung thư. Chiến tranh chống ung thư của Tổng Thống Nixon dựa vào niềm tin của y giới thập niên 1960 cho rằng nguyên nhân chính gây ung thư là vi khuẩn ngoài những nguyên nhân khác như hoá chất gây ung thư nhưng sau đó các nhà nghiên cứu nhận ra lầm lỗi, vi khuẩn là nguyên nhân chính gây ra ung thư ở các loài động vật hơn là trên loài người.
Trị liệu ung thư tiến bước xa nhưng nguyên tắc cũng giống như hơn 40 năm trước khi chúng tôi học ung thư với Giáo Sư Ðào Ðức Hoành trưởng khoa ung thư trường đại học y khoa Sài Gòn, giải phẫu, xạ trị, hoá trị, các phương pháp thường được ông gọi đùa là cắt, đốt và đầu độc. Các phương pháp chữa trị đã tiến bộ rất xa nhưng vẫn còn biến chứng bất lợi cho bệnh nhân nhất là hóa trị. Các biến chứng ấy cũng giống như vũ khí chống chiến tranh khủng bố, diệt địch nhưng thường dân vô tội chết oan.
Các bệnh nhân ung thư đã căng thẳng vì bệnh còn bị lo âu về những phương cách điều trị hiện tại. Ðể giết tế bào ung thư bác sĩ giải phẫu cắt bướu và các tế bào lành bên cạnh cùng với hạch nếu có di căn. Hóa trị dùng các chất hóa học độc giết tế bào ung thư. Xạ trị tạo ra những phân tử độc phá vỡ chất đạm và DNA của tế bào ung thư. Cách chữa ít độc là phương pháp trị miễn nhiễm nhằm tăng tính miễn nhiễm trong cơ thể bệnh nhân, phương pháp chữa trị miễn nhiễm có hiệu quả đối với ung thư thận và ung thư da loại nốt ruồi ác tính (melanoma). Năm 1998, Bác Sĩ James Watson, giải Nobel Y Học, đã có cách giết tế bào ung thư bằng cách chặn đường máu tiếp tế đến bướu ung thư (antiangiogenesis) với chất Avastatin, một phương pháp công hiệu.
Năm 1989, các bác sĩ Harold Varmus và Michael Bishop đoạt giải Nobel Y Học nhờ công trình khám phá 13 năm trước đó cho thấy di thể thường lành mạnh có thể biển đổi thành di thể gây ung thư. Các di thể này làm tế bào sinh sôi nảy nở bất thường không kiểm soát được trở thành tế bào ung thư. Khác với năm 1971, hiện nay ung thư được xem là bệnh di truyền do sự biến đổi của di thể, trong vài trường hợp như ung thư vú thử nghiệm di thể sẽ cho thấy bệnh nhân nào có thể có rủi ro ung thư (high risk). Tiến bộ về kỹ thuật DNA và điện toán dẫn đến thành lập bản đồ di thể. Ðây là một chương trình của Tổng Thống Obama. Các khoa học gia tin tưởng sẽ biết được để giải mã sớm khi nào ung thư xảy ra và tìm cách ngăn chặn.
Chữa ung thư bằng tế bào mầm (stem cell) vẫn còn trong giai đoạn thực nghiệm mặc dù là vấn đề nóng. Ngày 5 tháng 8 năm 2014, khoa học gia Yoshiki Sasai đã treo cổ tự sát, sau khi viết thơ tự thú một tháng trước đó, xấu hổ vì những lỗi ngụy tạo trong các bài nghiên cứu về tế bào mầm: Cái chết của ông gây náo động trong giới khoa học nhất là ở Nhật và Ðại Hàn với những sản phẩm tế bào mầm đang đuợc quảng cáo rầm rộ trên thị trường. Năm 1994, Giáo Sư John Dick đại học Toronto đặt giả thuyết tế bào ung thư có thể xuất phát từ chính tế bào mầm của cơ thể sau đó các nhà nghiên cứu khác cho thấy sự hiện diện của tế bào mầm trong ung thư vú, ruột già, nốt ruồi ác tính (melanoma), ung thư phổi, tụy tạng và ung thư nhiếp hộ tuyến. Nghiên cứu đang ở giai đoạn thực nghiệm, nhưng đại dược phòng và các nhà đầu tư đã đổ tiền vào các chưong trình thương mại. Trong cơ thể có nhiều tế bào mầm chuyên loại, có loại tế bào mầm thần kinh ở óc, tế bào mầm ở ruột, tế bào mầm ở tim. Họ đang tìm kiếm nguyên nhân nào khiến các tế bào mầm phân hóa và phát triển thành các cơ quan. Verastem, Oncomed, Regeneron chạy đua với hàng tỷ Mỹ Kim hy vọng đem đến những thuốc nhắm vào tế bào mầm ít gây phản ứng phụ cho bệnh nhân.
Hóa trị (chemotherapy), phương pháp chữa trị ung thư gây nhiều khổ sở cho bệnh nhân đang bước vào khúc quanh mới với hai thuốc mới AG-221 và ATRA qua việc trị liệu ung thư máu. Ung thư máu là bệnh của tế bào máu được tạo ra từ trong tủy xương, các tế bào vì nhiều lý do như ảnh hưởng của bom nguyên tử không phát triển thành tế bào bình thường, các tế bào bất thường gia tăng nảy nở tràn lấn các tế bào máu bình thường.
Bệnh nhân chết vì nhiễm trùng và chảy máu. Có nhiều loại ung thư máu trong đó bệnh ung thư máu loại A.M.L (Acute Myelogenous Leukemia là loại nặng, mỗi năm có khoảng 50,000 bệnh nhân trên toàn thế giới, hầu hết là người lớn tuổi, đa số chết, chỉ có khoảng 25% số bệnh nhân sống đến 5 năm. Khoảng 15% bệnh nhân ung thư máu loại A.M.L. mang phân hóa tố bất thường IDH-2 sinh ra từ sự biến đổi của di thể. Thuốc AG-221 do hãng Agios chế tạo được thử trong giai đoạn đầu đã cho thấy sự hiệu quả đáng kể. Trong 10 bệnh nhân đầu, 3 bệnh nhân chết trước khi hiệu quả thuốc được đánh giá nhưng trong 7 bệnh nhân còn lại 5 bệnh nhân hoàn toàn bình phục, một bệnh nhân hồi phục bán phần còn một bệnh nhân không có kết quả khả quan ung thư vẫn tiến triển. Thử nghiệm thuốc được dùng ở bệnh nhân ung thư Memorial Sloan Kettering ở Manhattan, Nữu Ước.
Tháng 4 năm 2014, Bác Sĩ Eytan Stein đã trình bày phương pháp điều trị mới trong hội nghị thường niên Hội Nghiên Cứu Ung Thư Hoa Kỳ ở San Diego. Cách trị liệu ung thư máu A.M.L đến giờ vẫn dựa trên hai thuốc cực độc Daunorubicin và Cytarabine với phản ứng phụ mạnh như suy tim (Daunorubicin) hay tác dụng trên hệ thống thần kinh (Cytarabine). Bệnh nhân thường phải nằm phòng săn sóc đặc biệt truyền máu, truyền trụ sinh và nằm máy thở khi tim phổi suy. Hai thứ thuốc thường được các bác sĩ gọi là “tử thần đỏ” vì có màu đỏ như máu. Hai thuốc vào cơ thể bệnh nhân giết tế bào ung thư máu nhưng đồng thời giết cả tế bào máu lành mạnh.
Tháng 6 năm 2014 ở Hội Nghị Huyết Học Âu Châu tại Milan, Bác Sĩ Stephanie de Botton của Viện Ung Thư Gustave Roussy gần Paris trình bày kết quả trị liệu bệnh A.M.L. với thuốc AG-221 với con số bệnh nhân nhiều hơn. Trong 35 bệnh nhân, mười bệnh nhân chết vì biến chứng bệnh, mười bốn bệnh nhân khá hơn với chín bệnh nhân hồi phục hoàn toàn, năm bệnh nhân không thay đổi, sáu bệnh nhân với ung thư tiếp tục tiến triển, tất cả các bệnh nhân đều không bị các phản ứng phụ ói mửa buồn nôn.
Cũng giống như chiến tranh, thuốc trị ung thư từ xưa đến nay tạo nên oán thù. Phật dạy “lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng.” Thuốc AG-221 lấy ân báo oán, thay vì giết tế bào ung thư máu thuốc dẫn các tế bào ung thư về “đường ngay nẻo chính” để trở thành tế bào máu bình thường hữu dụng.
Kết quả nghiên cứu trên bệnh A.M.L cho thấy tế bào ung thư máu như đứa trẻ du đãng sống ngoài luật lệ xã hội vẫn có thể được giáo dục trở về sống trong xã hội thành người hữu dụng. Các tế bào ung thư vẫn mang những tín hiệu căn bản được thuốc đẩy về con đường tăng trưởng bình thường.
Hãng thuốc Agios hy vọng thuốc AG-221 sẽ thành thuốc chính trong việc trị liệu các ung thư gây ra vì sự thay đổi phân hoá tố IDH-2. Hồi Tháng Ba, 2014 công ty ra thuốc mới AG-120 nhắm vào phân hóa tố IDH-1 trong 10% bệnh nhân A.M.L những phân hoá tố này tìm thấy trong 70% bệnh nhân ung thư óc Glioma và 50 % bệnh ung thư sụn xương. Các nhà nghiên cứu hãng thuốc Agios còn tìm thấy tế bào chứa phân hóa tố IDH-2 vẫn mang phân hóa tố bình thường nên khi thuốc AG-221 đánh vào tế bào các phân hóa tố IDH-2 bị trung hòa giúp các phân hóa tố bình thường hoạt động trở lại, tế bào ung thư trở về thành tế bào bình thuờng.
Thuốc AG-221 tác dụng trên phân hóa tố còn một loại thuốc mới ATRA (all-trans-retinoid acid) đánh trên chất protein gây hư hại cho di thể. Thuốc ATRA có cùng một nguyên tắc với AG-221, tế bào ung thư có thể trở thành tế bào bình thường nếu các yếu tố gây hư hại được sửa đổi.
Phát minh thuốc ATRA đi từ nghiên cứu của hai bác sĩ ở bệnh viện Ruijin, Thượng Hải. Bác sĩ Zhen-Yi Wang và Zhu Chen có được ý tưởng qua triết lý của Khổng Tử trong Luận Ngữ: “Nếu dùng luật để trị dân, dân tìm kẽ hở để phạm luật và họ không biết xấu hổ, còn nhà cầm quyền dùng đức và lễ để trị dân thì dân sẽ biết xấu hổ khi phạm luật và họ sẽ biết phải trái.” Bác Sĩ Wang viết, “Nếu tế bào ung thư được xem là phần tử xấu của xã hội với những cách hành xử xấu trong thân thể thì giáo dục hơn là giết các phần tử ấy có thể là giải pháp tốt hơn.” Giải pháp giáo dục của Khổng Tử được Bác Sĩ Wang đưa vào y khoa và trước đó ông cũng đọc được nghiên cứu của Bác Sĩ Leo Sachs ở Do Thái, viện khoa học Weizman, cho thấy vài tế bào ung thư máu vẫn giữ được khả năng trưởng thành. Các bác sĩ Wang và Chen dùng chất ATRA từ sinh tố A, sinh tố dùng trị mụn và bệnh ngoài da. Khi các tế bào ung thư được tiếp tế chất ATRA các tế bào hiền hơn, mất tính ác. Năm 1988 Viện Huyết Học Thượng Hải công bố nghiên cứu ATRA trong 24 bệnh nhân được chữa có 23 bệnh nhân hồi phục hoàn toàn.
Cách chữa mới với hai thuốc AG-221 và ATRA đang thay đổi lối suy nghĩ của các bác sĩ điều trị ung thư, tế bào ung thư có thể thay đổi và sau khi thay đổi, tế bào có thể thành bình thường hay trở về trạng thái ác tính như cũ sau vài tháng hay vài năm. Tế bào tạo ra cơ thể con người và tế bào cũng có những hành động như con người.
Triết gia Plato (thế kỷ thứ 5 trước công nguyên) qua “chuyện ngụ ngôn cái động” trong sách Cộng Hòa (republic) đã nói vế bản tính của con người: Một nhóm người bị xiềng ở trong động, không đi đâu cả từ khi sinh ra, họ chỉ có thể ngồi yên nhìn vào bức tường của động trước mặt. Họ không biết gì về thế giới bên ngoài hay chung quanh họ. Thế giới của họ là những chiếc bóng chiếu trên bức tường đá của động, họ không nhận thức được cả đống lửa cháy đằng sau lưng và con đường nhỏ cùng bức tường ngăn cách họ và đốm lửa. Họ nhìn thấy bóng và cho rằng bóng là thật. Thế giới của họ là thế giới ảo. Khi những người trong động được tháo xiềng, được di chuyển về ngọn lửa họ cảm thấy mắt đau nhói và mù vì ánh lửa, họ trở về chỗ cũ và rồi giữ vững niềm tin rằng bóng có thật, Plato gọi “ánh lửa là ánh sáng đạo đức.” Những người trong động van nài trở về với bóng tối trong động sau khi nhìn thấy sự thật có khác nào như những tế bào ung thư hay các ông trong chế độ Cộng Sản cũ như Tổng Thống Nga Vladimir Putin?
TB: Tôi đã nghĩ về nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, một nạn nhân ung thư đang nằm hấp hối khi viết bài này. Ngày hôm sau tôi nhận được tin anh đã ra đi, theo một người bạn thân của chúng tôi, nhà báo Trọng Kim 5 năm trước. Ðường xa không đến tiễn đưa anh lần cuối, ngày anh còn sống anh em chung một tâm cảm, nay anh mất xin gửi đến anh hai câu thơ tiễn biệt của Việt Nguyên trong những bài thơ cất trong tâm tưởng:
Ðời người như gió như sương
Như hoa sóm nở, như hương năm nào.
Vĩnh biệt anh Hoàng!
http://www.diendantheky.net/2014/09/viet-nguyen-chien-tranh-va-ung-thu.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét