Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

(4) ABC VỀ HIẾN PHÁP: Câu 41 đến 60

ABC VỀ HIẾN PHÁP
Câu hỏi 41
Hiến pháp 1980 có những đặc điểm và nội dung gì nổi bật?
Sau khi thống nhất (năm 1975), đất nước chuyển sang một giai đoạn mới, Hiến pháp 1980 được Quốc hội khoá VI kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 18/12/1980. Hiến pháp này gồm có 12 chương, 147 điều. So với các hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 là bản hiến pháp thể hiện rõ nét nhất quan niệm cứng nhắc về việc tổ chức và xây dựng CNXH, học tập kinh nghiệm của các nước trong hệ thống Liên Xô và Đông Âu trước đây.
Tại Chương I, Hiến pháp xác định chế độ chính trị của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là “nhà nước chuyên chính vô sản” (Điều 2). Lần đầu tiên, Hiến pháp khẳng định rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng duy nhất lãnh đạo” nhà nước và xã hội (Điều 4). Hiến pháp không quy định về sở hữu tư nhân, nhà nước chỉ bảo hộ tài sản thuộc sở hữu cá nhân với mục đích để đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt. Cũng từ Hiến pháp 1980, đất đai được quy định là thuộc “sở hữu toàn dân” (Điều 19) do nhà nước thống nhất quản lý (Điều 20), từ đó, các hình thức sở hữu tư nhân hay cộng đồng về đất đai không được thừa nhận.
Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 thể hiện rất rõ nguyên tắc trách nhiệm tập thể, các thiết chế trách nhiệm cá nhân được thay bằng các cơ quan tập thể cùng chịu trách nhiệm.

Ví dụ như chế định nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước – của Hiến pháp 1959 được thay bằng Hội đồng nhà nước (đồng thời là nguyên thủ quốc gia tập thể và là cơ quan thường trực của Quốc hội). Tương tự, Hội đồng Chính phủ được thay thế bằng Hội đồng Bộ trưởng. Hiến pháp 1980 là hiến pháp của cơ chế cũ – cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp đã đẩy đất nước đến khủng hoảng kinh tế và xã hội.
Câu hỏi 42
Hiến pháp 1992 có những đặc điểm và nội dung gì nổi bật?
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế, xã hội và chính trị (chính thức bắt đầu từ năm 1986), trong bối cảnh phe XHCN trên thế giới có nhiều biến động lớn (những năm 1989 – 1991), Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công đứng đầu, được thành lập để sửa đổi toàn diện Hiến pháp 1980. Hiến pháp 1992 được Quốc hội khoá VII thông qua ngày 15/4/1992, gồm 12 chương, 147 điều. Về mặt nội dung, Hiến pháp này có rất nhiều thay đổi thể hiện nhận thức mới so với Hiến pháp 1980.
Chương I Hiến pháp 1992 quy định về chế độ chính trị. Hiến pháp thể chế hoá đường lối đổi mới, đồng thời tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội (tại Điều 4). Quyền lực nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc hội, không phân thành chia các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo thuyết “tam quyền phân lập”. Ba chương tiếp theo quy định về chế độ kinh tế (Chương II), văn hoá, giáo dục khoa học và công nghệ (Chương III), bảo vệ tổ quốc (Chương IV). Chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp quy định rõ hơn và đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của công dân. Chương VI đến Chương X quy định về bộ máy Nhà nước.
Câu hỏi 43
Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung những nội dung gì vào năm 2001?
Hiến pháp năm 1992 đã góp phần vào việc khắc phục những ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế và xã hội, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển và hội nhập quốc tế. Một thập niên sau đó, những quy định của Hiến pháp 1992 đã bộc lộ những hạn chế làm cản trở hoạt động quản lý nhà nước và sự phát triển của các thành phần kinh tế. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX, Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Khoá VIII đã xác định chủ trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 cho phù hợp với tình hình mới. Trọng tâm của việc sửa đổi lần này là các quy định về bộ máy nhà nước.
Trong năm 2001, theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 của Quốc hội, Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung một số nội dung. Trước hết, có thêm việc xác định nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” (Điều 2). Mặc dù tiếp tục khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, Hiến pháp đã phần nào ghi nhận sự hợp lý của lý thuyết phân quyền, theo đó quy định: “có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2).
Đồng thời, quyền lực của Quốc hội được tăng cường bằng việc cắt bỏ quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm các chức danh bộ trưởng và tương đương của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội bằng việc quy định Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm các bộ trưởng và cả Thủ tướng – người đứng đầu Chính phủ. Ngoài ra, chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát được cắt bỏ nhằm tránh sự chồng chéo giữa các cơ quan và tăng cường sự tập trung vào chức năng công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp của hệ thống cơ quan này.
Câu hỏi 44
Tại sao Hiến pháp 1992 cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung?
Như đã đề cập, điểm mới lớn nhất trong lần sửa đổi Hiến pháp 1992 vào năm 2001 là ghi nhận việc xây dựng nhà nước pháp quyền, tổ chức quyền lực nhà nước có sự phân công giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, vẫn còn nhiều thể chế ở Việt Nam không còn phù hợp, thậm chí quá lạc hậu, không những không đóng vai trò hiệu quả trong việc ổn định và phát triển xã hội, mà còn gây ra nhiều hệ lụy như tình trạng tham nhũng, vi phạm các quyền con người, thiếu thống nhất trong thực thi pháp luật ở nhiều mức độ khác nhau.
Phát triển kinh tế thị trường phải dựa trên nền tảng pháp quyền nhằm chống lại tình trạng thiếu minh bạch, tha hóa quyền lực, mưu cầu lợi ích nhóm và bảo vệ các quyền tự do của nhân dân. Pháp quyền là sự giới hạn và kiểm soát quyền lực nhà nước trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, toàn cầu hóa và hội nhập đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải thay đổi để tuân thủ các chuẩn mực phổ quát chung của thế giới trên các phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị. Do vậy, nhân dân và toàn xã hội mong đợi hiến pháp hiện hành cần được sửa đổi thêm nhiều nội dung căn bản, góp phần giải quyết nhiều vấn đề đang đặt ra đối với quốc gia.
Câu hỏi 45
Hiến pháp thường bao gồm những nội dung gì?
Các bản hiến pháp cổ điển (ra đời trước năm 1945), thường có nội dung ngắn gọn, xúc tích, chủ yếu tập trung vào tổ chức bộ máy nhà nước (gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, mối quan hệ chính quyền trung ương với địa phương) và liệt kê các quyền con người cơ bản.
Các hiến pháp ra đời sau năm 1945, đặc biệt là từ sau năm 1990, thường có nội dung phong phú hơn, bao trùm nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Bên cạnh các nội dung như trong hiến pháp cổ điển, hiến pháp hiện đại thường quy định cụ thể hơn về các cơ quan nhà nước ở trung ương, quy định các cơ quan hiến định độc lập (Kiểm toán, Ủy ban Bầu cử, Ủy ban Nhân quyền…), quy định về nhiều quyền trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa. Một sô hiến pháp còn quy định những nội dung mang tính chính sách, định hướng như phát triển kinh tế, văn hóa (như Hiến pháp Philippin 1986, hiến pháp các nước XHCN…). Kể từ thập kỷ 1980 trở lại đây, các bản hiến pháp hiện đại quy định ngày càng nhiều thiết chế hiến định độc lập nhằm tăng cường giám sát sự lạm quyền và phòng, chống tham nhũng, ví dụ như Hội đồng Bầu cử, Uỷ ban Nhân quyền quốc gia, Uỷ ban chống Tham nhũng quốc gia, Uỷ ban công vụ, Ombudsman, Cơ quan bảo hiến…
Câu hỏi 46
Quyền con người, quyền công dân và quyền hiến định có gì khác nhau?
Quyền con người (human rights) thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và quốc tế. Quyền công dân (citizen’s rights) là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận và áp dụng cho công dân của mình. Với ý nghĩa là một khái niệm gắn liền với nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà nước, được xác định thông qua chế độ quốc tịch, quyền công dân là tập hợp những quyền tự nhiên được pháp luật của một nước ghi nhận và bảo đảm, nhưng chủ yếu dành cho những người có quốc tịch của nước đó.
Quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, bất kể vị thế, hoàn cảnh, nơi cư trú… Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền. Ví dụ, một người nước ngoài sẽ không được hưởng một số quyền công dân, chẳng hạn như quyền bầu cử, ứng cử… tuy nhiên, người đó vẫn được hưởng các quyền con người phổ biến áp dụng cho mọi thành viên của nhân loại trong mọi hoàn cảnh, cụ thể như quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân…
Quyền hiến định là các quyền được hiến pháp quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Khái niệm “quyền hiến định” thường được sử dụng khi muôn nhấn mạnh rằng một quyền nào đó được hiến pháp, đạo luật tối cao, bảo vệ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các quyền hiến định có giá trị cao hơn và cần phải bảo vệ tốt hơn các quyền không hiến định. Từ quan điểm chung của cộng đồng quôc tế về quyền con người, quyền hiến định đơn giản chỉ là các quyền dễ bị xâm phạm và cần phải được bảo vệ đặc biệt hơn so với các quyền khác. Chính vì vậy, hiến pháp của một số quốc gia (ví dụ như Hoa Kỳ, Liên bang Nga..) có quy định nêu rõ, việc hiến định các quyền không có nghĩa là coi nhẹ các quyền không hiến định.
Câu hỏi 47
Việc quy định các quyền trong hiến pháp có mối quan hệ như thế nào với các điều ước quốc tế vềquyền con người mà quốc gia là thành viên?
Việc quy định các quyền trong hiến pháp cần có sự tương thích với quy định của các điều ước quốc tế về quyền con người mà quốc gia là thành viên. Hiến pháp một số quốc gia dẫn chiếu, nêu tên hoặc cam kết tôn trọng các quyền trong Tuyên ngôn quôc tế nhân quyền (1948) và một sô công ước quôc tế cơ bản mà quốc gia đã gia nhập (ví dụ như Hiến pháp Nam Phi 1997, Campuchia 1993…).
Câu hỏi 48
Các quy định về quyền con người, quyền công dân thường được đặt ở vị trí nào trong hiến pháp?
Hình thức phổ biến nhất của việc quy định các quyền con người, quyền công dân là nằm trong một chương của hiến pháp. Nhiều quốc gia đặt chương thứ hai, sau chương thứ nhất về các nguyên tắc chung, đề cập đến các quyền con người. Trong các hiến pháp của Việt Nam, nội dung về quyền con người cũng nằm trong một chương của hiến pháp. Trong Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, nội dung quyền con người đã được đặt tại Chương II.
Tại một vài quốc gia trên thế giới, quyền con người nằm trong một văn bản độc lập, được coi như cấu phần của hiến pháp. Chẳng hạn như Tuyên ngôn nhân quyền (1689) và Luật về nhân quyền (2008, dẫn chiếu đến các quyền trong Công ước nhân quyền châu Âu) của nước Anh, hoặc Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền (1789) được coi là một cấu phần trong Hiến pháp 1958 của Cộng hoà Pháp.
Câu hỏi 49
Hiến pháp trên thế giới thường ghi nhận những quyền con người, quyền công dân nào?
Trên thế giới, các bản hiến pháp cổ điển chủ yếu chỉ đề cập các quyền dân sự (an toàn thân thể, quyền sở hữu, quyền tự do tôn giáo, tự do đi lại, cư trú …) và các quyền chính trị (tự do ngôn luận, hội họp, quyền bầu cử và ứng cử.). Các bản hiến pháp hiện đại mở rộng phạm vi các quyền con người, bao gồm cả các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và các quyền của nhóm (phụ nữ, trẻ em, người thiểu số, người nước ngoài..).
Câu hỏi 50
Hiến pháp Việt Nam ghi nhận những quyền con người, quyền công dân nào?
Hiến pháp Việt Nam 1992, tại Điều 50, lần đầu tiên nhắc đến khái niệm “quyền con người”. Tuy nhiên, điều khoản này lại đồng nhất quyền con người với quyền công dân. Nhìn chung, quyền công dân trong các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được Hiến pháp 1992 quy định tương đối đầy đủ. Chẳng hạn các quyền về dân sự như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70), quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 71), quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, thư tín, điện thoại (Điều 72)…; các quyền chính trị như tự do ngôn luận, tự do báo chí (Điều 69)…; các quyền kinh tế như quyền lao động (Điều 55), quyền tự do kinh doanh (Điều 57)… Mặc dù vậy, vẫn còn một số quyền quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế mà đã được ghi nhận phổ biến trong hiến pháp trên thế giới nhưng chưa được ghi nhận trong Hiến pháp 1992, ví dụ như quyền sống, quyền tự do tư tưởng, quyền thành lập, gia nhập công đoàn, quyền bãi công… Trong số những quyền này, quyền sống đã được bổ sung vào Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013.
Câu hỏi 51
Việc ghi nhận các quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam có gì khác với trong hiến pháp của các nước trên thế giới?
Khái niệm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam 1992 được đồng nhất với quyền công dân (Điều 50). Việc đồng nhất này là không chính xác, vì con người là một khái niệm rộng hơn công dân.
Tại nhiều điều khoản quy định rằng công dân có một quyền nhất định, nhưng phải “theo quy định của pháp luật”. Chẳng hạn Điều 57 (quyền tự do kinh doanh), Điều 68 (quyền tự do đi lại và cư trú), Điều 69 (quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, lập hội)… đều có đuôi là “theo quy định của pháp luật”.
Trong Chương V của Hiến pháp 1992, quy định về “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, chủ thể của quyền trong hầu hết điều khoản được xác định là “công dân”. Điều này không chính xác vì có nhiều quyền được áp dụng cho cả người nước ngoài có mặt hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, một số hạn chế này đã được khắc phục trong Dự thảo Hiến pháp hăm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013.
Câu hỏi 52
Hiến pháp trên thế giới và Hiến pháp Việt Nam có quy định những giới hạn nào về quyền con người, quyền công dân?
Hiến pháp Việt Nam 1992 chưa quy định về việc giới hạn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 tại khoản 2 Điều 15 nêu rằng “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lí do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng.” Việc quy định về giới hạn quyền là cần thiết, nhưng đặt quy định này như một nguyên tắc tổng quát ở ngay điều khoản đầu tiên của chương về quyền con người lại là không phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Đó là bởi việc giới hạn chỉ có thể áp dụng đối với một số quyền nhất định, ngoài ra, có nhiều quyền con người (như quyền sống, quyền không bị tra tấn, không bị đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, quyền tự do tư tưởng…) là các quyền tuyệt đối, nhà nước không được giới hạn trong bất kỳ hoàn cảnh hay vì bất kỳ lý do nào. Hơn thế, việc hạn chế, nếu áp dụng với các quyền nhất định, không được trái với bản chất của quyền bị giới hạn, phải được luật quy đinh rõ ràng và phải là cần thiết trong một xã hội dân chủ, với mục đích duy nhất là để thúc đẩy lợi ích chung của cộng đồng và các quyền, tự do chính đáng của người khác.
Hiến pháp Việt Nam, kể cả Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 đều không có quy định về những quyền không thể bị hạn chế, giới hạn (non-derogable rights) cũng về những điều kiện và phạm vi được hạn chế, giới hạn quyền trong bối cảnh khẩn cấp của quốc gia (state of emergency). Đây là những quy định trong hiến pháp của nhiều nước nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng những quy định về giới hạn của quyền để vi phạm nhân quyền. Ngoài ra, cả Hiến pháp hiện hành và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 đều chưa đề cập đến nghĩa vụ của các cơ quan, viên chức nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, cũng như không quy định về các cơ chế mà người dân có thể sử dụng để khiếu nại khi bị vi phạm các quyền.
Câu hỏi 53
Hiến pháp trên thế giới và Hiến pháp Việt Nam quy định những nghĩa vụ nào của con người và của công dân?
Nhìn chung, hiến pháp trên thế giới thường quy định hai loại nghĩa vụ chính là nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ lao động. Ngoài ra, một số bản hiến pháp có quy định nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ quân sự (Hiến pháp Ba Lan, Hàn Quốc, Nga), nghĩa vụ bầu cử (Hiến pháp Arghentina …).
Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định công dân có các nghĩa vụ sau: nghĩa vụ học tập (Điều 59), nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh công cộng (Điều 61), nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà nước, lợi ích công cộng (Điều 78), nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích (Điều 80). Hầu hết các nghĩa vụ này được tái đề cập trong Dự thảo Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013. Mặc dù vậy, quy định về một số nghĩa vụ gây tranh cãi về tính logic và thực tiễn. Cụ thể, các nghĩa vụ học tập, thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh công cộng, tôn trọng và bảo vệ tài sản của nhà nước, lợi ích công cộng cụ thể là gì? Chế tài nào để xử lý vi phạm?
Thêm vào đó, quy định về các nghĩa vụ, cụ thể như ở Điều 16(2) của Dự thảo (“Không được lợi dụng quyền con người, quyền công dân để xâm phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”), và Điều 20 (Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội) mang tính chất trừu tượng, rất dễ bị lạm dụng để vi phạm quyền con người, quyền công dân.
Câu hỏi 54
Quyền bình đẳng được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam như thế nào?
Bình đẳng vừa là một quyền, vừa là một nguyên tắc của quyền con người. Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định ở Điều 52 “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, Điều 54 “công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.”
Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi hăm 2013 có bổ sung điều khoản “không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (khoản 2 Điều 17). Tuy nhiên, cả Hiến pháp hiện hành và Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đều chưa đề cập đến quy định trong Điều 16 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966, đó là quyền được coi là thể nhân trước pháp luật. Quyền này có ý nghĩa rất quan trọng, được xem là điều kiện đầu tiên để thực hiện các quyền dân sự khác.
Câu hỏi 55
Quyền tự do và an toàn cá nhân được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam như thế nào?
Quyền tự do và an toàn cá nhân được Điều 71 Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định “công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm… nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự và nhân phẩm của công dân”.
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013, quyền này là thuộc về mọi người (chứ không phải chỉ công dân). Đồng thời, có bổ sung quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật (khoản 3 Điều 22).
Tuy nhiên, cả Hiến pháp hiện hành và Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đều chưa quy định cấm các hình thức nô lệ và cưỡng bức lao động. Đây là những quy định được nhấn mạnh trong Công ước về quyền dân sự, chính trị của Liên hợp quốc và một số công ước của Tổ chức Lao động quôc tế mà Việt Nam đã là thành viên.
Câu hỏi 56
Các quyền liên quan đến tố tụng tư pháp được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam như thế nào?
Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định một số quyền liên quan đến hoạt động tố tụng, bao gồm: không bị bắt nếu chưa có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang (Điều 71), không bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 72), được bồi thường thiệt hại về vật chât, phục hồi danh dự nếu bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật (đoạn 2 Điều 72), bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo (Điều 132).
Trong Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, nhiều quyền trong lĩnh vực tư pháp đã được tập hợp lại trong Điều 32. Ngoài ra, có sự bổ sung quyền được tòa án xét xử, quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm (khoản 2 Điều 32), người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy tố, xét xử có quyền sử dụng trợ giúp pháp lí của người bị bào chữa (khoản 3 Điều 32).
Có quan điểm cho rằng quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm (khoản 2 Điều 32) cần sửa thành “quyền không bị truy tố hai lần vì một tội phạm mới phù hợp với luật nhân quyền quốc tế. Thêm vào đó, Dự thảo lược bỏ mất một số quyền quan trọng, tiêu biểu như quyền không bị kết án vì không hoàn thành được nghĩa vụ theo hợp đồng (nêu trong Điều 24 Công ước quốc tế về các quyên dân sự, chính trị).
Câu hỏi 57
Quyền bầu cử, ứng cử và tham gia đời sống chính trị được đề cập trong các Hiến pháp Việt Nam như thế nào?
Điều 63 Hiến pháp Việt Nam 1992 khẳng định “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân.”
Trong Dự thảo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, quyền tham gia chính trị của người dân được đề cập tại Điều 6 (nhân dân thực hiện quyền lực bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện), Điều 7 (việc bầu cử được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín), Điều 28 (quyền bầu cử và ứng cử), Điều 29 (tham gia quản lý nhà nước và xã hội) và Điều 30 (biểu quyết trong trưng cầu ý dân). Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 121) cũng là một bước tiến mới của Dự thảo Hiến pháp, góp phần bảo đảm các nguyên tắc của bầu cử được tuân thủ. Mặc dù vậy, nhiều ý kiến cho rằng mô hình hội đồng hiến pháp, do mang tính thức, không có quyền tài phán như mô hình toà án hiến pháp, nên khó có thể đóng vai trò gì quan trọng trong việc xử lý những hành vi vi hiến.
Câu hỏi 58
Các quyền tự do tư tưởng, ngôn luận, lập hội, hội họp được đề cập trong Hiến pháp Việt Nam như thế nào?
Điều 69 Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Điều khoản này chưa nhắc đến quyền tự do tư tưởng.
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013, tại Điều 26, gần như giữ nguyên cách quy định cũ, theo đó “công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.” Việc duy trì sự ràng buộc “theo quy định của pháp luật” đối với các quyền tự do cơ bản này tiếp tục gây ra nguy cơ có nhiều loại văn bản quy phạm (luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư…) có thể xâm phạm đến quyền hiến định của người dân, trái với nguyên tắc pháp quyền của một nhà nước dân chủ.
Thêm vào đó, quyền được thông tin bị coi là quá hẹp so với chuẩn mực quốc tế về quyền tiếp cận thông tin (bao gồm các quyền được [cung cấp] thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin và quyền được phổ biến thông tin).
Câu hỏi 59
Hình thức chính thể là gì? Hiến pháp thế giới ghi nhận những hình thức chính thể nào?
Hình thức chính thể (form of government/ system of government) là hình thức tổ chức nhà nước do hiến pháp quy định, liên quan đến cách thức thành lập các cơ quan nhà nước ở trung ương và quan hệ giữa chúng với nhau, cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực nhà nước. Khi xác định chính thể, trước hết người ta thường dựa vào cách thức thành lập ra nguyên thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Trong lịch sử tổ chức quyền lực nhà nước, có hai hình thức cơ bản của chính thể là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà.
Trong chính thể quân chủ, nguyên thủ quốc gia được thành lập bằng con đường truyền ngôi thế tập (thường được gọi là vua hay nữ hoàng). Trong chính thể cộng hoà, nguyên thủ quốc gia được thành lập bằng con đường bầu cử, có thể do dân hoặc cơ quan đại diện của dân bầu ra (thường được gọi là Tổng thống, Chủ tịch nước…). Chính thể quân chủ – mô hình nhà nước tiêu biểu của xã hội phong kiến – được tổ chức thành quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế. Quân chủ hạn chế là mô hình tiến bộ hơn, nơi quyền lực của nhà vua bị hạn chế, các thiết chế nhà nước khác có thực quyền (quốc hội, nghị viện, chính phủ). Hiến pháp là văn bản thể hiện sự hạn chế này, do đó, mô hình quân chủ hạn chế còn được gọi là quân chủ lập hiến (như tại Nhật Bản, Thái Lan, Anh, Đan Mạch, Tây Ban Nha hiện nay…).
Chính thể cộng hoà thường gồm hai loại: cộng hoà đại nghị và cộng hoà tổng thống. Cộng hoà đại nghị (như Ấn Độ, Đức..) là chính thể được tổ chức ở những nhà nước có nguyên thủ quốc gia do nghị viện bầu ra, chính phủ do thủ tướng đứng đầu. Thủ tướng không chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia, mà chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nguyên thủ quốc gia trên thực tế không trực tiếp tham gia vào việc giải quyết các công việc của nhà nước. Cộng hòa tổng thống (như Hoa Kỳ, Philippin và hầu hết các quốc gia ở Nam Mỹ) là mô hình chính thể mà hành pháp và lập pháp không chịu trách nhiệm đối với nhau. Cơ quan lập pháp do dân bầu và người đứng đầu cơ quan hành pháp cũng do dân bầu. Với cách thức tổ chức này, nguyên thủ quốc gia (tổng thống) không những là người đứng đầu nhà nước mà còn đứng đầu hành pháp. Ngoài ra, có một mô hình chính thể kết hợp những đặc điểm của cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị, được gọi là cộng hoà lưỡng tính (như Pháp và Nga). Chính thể này có những đặc điểm như: tổng thống do dân bầu; tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là người lãnh đạo nội các; nội các do Thủ tướng đứng đầu, do Nghị viện thành lập, vừa chịu trách nhiệm trước Nghị viện vừa chịu trách nhiệm trước Tổng thống; tổng thống có quyền giải tán Nghị viện.
Tổ chức nhà nước XHCN (như Hiến pháp Trung Quốc 1982, Hiến pháp Việt Nam 1992) có nhiều nét giống với cộng hoà đại nghị. Chính thể cộng hoà XHCN có những đặc điểm chung là: Quốc hội (cơ quan kiểu Xô-viết do nhân dân bầu ra), có quyền lực tối cao (về mặt lý thuyết), có quyền định ra các khuôn mẫu cho các hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và của công dân thông qua chức năng lập pháp và có quyền giám sát hoạt động của mọi cơ quan nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan chấp hành của Quốc hội; toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Câu hỏi 60
Những hình thức chính thể nào đã từng được xác định trong các hiến pháp của Việt Nam?
Theo Hiến pháp Việt Nam năm 1946, chính thể Việt Nam là dân chủ cộng hoà, loại hình tổ chức nhà nước đoạn tuyệt hoàn toàn chế độ truyền ngôi, thế tập, hướng đến việc tranh thủ mọi lực lượng trong và ngoài nước, chống lại sự phụ thuộc vào đế quốc thực dân, giành độc lập cho dân tộc. Theo Hiến pháp này, hình thức nhà nước dân chủ cộng hoà có nhiều dấu ấn của cộng hoà đại nghị, bởi vì ở đây Quốc hội (Nghị viện nhân dân) được quy định là cơ quan nhà nước cao nhất. Chính phủ được thành lập dựa trên Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chỉ hoạt động khi vẫn được Quốc hội tín nhiệm. Nhưng khác hình thức tổ chức cộng hoà đại nghị ở chỗ trong cơ cấu tổ chức nhà nước của Hiến pháp 1946 có chế định nguyên thủ quốc gia với một quyền năng rất lớn, không khác một tổng thống trong chính thể cộng hoà tổng thống. Chủ tịch nước không những là nguyên thủ quốc gia, mà còn là người trực tiếp lãnh đạo bộ máy hành pháp. Chủ tịch nước, mặc dù được Nghị viện bầu ra, nhưng không chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Từ những đặc điểm này, có thể thấy hình thức chính thể theo Hiến pháp 1946 gần giống như chính thể cộng hoà lưỡng tính.
Sang đến Hiến pháp 1959, mặc dù tên gọi của chính thể không thay đổi, vẫn là dân chủ cộng hòa, nhưng những đặc điểm của cộng hoà tổng thống đã giảm đi. Điều này được thể hiện bằng việc quy định nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch nước) không còn đồng thời là người trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp, mà nghiêng về chức năng tượng trưng cho sự bền vững, thống nhất của dân tộc, như của những nguyên thủ quốc gia của các chính thể cộng hoà đại nghị và quân chủ đại nghị. Chủ tịch nước chính thức hoá các quyết định của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hoặc của Hội đồng Chính phủ.
Chính thể Việt Nam theo Hiến pháp 1980 là cộng hoà XHCN, về cơ bản tổ chức quyền lực nhà nước so với mô hình của Hiến pháp 1959 không có thay đổi lớn. Những đặc điểm của mô hình nhà nước XHCN trước đây chưa thật rõ, thì bây giờ thể hiện rõ hét. Với cơ chế tập thể lãnh đạo, nguyên thủ quốc gia không phải là một cá nhân mà do Hội đồng Nhà nước, được Quốc hội bầu ra, đảm nhiệm. Hội đồng Nhà nước đồng thời là cơ quan thường trực của Quốc hội. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cách thức tổ chức nhà nước theo Hiến pháp 1980, thể hiện cơ chế tập trung và mang nhiều yếu tố chủ quan, đã làm cho nền kinh tế, xã hội Việt Nam bị kìm hãm. Hiến pháp 1992, về cơ bản vẫn là hình thức chính thể cộng hoà XHCN nhưng đã có những điều chỉnh nhất định về bộ máy nhà nước (chẳng hạn nguyên thủ quốc gia trở lại vai trò cá nhân Chủ tịch nước…).

http://anhbasam04.wordpress.com/hien-phap/6-abc-ve-hien-phap-83-cau-hoi-dap/phan-i-khai-quat-ve-hien-phap-va-sua-doi-hien-phap/
http://anhbasam04.wordpress.com/hien-phap/6-abc-ve-hien-phap-83-cau-hoi-dap/phan-ii-cac-noi-dung-co-ban-cua-hien-phap/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét