THÔNG TIN VÀ SỐ LIỆU ĐỂ XÂY DỰNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG
I - MỞ ĐẦU:
Trong các bài từ 1 đến 4, chúng ta đã nghiên
cứu những vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm cụ thể về xây dựng các mô hình kinh
tế lượng vĩ mô. Trong bài này chúng ta sẽ nghiên cứu một số vấn đề liên quan
đến tình hình số liệu ở Việt nam và kinh nghiệm thu thập, sử lý thông tin, số
liệu phục vụ công tác xây dựng mô hình. Nội dung bài này gồm các phần sau:
- Nguồn thông tin ở nước ta để xây dựng các
mô hình kinh tế lượng;
- Đánh giá và sử lý thông tin để đưa vào xây
dựng các mô hình kinh tế lượng;
- Một số kinh
nghiệm về sử dụng phần mềm Eviews trong xây dựng các mô hình kinh tế
lượng;
II - NGUỒN THÔNG TIN
ĐỂ XÂY DỰNG CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG
1)
Tại sao làm mô hình
tài chính, nhưng phải thu thập thông tin về toàn bộ nền kinh tế quốc dân ?
- Cũng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính là một cơ quan quản lý kinh tế tổng hợp giúp Đảng và Nhà nước hoạch định
các chính sách kinh tế quan trọng nhất của đất nước. Hoạt động của Bộ Tài chính
có ảnh hưởng tới mọi mặt kinh tế xã hội thông qua ban hành các chính sách và
triển khai các hoạt động thu chi ngân sách. Bộ Tài chính có tham gia cùng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư là hai cơ quan duy nhất thực hiện các dự báo kinh tế vĩ mô cơ
bản. Do vậy, những người làm chính sách tổng hợp tại Bộ Tài chính phải có cái
nhìn toàn diện về nền kinh tế đất nước và việc thu thập, sử lý thông tin kinh
tế vĩ mô là hoàn toàn cần thiết. Đối với những người làm tác nghiệp hàng ngày
thì có thể không cần.
- Kinh nghiệm trong nước và quốc tế đều cho
thấy các chính sách kinh tế vĩ mô của toàn nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới
các chỉ tiêu ngân sách, đồng thời các chỉ tiêu ngân sách cũng ảnh hưởng rất lớn
tới phát triển toàn cục của nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt, nhiều chính sách
ngân sách không chỉ phát huy ảnh hưởng trong nội bộ khu vực ngân sách mà còn
tác động mạnh tới những khu vực khác của nền kinh tế quốc dân. Như vậy, trong
bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, việc tách rời khu vực tài chính để nghiên
cứu riêng cũng như không tính đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô là hoàn toàn sai
lầm.
Trước đây, trong thời kỳ kế hoạch hoá tập
trung, khu vực kinh tế Nhà nước chiếm tỷ trọng cao tuyệt đối; quan hệ tài
chính, ngân sách chủ yếu là giữa các tác nhân nhà nước với nhau (doanh nghiệp,
nhà nước hoặc hợp tác xã). Hơn nữa, trong thời kỳ này công tác quản lý các hoạt
động ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc hành chính, mệnh lệnh. Chính vì
vậy, có thể xem xét tài chính tương đối độc lập với các khu vực khác. Điều này
càng dễ dàng hơn vì thu nước ngoài chiếm tới một nửa tổng thu ngân sách và
không chịu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế trong nước. Tuy nhiên, khi chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường với 98% tổng thu ngân sách là từ nội bộ nền kinh
tế thì hoạt động của khu vực tài chính không thể tách rời các hoạt động chung
của toàn nền kinh tế.
- Trên thế giới, có rất nhiều mô
hình chuyên phân tích chuyên sâu về hoạt động ngân sách và tài chính với hàng
nghìn phương trình. Về thực chất, đó là các mô hình kinh tế vĩ mô tổng thể,
riêng khối tài chính được làm chi tiết hơn, đồng thời khi tiến hành các mô
phỏng, phân tích kinh tế và dự báo, người ta chỉ xây dựng các kịch bản đầu vào
liên quan tới tài chính, còn các đầu vào liên quan đến các lĩnh vực khác thì
coi như phát triển theo xu thế. Cách làm này vẫn giữ được tính tổng thể, tính
hệ thống của mô hình và mô tả đúng các hoạt động thực của nền kinh tế, nhưng
lại cho phép phân tích tập trung vào một chủ đề cụ thể.
- Trong các mô hình kinh tế vĩ mô -
tài chính rút gọn, thông thường đều có 2 khối. Khối vĩ mô gộp gồm những cân
bằng kinh tế vĩ mô chủ yếu (cân bằng của hệ thống tài khoản quốc gia, cân bằng
tiền tệ và giá cả, cân bằng xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế, và
một vài cân bằng khác tuỳ mục tiêu của người làm mô hình). Khối tài chính gồm
những phương trình chi tiết cho khối tài chính. Số phương trình trong khối vĩ
mô dao động giữa 20-50 phương trình trong khi số phương trình của khối tài
chính có thể ít hơn, khoảng 15-30 phương trình nếu chỉ xem xét hoạt động thu
chi ngân sách. Nhưng nếu hiểu tài chính theo nghĩa phổ biến hiện nay gồm tất cả
các hoạt động thu chi ngân sách, phát hành trái phiếu, tín phiếu chính phủ,
doanh nghiệp và ngân hàng, hoạt động của kho bạc, hoạt động của hệ thống ngân
hàng, tín dụng, chứng khoán, bảo hiểm, xổ số, trợ cấp và các phúc lợi xã hội,
thì số phương trình có thể lên tới vài trăm.
- Thực tế ở nước ta cho thấy, trong tất cả các mô hình kinh tế vĩ mô ứng
dụng, bao giờ cũng có khối tài chính chính phủ, dù có thể với quy mô rất thấp
như chỉ xác định tổng thu, tổng chi và mức thâm hụt ngân sách (3-5 phương
trình). Một số mô hình có phân tích chi tiết hơn về ngân sách thì số phương
trình cũng chỉ lên đến 12-15. Về bản chất, đây vẫn là những mô hình kinh tế
lượng vĩ mô mở rộng cho phần tài chính vì các biến giải thích cho khối tài
chính chủ yếu vẫn là các biến kinh tế vĩ mô (giá trị sản xuất hay giá trị gia
tăng của các ngành được sử dụng trong các phương trình xác định thu ngân sách;
tổng thu ngân sách, quỹ tích luỹ, vốn đầu tư, số lượng cán bộ nhân viên khu vực
hành chính... được sử dụng trong các phương trình xác định chi ngân sách; ngoài
ra có một số biến đặc thù như xuất khẩu, giá quốc tế, giá trong nước và tỷ giá
trong phương trình xác định chi bù lỗ, trợ cấp cho hoạt động xuất khẩu, giá cả
trong phương trình chi bù giá cho tiêu dùng...). Về cơ bản, các mô hình này
tương tự như các mô hình vĩ mô rút gọn của các nước phương tây.
Tuy nhiên, ngoài khối tài chính, trong các mô
hình của ta thường đều có khối tiền tệ xác định nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế
trong quá trình phát triển, thậm chí có cả nhu cầu tiền tệ dùng để bù lỗ thâm hụt
ngân sách trong các mô hình xây dựng trước năm 1992.
-
Trong những phân tích trên, chúng tôi nhấn mạnh đối với những người làm phân
tích tổng hợp, cần có những thông tin chung về toàn nền kinh tế quốc dân. Tuy
nhiên, trong những trường hợp phân tích khá cụ thể, có thể chỉ cần thu thập
những thông tin rời rạc, không tạo thành những cân đối vĩ mô. Ví dụ, để phân
tích những nhân tố ảnh hưởng tới tổng thu ngân sách, có thể chỉ dùng một phương
trình gộp hoặc một số phương trình gộp, trong đó mỗi thành phần của tổng thu
ngân sách được giải thích bằng những nguyên nhân đặc thù riêng. Xem lại ví dụ
trong bài phân tích lạm phát để hiểu rõ hơn cách làm đối với tài chính.
2) Nhu cầu thu thập
thông tin về hoạt động của nền kinh tế và khu vực tài chính.
Nhu cầu về nguồn thông tin để xây dựng các mô
hình kinh tế lượng vĩ mô và mô hình tài chính là rất lớn. Các thông tin được
chia làm hai loại:
+ Thông tin định tính
+ Thông tin định lượng
Chúng ta thường chỉ chú ý đến thông tin định
lượng mà quên các thông tin định tính. Thực ra các thông tin định tính rất quan
trọng trong xây dựng các mô hình. Chúng ta đều biết là các mô hình được xây
dựng trên các lý thuyết kinh tế; trong khi phân tích các quan hệ dây truyền
giải thích tiến triển của một nền kinh tế thực nào đó theo một lý thuyết kinh
tế đã chọn, lại chủ yếu là phân tích định tính, sau đó mới chuyển sang kiểm
định bằng số liệu, nhiều khi không cần nhiều số liệu vẫn thấy kết luận từ phân
tích định tính là đúng. Mặt khác, trước khi xây dựng mô hình, đều phải thu thập
những thông tin về cơ cấu vận hành của nền kinh tế hoặc khu vực tài chính để
hiểu nó là cái gì, từ đó chọn cách mô hình hoá thế nào cho phù hợp nhất. Ngoài
ra, để thực hiện các dự báo, phải có thông tin định tính về nhiều khả năng phát
triển của các biến ngoại sinh để từ đó xây dựng được các kịch bản tốt nhất cho
các biến ngoại sinh trước khi đưa vào mô hình.
Nguồn thông tin định tính được thu thập thông
qua quá trình công tác và thu thập trên sách báo. Ví dụ thu thập thông tin về
hệ thống thuế VAT: Nó là gì, được thực hiện như thế nào, có ảnh hưởng tới các
khu vực của nền nền kinh tế như thế nào. Nếu VAT không ảnh hưởng tới nông
nghiệp thì dĩ nhiên trong khi mô hình hoá, không cần thêm quan hệ này...
Với mục tiêu xây dựng các mô hình thu chi
ngân sách, có thể thực hiện theo hai cách:
+ Cách 1: xây dựng một mô hình cân đối vĩ mô
gộp, bao gồm 4 cân đối lớn như đã nêu trong bài 2: cân đối tài khoản quốc gia,
cân đối tài chính gộp, cân đối tiền tệ và cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
Sau đó mở rộng khối tài chính để đưa vào đó các chính sách cần mô phỏng, phân
tích. Theo cách này, nhu cầu thông tin tương đối lớn, nhiều thông tin sẽ rất
khó được thu thập, ví dụ thông tin về tiền tệ và cán cân thanh toán quốc tế.
+ Cách 2: xây dựng mô hình đơn giản hơn, phần
lớn các biến nội sinh chỉ được gói gọn trong khối tài chính, giống như mô hình
phân tích lạm phát trong bài 3. Khi đó tất cả các biến kinh tế vĩ mô, từ GDP
đến tiền tệ, giá cả, xuất nhập khẩu, doanh số buôn bán trên thị trường... đều
được coi là ngoại sinh. Như vậy, nhu cầu thông tin vĩ mô cho mô hình tài chính
sẽ được rút gọn, chủ yếu dựa trên các cuốn Niên giám thống kê và thông tin
riêng của ngành tài chính.
Nhược điểm lớn nhất của cách này là mô hình
không đảm bảo tính hệ thống vì những mối liên hệ ngược trong nền kinh tế không
được tính đến trong mô hình. Ví dụ trong mô hình, chúng ta thấy chi ngân sách
thường xuyên chịu ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô, nhưng không thấy chi
ngân sách thường xuyên ảnh hưởng ngược tới các biến kinh tế vĩ mô; trong khi mọi
người đều biết chính sách kích cầu tiêu dùng có ảnh trực tiếp tới tổng cầu và
qua đó ảnh hưởng tới tăng trưởng GDP và giá cả. Chính vì nhược điểm này, các mô
hình đơn giảm chủ yếu được sử dụng trong phân tích nhân tử chứ ít được dùng
trong dự báo. Tuy nhiên, đối với một số nền kinh tế, nếu kiểm tra các quan hệ
cho thấy những ảnh hưởng của ngân sách tới nền kinh tế không lớn thì có thể
dùng mô hình loại này trong dự báo ngắn hạn.
3) Thông tin định
lượng nằm ở đâu ?
Về thông tin định lượng, hiện nay rất phong
phú trong nền kinh tế nước ta dù chất lượng... còn khá nhiều vấn đề mà sau này
chúng ta sẽ phân tích. Nguồn thông tin được thu thập theo các khối như sau:
a)
Dân số, lao động và việc làm:
- Tổng cục Thống kê
- Bộ Lao động, thương binh và xã hội
-
Bộ Kế hoạch và đầu tư
Trong niên giám thống kê có một số
loại số liệu về dân số và lao động, nhưng rất ít và nhiều khi không hệ thống.
Riêng số liệu về dân số, đến nay TCTK chưa xác định được chuỗi số từ năm 1989
đến nay như thế nào vì kết quả điều tra dân số năm 1999 cho thấy dân số nước ta
giảm hơn 1,5 triệu người so với số liệu công bố hàng năm được tính toán dựa
trên phương pháp chuyển tuổi và tỷ suất sinh đẻ hàng năm của TCTK. Hậu quả là
chẳng có tài liệu công khai nào công bố
được chuỗi số liệu dân số tin cậy từ năm 1989 đến nay. Để phục vụ cho hội nghị
các nhà tài trợ tháng 12/2000, Ngân hàng thế giới đã phải dùng phương pháp tính
tỷ lệ tăng trưởng trung bình cho giai đoạn 1990 đến 2000 là 1,65%/năm, trong đó
năm 1989 tỷ lệ này đã là 1,64% ... Do số liệu dân số như vậy nên các số liệu về
nguồn lao động cũng không chính xác.
Các số liệu chi tiết hơn về lao động
có thể tìm thấy trong nhiều tài liệu điều tra do Tổng cục Thống kê và Bộ Lao
động, thương binh và xã hội xuất bản. Tuy nhiên, để có được một bộ số liệu hoàn
chỉnh từ năm 1989 đến nay liên quan đến dân số và lao động gồm dân số, tổng
cung lao động, tổng cầu lao động, lao động đang hoạt động trong nền kinh tế và
trong từng khu vực, tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ thời gian không có
việc làm ở nông thôn, cũng đòi hỏi rất nhiều thời gian thu thập, đối chiếu phân
tích và lựa chọn. Các thông tin dân số, lao động chỉ theo năm, thường lấy mốc
là 1/7 hàng năm.
Bộ KH-ĐT cũng có nhiều thông tin về
dân số, lao động và việc làm do TCTK và Bộ LĐTBXH cung cấp. Các chuỗi số của Bộ
KH-ĐT thường có hệ thống hơn, kéo dài ít nhất cũng từ năm 1990 đến nay. Đặc
biệt, các số liệu dự báo và kế hoạch được tập trung khá phong phú tại Bộ KH-ĐT.
b)
Sản xuất và đầu tư:
Thông tin về tình hình sản xuất chủ
yếu được lấy từ Tổng cục Thống kê vì đây là cơ quan duy nhất làm các tính toán
tổng hợp. Tuy nhiên, để có được các thông tin dự báo sản xuất thì phải đến Bộ
KH-ĐT. Tình hình cũng tương tự đối với các thông tin về đầu tư. Riêng về đầu
tư, có nhiều cách phân loại: theo ngành (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, và
chi tiết hơn cho mỗi ngành trên); theo thành phần kinh tế (ngân sách Nhà nước,
tín dụng Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài). Mỗi loại lại được tính theo hai loại giá: giá cố định và giá hiện hành.
Nói chung, thông tin sản xuất và đầu tư tương
đối phong phú, nhưng nhược điểm lớn nhất là chất lượng. Thông tin về đầu tư của
chính phủ đáng tin cậy trong khi thông tin về đầu tư của khu vực DNNN, của khu
vực tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất đáng nghi ngờ. Do đó cần
thận trọng khi sử dụng trong mô hình. Đặc biệt, thông tin về tài sản cố định
đến nay không có. Thông tin chi tiết về vốn ODA và FDI chỉ có tại Bộ KH và ĐT,
nhưng đi vào cụ thể lại phải đến nhiều Vụ khác nhau trong Bộ.
c)
Tài chính:
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta có chủ
trương công khai hoá hoạt động ngân sách, nhưng đến nay những thông tin công
khai về lĩnh vực này còn ít và chất lượng rất đáng nghi ngờ, không hiểu có phải
là thông tin thật không, hay đã bị xử lý trước khi công bố. Trong một số sách
xuất bản của TCTK, đã thấy xuất hiện các chuỗi số về tổng thu chi ngân sách và
một số thành phần cơ bản của nó. Tuy nhiên mức độ chi tiết còn quá ít làm người
lập mô hình thất vọng, nhất là chi ngân sách. Khoản chi ngân sách khác thông
thường phải rất bé thì của ta lại rất cao vì trong đó chứa cả chi cho quốc
phòng an ninh vẫn được coi là tối mật. Thông tin chi tiết nhất được công khai
hạn chế là chi ngân sách hàng năm của các bộ, ngành, địa phương.
Để thoả mãn người làm mô hình, thông
thường phải sử dụng thêm các chuỗi số liệu của Quỹ Tiền tệ thế giới nêu trong
báo cáo hàng năm của tổ chức này. Trong sách hàng năm về ngân sách của Quỹ tiền
tệ quốc tế (Government Finance Statistics Yearbook) từ năm 1999, cũng đã xuất hiện
số liệu về Việt nam, nhưng rất nhiều dòng còn để trống. Theo sách này năm 1999,
in năm 2000, thì tổng chi ngân sách năm 1999 của ta là 73573 tỷ đồng, trong đó
chi khác lên tới 41913 tỷ đồng. Dĩ nhiên như vậy độ tin cậy sẽ thấp. Ngoài ra,
ngân hàng thế giới, ngân hàng phát triển châu á và liên hợp quốc cũng công bố
những số liệu tài chính Việt nam, nhưng mức độ không chi tiết bằng của IMF và
độ tin cậy kém vì chênh lệch quá lớn so với số liệu của TCTK.
Khác nhau quan trọng giữa số liệu
của Việt nam và IMF là tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Số liệu tỷ lệ thâm hụt ngân
sách do Việt nam công bố thường rất cao trong khi số do IMF công bố lại rất
thấp. Nguyên nhân là cách tính khác nhau. Theo cách tính của Việt nam, phần chi
ngân sách đã bao gồm cả trả nợ gốc có giá trị tương đối lớn, trong khi trong
cách tính của IMF, chi ngân sách không tính phần trả nợ gốc. Trả nợ gốc theo
IMF được tính bù trừ trong phần cân đối với bên ngoài để bù đắp thâm hụt ngân
sách.
Số thu ngân sách của Việt nam thường
bị coi là thấp dưới sự thật vì ngoài những khoản thu thực, người dân còn phải
đóng thêm đủ loại tiền phục vụ dịch vụ chung mà lẽ ra nhà nước phải làm: lao
động công ích, đóng tiền nghĩa vụ lao động, tiền an ninh, tiền vệ sinh đường
phố, tiền xây nhà trẻ, bệnh xá, trường học, đường giao thông nông thôn, đường
dẫn điện hạ thế về làng, đóng góp khắc phục hậu quả lũ lụt bắt buộc, mua công
trái bắt buộc (khoán do Bộ Tài chính yêu cầu)...
Đến nay, để lấy các số liệu tài
chính, chỉ có 2 nơi: Bộ Tài chính và TCTK. Bộ KH-ĐT cũng có nhưng không chi
tiết và chính xác vì thường chỉ là thông tin nhanh. Thông tin dự báo thu chi
ngân sách của Bộ KH-ĐT thường cao hơn của Bộ Tài chính, nhưng theo nhiều ý kiến
thì dự báo của Bộ KH-ĐT thường chính xác hơn. Điều này cũng dễ hiểu vì mục tiêu
của hai bộ khác nhau.
d)
Ngân hàng
Có thể nói đây là một trong những
khu vực có thông tin, số liệu có vấn đề nhất ở nước ta. Nguồn thông tin chính
thức là từ Ngân hàng Nhà nước Việt nam, nhưng chắc chắn đến xin thì họ không
cho. Trong các Niên giám thống kê không có thông tin tiền tệ, ngân hàng. Nguồn
duy nhất mà tất cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài chính phủ sử dụng đến nay
vẫn là từ Quỹ Tiền tệ quốc tế.
Trên một số báo, sách, cũng có thông
tin về tăng trưởng tiền tệ, tín dụng nước ta, nhưng phần lớn đều là thông tin
nhanh nên không chính xác, các số liệu đều không chính thức. Đặc biệt, các
thông tin cực kỳ tản mạn và đều là số tương đối nên rất khó dùng trong mô hình.
Ưu điểm lớn nhất của nguồn số liệu
của IMF là rất chi tiết và mang tính hệ thống. Số liệu năm kéo dài từ năm 1985
đến nay, số liệu quý từ năm 1988. Ngoài ra còn có số liệu hàng tháng. Tuy
nhiên, dư luận phổ biến hiện này là các số liệu của IMF khác hẳn so với số liệu
thật của Ngân hàng Nhà nước.
e)
Tiền lương, thu nhập và thị trường nội địa
Đây cũng là loại chỉ tiêu có độ tin
cậy kém ở nước ta. Tổng quỹ lương cho khu vực hành chính sự nghiệp được lấy ở
Bộ tài chính, nhưng nhiều khi rất khó kiếm. Trong bảng chi ngân sách thường không có chỉ tiêu này. Một số chỉ
tiêu khác về lương trong các ngành kinh tế, khu vực kinh tế cũng có trong niên
giám thống kê hoặc trong các tài liệu điều tra của TCTK và Bộ LĐ, TB và XH. Tuy
nhiên, rất khó xử lý các số liệu này vì nó vẫn không mang tính tổng thể mà chỉ
đại diện cho một số khu vực, hơn nữa khi có khi không... Đặc biệt, nói là tổng
quỹ lương, nhưng lại gồm cả chi cho hưu trí và nhiều đối tượng không phải cán
bộ công chức. Mặt khác, lương chỉ phản ảnh một phần thu nhập của cán bộ công
chức. Do đó nếu dùng tiền lương làm biến giải thích thì không chính xác.
Thu nhập của các tầng lớp dân cư
cũng là chỉ tiêu khó kiếm, có một số điều tra của TCTK tại một số điểm và được
công bố trong Niên giám thống kê hoặc một số tài liệu điều tra; tuy nhiên,
giống như tiền lương, số liệu rất tản mạn, không mang tính hệ thống nên không
đảm bảo tính đại diện. Các hình thức thu nhập như lãi của các chủ doanh nghiệp,
địa tô, cho thuê bất động sản, lãi ngân hàng... đều không có. Nói chung, sẽ mất
rất nhiều công sức khi thu thập, sử lý thông tin liên quan đến tiền lương và
thu nhập.
Chỉ tiêu phản ảnh thị trường nội địa
đến nay vẫn là tổng doanh số bán lẻ trên các thị trường: Nhà nước, tập thể, tư
nhân, hỗn hợp và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các chỉ tiêu thị trường
thường tham gia xác định tiêu dùng chính phủ, tiêu dùng của dân cư mua trên thị
trường và tự tiêu dùng của dân cư.
f)
Giá cả:
Trong điều kiện kinh tế mở, giá cả
gồm cả hai loại: giá trong nước và giá quốc tế. Giá trong nước được lấy từ
nguồn TCTK, công bố rộng rãi trên sách báo. Tỷ giá ít thấy xuất hiện, nhưng cũng
có trong một vài cuốn sách thống kê chính thức. Giá quốc tế gồm giá nhập, giá
xuất cũng có trong niên giám thống kê. Tuy nhiên, giá quốc tế chỉ có giá năm.
Muốn lấy giá qúy, có thể lấy tại TCTK.
g)
Xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế:
Số liệu xuất nhập khẩu tương đối
phong phú và chi tiết trong niên giám thống kê, đủ cho chúng ta sử dụng. Tuy
nhiên, phân loại chưa được chi tiết và chưa theo các chuẩn mực quốc tế (chưa
phân thành 10 nhóm ISIC); vì vậy, khó khăn khi so sánh quốc tế và nối với các
mô hình quốc tế.
Điểm khó khăn nhất trong toàn bộ hệ
thống số liệu của chúng ta hiện nay là thông tin về cán cân thanh toán quốc tế.
Cũng giống như thông tin tiền tệ, thông tin về cán cân thanh toán quốc tế không
được công bố chính thức nên để nghiên cứu phải lấy từ tài liệu của các tổ chức
quốc tế. Tuy nhiên, nếu như thông tin tiền tệ được tập hợp khá đầy đủ trong các
tài liệu của IMF và tản mạn tại Ngân hàng phát triển châu á, thì thông tin về
cán cân thanh toán được tập hợp khá đầy đủ trong các tài liệu của WB, IMF, UN,
ADB. Điểm đáng nói nhất là thông tin thường rât khác nhau nên không biết chọn
thế nào ? trong khi với thông tin về tiền tệ thì tất cả các nhà nghiên cứu đều
thống nhất chọn của IMF nên dễ so sánh, kiểm tra.
Một điều đáng lưu ý là thông tin cán
cân thanh toán quốc tế tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng khác xa so
với thông tin trên sách báo, do đó cần hết sức thận trọng khi sử dụng thông tin
trên sách báo.
h)
Cân bằng kinh tế vĩ mô
Cân bằng kinh tế vĩ mô bao gồm cân
bằng hiện vật và cân bằng giá trị. Các số liệu của hai cân bằng này đều có
trong Niên giám thống kê, tuy nhiên, nhiều khi không đủ chi tiết, ví dụ tiêu
dùng xã hội hoặc tích luỹ nhiều khi không được chia chi tiết cho tiêu dùng
chính phủ và tiêu dùng tư nhân. Ngoài ra các số trên niên giám thống kê thường
chưa đủ đến năm gần nhất.
III - ĐÁNH GIÁ CHẤT
LƯỢNG NGUỒN THÔNG TIN ĐỂ XÂY DỰNG CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG
Thực tế, thông tin là
cơ sở quan trọng nhất trong mọi quá trình phân tích, dự báo. Nói đến phân tích,
dự báo mà không nói đến thông tin là cực kỳ sai lầm. Hệ thống và chất lượng
thông tin yếu kém trong quá trình chuyển đổi kinh tế là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm giảm chất lượng của các mô hình kinh tế lượng, ảnh hưởng tới độ
tin cậy của các phân tích, dự báo kinh tế và công tác kế hoạch hoá, dẫn tới các
chính sách kinh tế được đề ra không chuẩn xác, kém hiệu quả. Do chất lượng
thông tin kém nên rất mất thời gian để xử lý khi xây dựng các mô hình chuyên
sâu hoặc kích thước tương đối lớn.
1/ Công
tác xây dựng hệ thống thông tin vừa qua:
a)
Chuyển biến rất chậm từ sử dụng hệ thống thống kê MPS (material production
system) sang hệ thống thống kê SNA (system of national accounts).
-
Hệ MPS:
*
Chỉ được áp dụng trong khối các nước XHCN
*
Chỉ thống kê các yếu tố thuộc khu vực sản xuất vật chất, không tính khu vực phi
sản xuất vật chất, chủ yếu là dịch vụ, trong khi khu vực dịch vụ chiếm tới trên
40% GDP.
*
Chỉ chú trọng số lượng, không coi trọng chất lượng, ví dụ đếm số đầu bò quan
trọng hơn trọng lượng của từng con bò.
*
Chỉ chú trọng tới cung, không chú ý tới cầu: Coi trọng xây dựng nhà máy, xí
nghiệp mà không biết nền kinh tế, xã hội có nhu cầu không, nhu cầu như thế nào.
Không chú ý tới cấu tạo hữu cơ của tư bản : C/V
-
Hệ SNA:
*
Áp dụng trong tất cả các nước theo kinh tế thị trường
*
Tính toàn diện mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của toàn nền kinh
tế, không bỏ qua yếu tố nào.
*
Coi trọng chất lượng hơn số lượng, năng suất hơn sản lượng.
*
Chú trọng cả hai mặt cung và cầu, trong đó nhấn mạnh mặt cầu.
-
Chuyển đổi hệ thống thông tin ở nước ta:
*
Từ năm 1990 mới bắt đầu nghiên cứu xây dựng hệ thống SNA cho nước ta,
*
Cuối 12/1992 Thủ tướng CP mới ra chỉ thị áp dụng chính thức;
*
Số liệu những năm đầu có độ tin cậy thấp nên thường xuyên bị sửa lại, số thập
kỷ 80 không có. Mới chỉ làm ở mức gộp cho GDP, chi tiết hầu như chưa có.
b)
Hệ thống thông tin còn nhiều điểm yếu kém, bất cập do quá trình xây dựng
hệ thống thông tin SNA mới được tiến hành chưa lâu, trình độ cán bộ thấp, vừa
làm vừa học. Những yếu kém chính là:
*
Thông tin không thống nhất:
+
Khác nhau giữa các bộ, các cơ quan chính phủ và khác với thông tin của người
nước ngoài nói về nước ta... về cùng 1 chỉ tiêu.
+
Không giống quy định quốc tế: cái cần đưa vào thì chưa đưa do thiếu thông tin,
ví dụ khu vực kinh tế phi hình thức; cái không cần đưa thì lại đưa, ví dụ trong
phân ngành của ta... Cơ cấu ngân sách, thâm hụt ngân sách
* Thông tin có độ chính xác chưa
cao:
+
Còn nhiều vấn đề chưa thống nhất về phương pháp luận: Tính các chỉ tiêu giá cả,
sản lượng... theo kiêu gì ? Giá trung bình tháng hay giá cuối tháng ? Trung
bình trượt hay trung bình nhân ? Các thông tin xã hội rất kém chính xác.
+
Luồng thông tin được thu thập qua nhiều cấp, mỗi cấp lại tự xử lý theo phương
thức riêng, không thống nhất, thậm chí phương pháp thiếu cơ sở khoa học... Do
đó khi tổng hợp lại ở trung ương thì sai số trở lên rất lớn. Ví dụ sản lượng
lúa = diện tích * năng suất, đo thế nào. Năm 1998, nếu cộng sản lượng lúa tất
cả các tỉnh báo cáo lên thì sản lượng lúa lên tới trên 32 triệu tấn, thực tế
trung ương ước chỉ đạt 29 triệu. Số công bố cuối cùng là 29,1 triệu tấn. Tương
tự đối với tổng giá trị xuất khẩu, tăng trưởng GDP... Hiện nay số liệu về tăng
trưởng của ta cũng rất đáng ngờ.
* Thông tin không đầy đủ:
+
Thiếu rất nhiều chỉ tiêu phản ánh hoạt động của kinh tế thị trường, nhất là các
chỉ tiêu phản ánh mặt cầu như thu nhập, tiêu dùng của dân cư, thuế, lợi tức,
lợi nhuận, tiền lương, và các dự báo về nhu cầu... Thiếu rất nhiều chỉ tiêu về
mặt xã hội.
+
Thông tin năm có năm không; có rất ít thông tin quý và tháng để điều hành kinh
tế ngắn hạn và thực hiện các điều chỉnh chính sách nhằm hướng nền kinh tế phát
triển theo quỹ đạo bền vững. Cũng do vấn đề này mà việc xây dựng các mô hình
kinh tế lượng rất khó khăn.
* Thông tin không kịp thời để phục vụ
công tác phân tích, dự báo kinh tế: Điều này rất rõ trong mọi ngành, mọi cấp.
Ai cũng kêu thiếu thông tin, từ thông tin về tình hình hiện nay của nền kinh tế
đến dự báo nhu cầu thị trường nội địa, thị trường thế giới...
*
Thị trường thông tin bị chia cắt,
không có mạng thông tin giữa các cơ quan có nhu cầu. Không có mạng thông tin
toàn quốc đối với những thông tin tối thiểu. Trao đổi thông tin giữa các ngành,
bộ, địa phương rất kém. Mua bán thông tin đã trở thành phổ biến nhưng do thị
trường thông tin bị chia cắt, thậm chí trong nhiều trường hợp chưa công khai
nên giá cả không phản ánh đúng quy luật cung cầu. Trong phân tích, dự báo, mỗi
nơi sử dụng nguồn số liệu riêng, không ai rõ người khác dùng số gì. Thế giới:
công khai hoá tất cả các số liệu.
c)
Nguyên nhân của sự yếu kém của hệ thống thông tin:
Có
nhiều nguyên nhân, song quan trọng nhất phải kể tới là:
-
Nhu cầu của lãnh đạo về hệ thống thông tin chưa nhiều, lãnh đạo các cấp quen
lập kế hoạch và điều hành theo cảm tính, kinh nghiệm, "bốc thuốc",
chứ không quen sử dụng các công cụ hiện đại trong quản lý kinh tế. Cũng vì
nguyên nhân này mà dẫn tới nhận thức, phương pháp luận về xây dựng hệ thống
thông tin hầu như rất ít được quan tâm. Thậm chí có đồng chí cấp tổng cục
trưởng còn phát biểu: Ai cũng biết nước ta đang có rất nhiều lao động chưa có
việc làm; do đó cần gì phải điêù tra; cứ dành tiền đó để tạo việc làm. Thực tế,
muốn giải quyết được vấn đề thất nghiệp, phải điều tra số lượng thất nghiệp, cơ
cấu theo tuổi, giới tính, vùng, trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật,... người
thất nghiệp; phải phân tích nhu cầu việc làm trong lĩnh vực gì của người thất
nghiệp... thì mới đề ra được giải pháp đúng đắn để xử lý.
-
Chi phí điều tra, thu thập, xử lý thông tin đã đắt lên nhiều so với trước vì
mức sống đã tăng cao. Mặt khác, chỉ ít các cá nhân, cơ quan có nhu cầu nên cầu
thấp, bán thông tin không đủ bù chi phí. Thực tế, thông tin là cơ sở của mọi
hoạt động kinh tế xã hội, là cơ sở hạ tầng cho phát triển. Ta đang đi vào kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên trí tuệ, với nền kinh tế tri thức, trong đó thông tin là
vật chất, là hàng hoá quan trọng nhất. Do đó, để phát triển cao, dài hạn, bền
vững, nhất định phải coi công tác thông tin là quan trọng hàng đầu.
-
Phương tiện xử lý thông tin còn yếu kém. Gần đây đã nhập được nhiều máy tính và
thiết bị nối mạng, song sử dụng chưa đúng mục đích nên rất lãng phí và kém hiệu
quả. Phần mềm của ta cũng kém. Trong số cán bộ tin học hiện nay, chưa đến 1% có
thể viết được phần mềm mới, chưa đến 10% sử dụng thành thạo các phần mềm đã có,
số còn lại chủ yếu chỉ biết sử dụng máy tính để đánh văn bản.
-
Trình độ cán bộ làm tin học và trình độ cán bộ kế hoạch đối với công tác thông
tin còn yếu: Chọn máy tính gì, thiết bị nối mạng kiểu gì, bố trí mạng thông tin
như thế nào, chọn chỉ tiêu nào đưa vào mạng... Trên toàn quốc, hầu như chưa hệ
thống thông tin nào có giá trị như một mạng thông tin máy tính thống nhất.
2/
Yêu
cầu thông tin đi kèm với các chỉ tiêu cần thu thập cho mô hình:
Số
liệu, chỉ tiêu trong hệ thống thông tin phục vụ xây dựng mô hình không những
phải được tổ chức khoa học để thuận lợi khi tra cứu mà phải chứa đựng những
thông tin về chính các số liệu và chỉ tiêu đó. Thường chúng ta không chú ý đến
ghi lại những thông tin này. Những yêu cầu thông tin cơ bản phải đi kèm với các
số liệu, chỉ tiêu này là:
a)
Phần nguồn gốc của dữ liệu:
-
Nguồn gốc số liệu: Lấy từ sách nào, tài liệu, báo cáo nào;
-
Tên cơ quan ban hành sách, tài liệu đó;
-
Tên chính xác của số liệu này trong tài liệu chính thức;
-
Khoảng thời gian có số liệu (ví dụ từ năm 1980 đến nay);
-
Số theo quý, tháng hay năm ?
-
Đơn vị đo lường: tấn, m3, triệu đồng...;
-
Số liệu được tính theo giá hiện hành hay so sánh, năm gốc là năm nào;
b)
Phần nội dung của dữ liệu:
-
Định nghĩa nội dung của dữ liệu. Ví dụ nói sản xuất 10 triệu tấn xi măng, vậy
đó là các loại xi măng gì, quy đổi ra sao để cộng lại thành 10 triệu tấn. Tương
tự đối với các loại đường, gạo,...
-
Khoảng thời gian thống kê dữ liệu, ví dụ tỷ giá hoặc giá trung bình của tháng
hay vào ngày giữa tháng, cuối tháng ?
c)
Cơ sở cấp số liệu ban đầu:
-
Ai cấp số liệu, dữ kiện cho cơ quan trên ? Ví dụ Tổng công ty Thép cung cấp cho
Bộ công nghiệp, rồi Bộ Công nghiệp cấp cho Tổng cục Thống kê để Tổng cục Thống
kê xuất bản.
-
Phương pháp báo cáo là gì ? Theo điều
tra định kỳ và gửi lên hay thỉnh thoảng mới điều tra.
-
Thời gian có thể có số liệu: Ví dụ ngày 10 hàng tháng thì có số ước tính của
tháng trước, ngày 20 thì có số chính thức.(còn 2 phần nữa).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét