Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

(3) ABC VỀ HIẾN PHÁP: Câu 21 đến 40

ABC VỀ HIẾN PHÁP
Câu hỏi 21
Hiến pháp của quốc gia nào được coi là có ảnh hưởng nhất trên thế giới? Vì sao?
Theo một dự án nghiên cứu, kể từ năm 1789 đến năm 2000, đã có hơn 800 bản hiến pháp thành văn được các quốc gia trên thế giới thông qua(12) (tính cả những hiến pháp mà các quốc gia đã sửa đổi, bổ sung).
Mặc dù vậy, các chuyên gia đều cho rằng, Hiến pháp 1787 của Hoa Kỳ là bản hiến pháp nổi tiếng và có ảnh hưởng nhất trên thế giới từ trước đến nay.
Ngay từ khi mới ra đời, ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ đã lan rộng trên toàn thế giới. Đơn giản là bởi bản hiến pháp này đã thể hiện một cách tuyệt vời tư tưởng về một chính quyền của dân, do dân và vì dân (lời của Tổng thống Abraham Lincoln) trong một văn bản mà quyền lực nhà nước được cấu trúc khoa học, chặt chẽ, dựa trên học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu. Chính vì vậy, kể từ khi có hiệu lực, bản hiến pháp này đã trở thành mô hình tham khảo cho việc xây dựng hiến pháp của rất nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Nói về bản hiến pháp kể trên, nguyên Thủ tướng Anh William Ewart Gladstone (1809 – 1898) cho rằng đó là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người”. Còn theo Albert P. Blaustein(13), Hiến pháp Hoa Kỳ là “mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của nước Mỹ”.

Câu hỏi 22
Xây dựng và sửa đổi hiến pháp là gì? Có gì khác nhau?
Xây dựng hiến pháp (còn được gọi lập hiến hay ‘làm hiến pháp’) là việc thảo luận, soạn thảo, ban hành hiến pháp.
Sửa đổi hiến pháp là việc điều chỉnh hoặc bổ sung thêm một số điều khoản vào hiến pháp hiện hành. Trong các xã hội dân chủ, hiến pháp ra đời nhằm quy định các quy tắc trách nhiệm, giới hạn quyền lực của nhà nước nhằm bảo đảm chủ quyền của nhân dân và các quyền, tự do của con người. Sau khi ra đời, theo thời gian, các quy định của hiến pháp có thể phải sửa đổi để phù hợp với những biến động của cuộc sống.
Xây dựng và sửa đổi hiến pháp là những sự kiện chính trị đặc biệt, phản ánh bản chất dân chủ và pháp quyền của một quốc gia. Hiến pháp là bản khế ước xã hội, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do đó nhân dân có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Xây dựng và sửa đổi hiến pháp là một quy trình đặc biệt được quy định trong chính hiến pháp. Việc đảm bảo các quy tắc giới hạn chính quyền trong việc sửa đổi hiến pháp nhằm phòng ngừa việc các cơ quan nhà nước có thể sửa đổi hiến pháp một cách tùy tiện, đi ngược lại chủ quyền nhân dân được ghi nhận trong hiến pháp.
Việc sửa đổi hiến pháp chỉ đặt ra khi đã có hiến pháp, tức là sửa đổi những quy định của bản hiến pháp hiện hành. Nguồn gốc của việc sửa đổi thường xuất phát từ việc những quy đinh hiến pháp hiện hành không còn phù hợp với những thay đổi của đời sống thực tiễn, nhưng cũng có thể xuất phát từ một sự áp đặt từ bên ngoài(14)hoặc do ý chí chủ quan của một/hoặc một nhóm người(15). Sửa đổi hiến pháp có thể đem lại một cuộc cách mạng về nội dung (sự thay đổi cơ bản của hiến pháp mới so với hiến pháp trước đó), nhưng cũng có thể chỉ là một vài điều chỉnh nhỏ. Các cuộc cách mạng chính trị thường đem lại những thay đổi cơ bản về nội dung hiến pháp, nhưng cũng có khi những thay đổi như vậy diên ra mà không cần phải có cách mạng chính trị.
Sửa đổi hiến pháp có thể tiếp nối hiệu lực pháp lý của bản hiến pháp hiện hành (hiến pháp sau khi được sửa đổi vẫn có hiệu lực), nhưng cũng có thể là ban hành một bản hiến pháp mới. Sửa đổi hiến pháp có thể tiếp hội/kế thừa những nội dung của hiến pháp hiện hành, nhưng cũng có thể đưa ra những nội dung hoàn toàn mới.
Câu hỏi 23
Tại sao phải sửa đổi hiến pháp?
Hiến pháp là đạo luật có hiệu lực pháp lý tối cao của quốc gia. Hiệu lực tối cao đó thường song hành với sự trường tồn, ít thay đổi của chúng. Nói như vậy không có nghĩa hiến pháp không thể bị thay đổi. Hiến pháp là bản văn của con người, con người có khuyết tật nên các bản văn của họ cũng có khuyết tật. Hơn hữa, cuộc sống của con người luôn thay đổi theo thời gian, hiến pháp được ban hành trong quá khứ không thể là vĩnh hằng, áp dụng cứng nhắc cho ngày hôm nay. Một nội dung đúng trước đây nhưng lại có thể không đúng cho hiện tại và tương lai.
Nhiều nhà khoa học cũng như chính trị gia cho rằng mỗi bản hiến pháp được thông qua là dành cho một thế hệ, không thể bắt thế hệ mai sau phải tuân thủ những quan điểm, mong muốn sự ấn định của thế hệ trước, dù có những điểm phù hợp cần kế thừa. Đó là một trong những lý do cần phải sửa đổi hiến pháp. Ngay cả Hiến pháp Hoa Kỳ (1787), bản hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới, được ca ngợi nhiều về tuổi thọ gần 250 năm, cũng đã có 27 lần tu chính (sửa đổi). Ngoài ra, bản hiến pháp hày còn được điều chỉnh bởi hàng trăm án lệ với những lời giải thích khác nhau của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Từ trước tới nay, không có một bản hiến pháp nào trên thế giới là vĩnh hằng, bất biến. Việc thay đổi, sửa đổi hiến pháp càng thường xuyên hơn đối với các quốc gia đang chuyển đổi, phát triển, trong đó có Việt Nam.
Câu hỏi 24
Những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp?
Hiến pháp là một bản khế’ ước xã hội, thể hiện chủ quyền nhân dân thông qua việc giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước và ghi nhận các quyền con người, quyền công dân. Những nguyên tắc xây dựng, sửa đổi hiến pháp phải đảm bảo được tính chất cơ bản đó của hiến pháp. Những nguyên tắc này bao gồm:
• Đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân dân: phải đảm bảo rằng nguồn gốc của hiến pháp là chủ quyền nhân dân, là bản khế ước xã hội. Do vậy, các nội dung cũng như phương thức xây dựng, sửa đổi phải đảm bảo tính dân chủ: hiến pháp được ban hành, sửa đổi theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân; nhân dân có quyền tham gia đầy đủ, tích cực trong quy trình lập hiến; nhân dân có quyền giám sát quy trình lập hiến; các ý kiến của nhân dân cần phải được coi trọng, tiếp thu bởi các cơ quan lập hiến; nhân dân có thể tham gia phúc quyết về hiến pháp sửa đổi…
• Giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước: hiến pháp là một đạo luật tổ chức quyền lực nhà nước, bên cạnh việc quy định các cơ cấu tổ chức nhà nước là việc xác định các giới hạn về quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và các quyền cơ bản của con người. Do đó, các cơ quan nhà nước không được xây dựng, sửa đổi hiến pháp một cách tùy tiện, mà cần phải tuân thủ các quy trình dân chủ, được quy đình trong hiến pháp. Việc sửa đổi hiến pháp được quy định rất chặt chẽ trong hiến pháp, đặt ra các giới hạn nghiêm ngặt mà các cơ quan nhà nước phải tuân thủ khi sửa đổi hiến pháp.
 Kỹ thuật lập hiến đặc thù:Việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp đảm bảo những kỹ thuật lập hiến đặc thù như: đảm bảo chủ quyền nhân dân; phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp; quy định các nguyên tắc cơ bản, khái quát đặt nền tảng cho hệ thống pháp luật.
Câu hỏi 25
Quy trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp như thế nào?
Do hiến pháp là đạo luật cơ bản của quốc gia có giá trị pháp lý cao nhất, nên việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp được quy định rất chặt chẽ trong chính hiến pháp. Quy trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp thường có các bước cơ bản sau:
Bước 1: Đề xuất xây dựng, sửa đổi hiến pháp
Việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp phải được đề xuất bởi những chủ thể nhất định. Khi chưa có hiến pháp, công việc này không có quy tắc định sẵn, rất khác nhau, nhưng dựa trên nền tảng của nguyên tắc quyền lập hiến xuất phát và thuộc về nhân dân. Khi đó, các lực lượng dân chủ nắm quyền đại diện cho nhân dân, sẽ đề xuất xây dựng hiến pháp thông qua Quốc hội lập hiến hoặc Hội nghị quốc gia. Hiến pháp 1787 của Hoa Kỳ được khởi xướng bởi các đại diện của 13 bang lúc bấy giờ tại Hội nghị lập hiến Philadelphia. Khi có đã có hiến pháp, việc đề xuất sửa đổi hiến pháp được quy định rõ trong chính hiến pháp. Việc khởi xướng này thường trao cho các đại biểu quốc hội (số lượng lớn nhất định), các cơ quan lập pháp (Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện), các cơ quan hành pháp (Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng…) và các chính quyền tiểu bang (trong nhà nước Liên bang).
Trong các hiến pháp Việt Nam, chỉ duy nhất Hiến pháp 1946 quy định về quyền yêu cầu sửa đổi hiến pháp, cụ thể như sau: Sửa đổi hiến pháp “do hai phần ba tổng số nghị viện yêu cầu” (Điều 70). Như vậy, chỉ khi 2/3 tổng số nghị viện yêu cầu, vấn đề sửa đổi hiến pháp mới được đưa ra thảo luận. Quy định này có ý nghĩa phân biệt quyền lập hiến với quyền lập pháp, thể hiện tính trội của quyền lập hiến so với quyền lập pháp. Đối với các dự luật thường, Chính phủ có thể đề nghị dự luật ra trước Nghị viện (Khoản b, Điều 52 Hiến pháp 1946). Các hiến pháp sau này cũng đều có quy định về sáng quyền sửa đổi hiến pháp. Thực tế, nhiều chủ thể tham gia vào việc đề xuất sửa đổi hiến pháp: Ban thường trực Quốc hội đề nghị sửa đổi 1946 (Hiến pháp 1959), Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban đối ngoại và Ủy ban pháp luật đề nghị sửa đổi Lời hói đầu Hiến pháp 1980 (hăm 1988), Hội đồng Nhà nước đề nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1980 (hăm 1989), Quốc hội đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1980 (Hiến pháp 1992), Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 (năm 2001).
Bước 2: Quyết định việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp
Các đề xuất xây dựng, sửa đổi hiến pháp là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định chủ trương xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Tùy từng quốc gia, thẩm quyền này có thể được trao cho quốc hội lập hiến hoặc quốc hội lập pháp. Quốc hội sẽ đưa vấn đề sửa đổi hiến pháp ra thảo luận để quyết định.
Theo quy định của các Hiến pháp Việt Nam, việc sửa đổi hiến pháp phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành. Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi hiến pháp thường rất ngắn gọn, bao gồm hai nội dung cơ bản: thông qua chủ trương sửa đổi hiến pháp; thành lập Ủy ban sửa đổi, bổ sung hiến pháp.
Bước 3: Quyết định các nguyên tắc nền tảng của hiến pháp
Tiếp theo của quy trình lập hiến là việc xác lập các nguyên tắc nền tảng của bản hiến pháp tương lai. Đây là một hoạt động rất quan trọng có ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Tùy từng quốc gia, có thể Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp hoặc Ủy ban sửa đổi hiến pháp sẽ được trao quyền định ra các nguyên tắc nền tảng của hiến pháp mới hoặc hiến pháp sửa đổi.
Bước 4: Xây dựng Dự thảo Hiến pháp
Các nguyên tắc nền tảng của hiến pháp mới (hoặc sửa đổi) phải được cụ thể hóa thông qua hoạt động xây dựng Dự thảo hiến pháp. Các cơ quan có quyền quyết định các nguyên tắc nền tảng có thể trực tiếp xây dựng dự thảo hoặc thành lập ra các cơ quan khác để xây dựng Dự thảo. Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp có thể trực tiếp xây dựng Dự thảo hiến pháp hoặc thành lập Ủy ban sửa đổi hiến pháp để thực hiện chức năng này.
Ở Việt Nam, việc xây dựng dự thảo chủ yếu do cơ quan dự thảo (thường có tên là Ủy ban dự thảo), do Quốc hội thành lập và có nhiệm vụ giúp Quốc hội trong việc xây dựng dự thảo sửa đổi hiến pháp. Ủy ban dự thảo tổ chức nghiên cứu, thảo luận, lấy ý kiến nhân dân để xây dựng dự thảo hiến pháp trình Quốc hội và các cơ quan có liên quan. Để thực hiện tốt nhiệm vụ, Ủy ban dự thảo thường thành lập thêm thường trực ủy ban và cơ quan chuyên môn giúp việc (Tổ biên tập, Ban biên tập hoặc Tiểu ban nghiên cứu) để giúp Ủy ban dự thảo trong việc xây dự thảo. Cơ quan chuyên môn giúp việc thường bao gồm các thành viên của chính Ủy ban dự thảo có chuyên môn phù hợp trong việc soạn thảo, xây dựng dự thảo. Thành phần cơ quan chuyên môn giúp việc có thể mở rộng thêm các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, những người làm thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật có liên quan.
Bước 5: Tham vấn nhân dân
Tham vấn nhân dân trong quá trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp là lấy ý kiến nhân dân về các vân đề xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Hoạt động tham vấn nhân dân được thực hiện trong suốt trong quy trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Bước 6: Thảo luận
Việc thảo luận được tiến hành trong nhiều khâu của quá trình sửa đổi hiến pháp, đặc biệt trong các cơ quan soạn thảo, cơ quan chuyên môn, các cơ quan của Quốc hội (Ủy ban thường vụ Quốc hội, các ủy ban chuyên môn của Quốc hội), các cơ quan nhà nước hoặc trong việc tổ chức tham vấn nhân dân về sửa đổi hiến pháp. Khâu quan trọng nhất của việc thảo luận về các nội dung sửa đổi hiến pháp là tại phiên họp toàn thể của Quốc hội.
Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam hiện hành, Quốc hội có chức năng lập hiến. Như vậy, mô hình lập hiến của nước ta là trao quyền làm hiến pháp, sửa đổi hiến pháp cho Quốc hội chứ không trao cho một cơ quan lập hiến đặc biệt như Hội đồng/Quốc hội lập hiến như ở một sô quốc gia.
Trong phiên họp toàn thể, Ủy ban dự thảo sẽ trình dự thảo ra trước Quốc hội, trong đó tập trung vào các vấn đề như: Tính cấp thiết của việc sửa đổi hiến pháp; chủ trương, định hướng sửa đổi hiến pháp của Đảng, Nhà nước; Kết quả tổng kết thi hành hiến pháp; Những quan điểm, định hướng sửa đổi của Cơ quan soạn thảo; Những nội dung cần phải sửa đổi; Lập luận giải trình cho những nội dung đó; Những vấn đề còn chưa/khó giải quyết, còn tranh cãi… Sau khi Ủy ban dự thảo trình dự thảo, các đại biểu Quốc hội sẽ thảo luận về các nội dung được trình bày cũng như những vấn đề khác có liên quan. Việc thảo luận tại Quốc hội thường phải được tiến hành ở nhiều kỳ họp, sau mỗi kỳ họp, Ủy ban dự thảo sẽ tiếp thu, chỉnh lý dự thảo theo ý kiến đóng góp của các đại biểu.
Bước 7: Thông qua
Để Dự thảo hiến pháp có hiệu lực thì nó cần phải được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Cơ quan có quyền thông qua có thể là Quốc hội lập hiến, Hội nghị lập hiến hoặc Quốc hội lập pháp.
Quốc hội thực hiện chức năng lập hiến tập trung nhất thông qua quyền biểu quyết dự thảo hiến pháp. Tại một phiên họp toàn thể, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua Dự thảo. Theo quy định của Hiến pháp hiện hành của Việt Nam, việc sửa đổi hiến pháp phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội tán thành. Điều này thể hiện tính trội của hiến pháp so với các đạo luật thông thường (chỉ cần quá nửa số đại biểu Quốc hội thông qua). Tuy nhiên, khác với ở Việt Nam, trong đó Quốc hội thông qua Dự thảo bằng việc ban hành Nghị quyết về việc sửa đổi hiến pháp, Quốc hội/Nghị viện các nước phải thông qua Luật về sửa đổi hiến pháp. Các Luật này có giá trị như hiến pháp, trội hơn các luật thông thường. Việc thông qua sửa đổi hiến pháp bằng Nghị quyết của Quốc hội làm giảm đi tính tối cao của hiến pháp. Thực tế, các Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1980 vào năm 1988, 1989 không được công bố chỉ vì quan niệm cho rằng Hội đồng Nhà nước chỉ có nhiệm vụ “công bố luật”(16).
Bước 8: Trưng cầu ý dân về sửa đổi hiến pháp
Để đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân dân, một số nước trao cho người dân có quyền trực tiếp có quyền quyết định cuối cùng hiến pháp mới (hoặc hiến pháp sửa đổi) sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua.
Trừ quy định của Hiến pháp 1946, các Hiến pháp sau này của Việt Nam không quy định bắt buộc “phúc quyết toàn dân” đối với sửa đổi hiến pháp. Hiến pháp 1946 có quy định: “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết” (Khoản c Điều 70). Trong khi đó, theo quy định của các hiến pháp còn lại, Nghị quyết thông qua của Quốc hội đối với dự thảo hiến pháp có giá trị quyết định đối với hiệu lực của các sửa đổi hiến pháp. Nhiều quan điểm cho rằng cách quy định trên của hiến pháp không cho phép phân biệt rõ ràng giữa quyền lập pháp và quyền lập hiến, không làm cho quyền lập hiến có ưu thế hơn quyền lập pháp. Hơn nữa, quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề hệ trong của quốc gia, đặc biệt về việc sửa đổi hiến pháp cần phải được đặc biệt coi trọng.
Bước 9: Công bố
Các Hiến pháp Việt Nam không quy định rõ hình thức công bố hiến pháp. Tuy nhiên, Chủ tịch nước có trách nhiệm công bố các Luật, Nghị quyết của Quốc hội. Điều đó có nghĩa Chủ tịch nước phải công bố hiến pháp sửa đổi (Hiến pháp là một đạo luật cơ bản) hoặc Nghị quyết sửa đổi hiến pháp. Trên thực tế hầu hết các hiến pháp (hoặc sửa đổi hiến pháp) đều được Chủ tịch nước công bố (trừ Hiến pháp 1946 và những Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1980 vào các năm 1988, 1989).
Câu hỏi 26
Những chủ thể nào tham gia xây dựng, sửa đổi hiến pháp?
Chủ thể ban hành hiến pháp và sửa đổi hiến pháp là nhân dân, nhưng nhân dân có tính chất đa dạng nên rất khó trực tiếp soạn thảo, sửa đổi và thông qua hiến pháp. Do đó, việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp thường được tiến hành thông qua những hình thức như Quốc hội lập hiến, Ủy ban Hiến pháp, Hội nghị quốc gia, các cuộc tranh luận bàn tròn, tham vấn nhân dân, trưng cầu ý dân…, trong đó có sự tham gia của nhiều chủ thể, bao gồm các cơ quan nhà nước, các đảng phái, tổ chức xã hội và người dân. Tuy nhiên, mọi hình thức đã nêu đều phải có sự ủy quyền của nhân dân.
Quốc hội lập hiến là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra (hoặc được đề cử) chỉ có chức năng lập hiến. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, Quốc hội lập hiến sẽ tự giải tán. Một số quốc gia lựa chọn phương thức này để đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân dân và phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp.
Khác với việc thành lập Quốc hội lập hiến, nhiều nước trao cho Quốc hội lập pháp quyền quyết định việc sửa đổi hiến pháp. Để phân biệt với quyền lập pháp, hiến pháp thường quy định các quy tắc đặc thù trong quá trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Uỷ ban Hiến pháp là các cơ quan trực tiếp tiến hành công việc đánh giá các vấn đề hiến pháp hiện hành (hoặc trước đó) và soạn thảo một hiến pháp mới. Việc lập một Uỷ ban sửa đổi hiến pháp thuộc Quốc hội cũng được nhiều nước lựa chọn. Để đảm bảo tính dân chủ của hiến pháp, nhiều nước mở rộng tính đa dạng trong thành phần của Uỷ ban Hiến pháp. Ví dụ như ở Thái Lan năm 1995, Uỷ ban sửa đổi hiến pháp được thành lập để soạn thảo một bản hiến pháp mới. Uỷ ban gồm 89 thành viên, trong đó 66 thành viên được chọn từ các tỉnh, mỗi tỉnh một đại diện. Số còn lại là các chuyên gia trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và hành chính công, được đề cử bởi các trường đại học và được thông qua bởi Nghị viện(17).
Hội nghị quốc gia được thành lập để sửa đổi hiến pháp khi muốn bảo đảm sự tham gia nhiều hơn của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Các hội nghị này thường có số lượng thành viên rất lớn, đại diện cho các đảng phái, các cơ quan nhà nước, các nhóm lợi ích, các tổ chức xã hội và tổ chức phi chính phủ. Số lượng có thể từ vài trăm đến vài nghìn người. Các hội nghị này có thể thành lập các ủy ban, hội đồng để trực tiếp đánh giá các vấn đề chuyên môn để trình và tư vấn cho hội nghị.
Nhiều nước coi trọng việc tổ chức các cuộc tranh luận bàn tròn giữa các chủ thể chủ chốt như các đảng phái, các cơ quan nhà nước trung ương, các nhà hoạt động xã hội và các nhà cải cách. Các cuộc thảo luận và đóng góp ý kiến ở các địa phương, với sự điều hành của các ủy ban tham gia sửa đổi hiến pháp và sự tham gia của nhân dân cũng là nhân tố quan trọng cho việc đánh giá hiến pháp. Ở Thái Lan, trong quá trình sửa đổi Hiến pháp năm 1997, rất nhiều cuộc tranh luận về cải cách hiến pháp đã được thực hiện bởi nhiều các nhóm xã hội khác nhau, trong đó có các nhà nghiên cứu, các nhà luật học và các chính trị gia. Nhờ vào những tranh luận này, rất nhiều vấn đề về văn hóa chính trị Thái Lan đã được tổng kết, ví dụ như : “thiếu vắng sự minh bạch”, “tham nhũng”, “sự bất ổn của các chính phủ dân sự” và “sự thiếu hiệu quả của các thể chế chính trị”(18).
Ngoài ra, tham vấn nhân dân và trưng cầu ý dân là những hình thức đặc thù đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Câu hỏi 27
Quyền lập hiến và quyền lập pháp giống và khác nhau như thế nào?
Quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp, sửa đổi hiến pháp. Quyền lập hiến được coi là “quyền nguyên thủy” so với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, bởi vì quyền lập hiến phản ảnh chủ quyền tối cao của nhân dân, quy định các quy tắc cho các quyền này. Trên cơ sở của hiến pháp, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được tổ chức và vận hành. Xuất phát từ lý do đó, quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được gọi là “các quyền phái sinh”.
Trong phạm vi quyền lập hiến, người ta cũng chia ra thành “quyền lập hiến nguyên thủy” và “quyền lập hiến phái sinh”. Quyền lập hiến nguyên thủy là quyền xây dựng bản hiến pháp đầu tiên hoặc làm một hiến pháp mới. Quyền lập hiến phái sinh chỉ là quyền sửa đổi bản hiến pháp hiện hành.
Quyền lập pháp là quyền làm luật, sửa đổi luật. Cũng như các quyền khác, quyền lập pháp được ghi nhận trong hiến pháp, do đó phải được tổ chức và thực hiện phù hợp với các quy định của hiến pháp. Để đảm bảo quyền lập hiến phải phù hợp với hiến pháp, các quốc gia thường trao quyền kiểm tra tính hợp hiến các đạo luật cho cơ quan tài phán hiến pháp (Tòa án Hiến pháp/Hội đồng Hiến pháp hoặc các tòa án tư pháp). Thiếu một thiết chế tài phán hiến pháp thì khó có thể bảo đảm tính hợp hiến của quyền lập pháp, tuy nhiên Việt Nam hiện vẫn chưa có một cơ quan tài phán hiến pháp như vậy.
Mặc dù có những điểm khác nhau cơ bản, quyền lập hiến và quyền lập pháp cũng có một số điểm tương đồng. Các quyền này đều đặt ra các quy tắc cơ bản trong việc tổ chức xã hội, có giá trị áp dụng bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Do vậy, các quyền này phải được trao cho những cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp). Ở Việt Nam, Quốc hội đồng thời có quyền lập hiến và lập pháp, tuy nhiên quy trình lập hiến và lập pháp rất khác nhau.
Câu hỏi 28
Quốc hội lập hiến và quốc hội lập pháp giống và khác nhau như thế nào?
Quốc hội lập hiến là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra (hoặc được đề cử) chỉ thực hiện chức năng lập hiến (làm hiến pháp và sửa đổi hiến pháp). Quốc hội lập hiến có nhiệm vụ duy nhất là lập hiến, do đó cơ quan này sẽ tự giải tán sau khi nhiệm vụ lập hiến được hoàn thành.
Quốc hội lập pháp (hay Nghị viện) cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhưng có chức năng cơ bản là lập pháp (làm luật và sửa đổi luật). Ngoài chức năng đại diện và lập pháp, Quốc hội còn thực hiện chức năng giám sát các cơ quan hành pháp. Quốc hội có thể chỉ bao gồm 1 viện (Quốc hội một viện) hoặc 2 viện (Hạ Nghị viện và Thượng Nghị viện), được bầu theo nhiệm kỳ, thường là 3 hoặc 5 năm.
Như vậy, mặc dù Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp đều là những cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân bầu ra, nhưng hai cơ quan này có những điểm khác nhau rất cơ bản: Quôc hội lập hiến là cơ quan có chức năng lập hiến, còn Quốc hội lập pháp là cơ quan thực hiện chức năng lập pháp; Quốc hội lập hiến chỉ là cơ quan lâm thời, trong khi Quốc hội lập pháp là cơ quan hoạt động thường xuyên; Quốc hội lập pháp được tổ chức và hoạt động phù hợp với các quy định hiến pháp do Quốc hội lập hiến quyết định.
Việc thành lập Quốc hội lập hiến phân biệt với Quốc hội lập pháp thể hiện nguyên tắc chủ quyền nhân dân và sự giới hạn quyền lực của Quốc hội lập pháp trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Nhiều hiến pháp không quy định thành lập Quốc hội lập hiến mà trao cho Quốc hội lập pháp thẩm quyền tham gia vào hoạt động xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Để phân biệt giữa quyền lập hiến và quyền lập pháp, hiến pháp các nước thường quy định những quy tắc phức tạp trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Câu hỏi 29
Kỹ thuật lập hiến là gì? Kỹ thuật lập hiến khác gì so với kỹ thuật lập pháp?
Kỹ thuật lập hiến theo nghĩa rộng là toàn bộ những cách thức soạn thảo, thông qua và ban hành hiến pháp. Theo nghĩa hẹp, kỹ thuật lập hiến là kỹ năng diễn đạt hiến pháp thông qua cách thức thể hiện/viết các điều khoản/quy định của hiến pháp. Kỹ thuật lập hiến có đặc điểm đặc biệt so với kỹ thuật lập pháp thông thường. Việc sửa đổi hiến pháp theo một quy trình đặc biệt có mục đích giới hạn quyền lực nhà nước. Nếu việc sửa đổi hiến pháp có thể được thực hiện một cách dễ dàng thì hiến pháp không còn có ý nghĩa.
Nhiều nước ngày nay trao quyền cho Nghị viện sửa đổi hiến pháp, nhưng quy trình lập hiến được bổ sung nhiều giai đoạn với sự tham gia của ủy ban hiến pháp, hội nghị quốc gia, hội nghị bàn tròn, tham vấn nhân dân hay trưng cầu ý dân. Việc thảo luận về dự thảo hiến pháp của Nghị viện cũng cẩn trọng hơn so với quy trình lập pháp, đặc biệt là hiến pháp thường chỉ được thông qua tại Nghị viện với đa số phiếu tuyệt đối. Ví dụ, Điều 79 Luật cơ bản của Đức quy định, một sửa đổi hiến pháp phải được thông qua bởi 2/3 phiếu của Hạ Viện và Thượng Viện. Việc sửa đổi hiến pháp thông qua hai giai đoạn: Bước 1: Quốc hội (Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện) đề xuất sửa đổi hiến pháp (khi 2/3 thành viên của cả hai viện yêu cầu); hoặc triệu tập Hội nghị để đề xuất sửa đổi hiến pháp (các cơ quan lập pháp của 2/3 các bang yêu cầu); Bước 2: Các tu chính án phải được các cơ quan lập pháp của 3/4 các bang; hoặc Hội nghị 3/4 các bang phê chuẩn.
Một số hiến pháp phân biệt hai loại sửa đổi hiến pháp: Sửa đổi toàn diện và sửa đổi bộ phận. Hiến pháp Thụy Sỹ năm 1874 là hiến pháp đầu tiên quy định về vấn đề này. Theo quy định của Hiến pháp Thụy Sỹ, mỗi loại sửa đổi hiến pháp có quy trình riêng. Hiến pháp Áo năm 1920 cũng có hai quy trình sửa đổi: sửa đổi toàn diện cần đa số tuyệt đối và trưng cầu ý dân; sửa đổi bộ phận chỉ cần đa số tuyệt đối.
Tòa án Hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính hợp hiến của sửa đổi hiến pháp. Tòa án Hiến pháp của Áo có thể tuyên bố hủy các sửa đổi “bộ phận” về một trong các nguyên tắc như dân chủ, cộng hòa, liên bang, pháp quyền, tự do, phân quyền, bởi vì việc sửa đổi các nguyên tắc trên được cho là những sửa đổi làm thay đổi cơ bản hệ thống hiến pháp, do đó phải được thực hiện theo quy trình sửa đổi “toàn diện”.
Câu hỏi 30
Có nội dung nào của hiến pháp không thể được sửa đổi không? Vì sao?
Việc sửa đổi hiến pháp khác với việc ban hành một bản hiến pháp mới ở chỗ có những nội dung của hiến pháp hiện hành không thể được sửa đổi. Một số hiến pháp ấn định việc cấm sửa một số nội dung của hiến pháp. Ví dụ, Hiến pháp Đức đặt ra các giới hạn về việc sửa đổi hiến pháp nhằm đảm bảo các nguyên tắc nền tảng mới (dân chủ, nhà nước pháp quyền, chế độ liên bang) được thiết lập sau khi chế độ quốc xã bị lật đổ. Khoản 3 Điều 79 của Luật Cơ bản (Hiến pháp) Đức quy định: Không được sửa đổi Luật Cơ bản về việc phân chia liên bang, nguyên tắc tham gia của các bang vào lập pháp và các nguyên tắc được nêu ở các Điều 1 và 20. Tòa án Đức chưa bao giờ đình chỉ một đạo luật sửa đổi hiến pháp nào theo quy định của Điều 79 (3). Hiến pháp của Pháp và Italy cấm việc sửa đổi hiến pháp về chính thể cộng hòa. Hiến pháp Bồ Đào Nha đặt ra rất nhiều quy tắc chặt chẽ đối với việc sửa đổi hiến pháp. Ngoài ra, hiến pháp một số nước còn cấm sửa hiến pháp trong một số hoàn cảnh nhất định.
Việc hạn chế sửa đổi các nội dung nhất định trong hiến pháp chủ yếu nhằm duy trì các nguyên tắc căn bản nhất cả một xã hội dân chủ (dân chủ, cộng hòa, pháp quyền, tôn trọng phẩm giá con người…). Những nguyên tắc này là bât di bất dịch, không thể thay đổi trong hiến pháp.
Câu hỏi 31
Những yếu tố nào tạo nên tính bền vững của hiến pháp?
Một bản hiến pháp có tính bền vững thể hiện thông qua hiệu lực lâu dài, ổn định của nó. Với tư cách là đạo luật cơ bản và tối cao, hiến pháp đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội, do vậy, nó thể hiện sự tôn trọng của nhà nước, nhân dân và toàn xã hội. Ngược lại, một hiến pháp được thay thế, sửa đổi thường xuyên làm ảnh hưởng đến tính “tối cao” và “cơ bản” của hiến pháp.
Tính bền vững của hiến pháp có thể’ chịu ảnh hưởng của những yếu tố tạo sau:
• Bối cảnh chính trị-xã hội: Trong một xã hội pháp quyền dựa trên nền tảng của chủ nghĩa hợp hiến, hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị pháp lý tối cao, được xã hội, kể cả các đảng phái và nhà nước tôn trọng và thực thi. Ngược lại, các lực lượng chính trị nắm quyền có thể liên tục sửa đổi hiến pháp để phục vụ cho các mục đích chính trị.
• Kỹ thuật lập hiến: Tính cơ bản của hiến pháp thông qua cách quy định khái quát, mang tính định hướng tạo nên tính bền vững của hiến pháp. Trong khi đó, hiến pháp có các quy định quá chi tiết có thể phải sửa đổi thường xuyên hơn để phù hợp với những thay đổi của đời sống thực tiên.
• Phạm vi điều chỉnh của hiến pháp: Các bản hiến pháp cổ điển chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về tổ chức quyền lực nhà nước cùng mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và cá nhân (quyền con người, quyền công dân), trong khi các bản hiến pháp của các nước XHCN trước đây và các nước đang chuyển đổi lại mở rộng phạm vi điều chỉnh sang các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh và quốc phòng. Cách quy định mở rộng sẽ làm cho hiến pháp thường xuyên cần thay đổi hơn.
Mặc dù tính bền vững được coi là một tiêu chí đánh giá sự thành công của một bản hiến pháp, sự thay đổi (ban hành mới hoặc sửa đổi) hiến pháp có thể nhằm những mục đích tích cực, như để giải quyết các mâu thuẫn, các vấn đề hiến pháp, cải cách và dân chủ hóa đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn chuyển đổi.
Câu hỏi 32
Vị trí, vai trò của nhân dân trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp?
Hiến pháp là bản khế ước xã hội, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, do đó nhân dân có vai trò quyết định trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Nhân dân tham gia vào việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp bằng việc thành lập, giám sát các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập hiến (như Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp…).
Sự tham gia trực tiếp, tích cực và quyết định của nhân dân trong toàn bộ quy trình lập hiến (tham vấn nhân dân, trưng cầu ý dân..) là những hình thức đảm bảo quyền lập hiến thuộc về nhân dân.
Mức độ, tính chất sự tham gia của nhân dân trong quy trình lập hiến thể hiện tính hợp pháp và giá trị của bản hiến pháp. Người dân phải có quyền và được bảo đảm quyền được thông tin về chính sách sửa đổi hiến pháp, quyền bảy tỏ các ý kiến đánh giá hiến pháp hiện tại cũng như những nguyện vọng cho một bản hiến pháp trong tương lai.
Câu hỏi 33
Trưng cầu ý dân về hiến pháp là gì?
Để đảm bảo chủ thể ban hành và sửa đổi luôn luôn thuộc về nhân dân, các bản hiến pháp mới hoặc hiến pháp sửa đổi của các quốc gia thường được đưa ra nhân dân bỏ phiếu thông qua. Việc bỏ phiếu này thường được gọi là cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp. Trưng cầu ý dân (phúc quyết toàn dân) về những sửa đổi hiến pháp là việc người dân trực tiếp quyết định giá trị pháp lý của dự thảo hiến pháp đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua. Hiến pháp chỉ có giá trị khi được quá nửa số người dân tham gia cuộc trưng cầu ý dân đồng ý thông qua. Đây có thể nói là hình thức tham vấn trực tiếp và mạnh mẽ nhất: Trao cho nhân dân quyền đồng ý hay không đồng ý dự thảo hiến pháp.
Trưng cầu ý dân về sửa đổi hiến pháp thể hiện rõ tư tưởng về chủ quyền nhân dân. Như vậy, trưng cầu ý dân là một hình thức đặc thù của việc lấy ý kiến nhân dân. Các hình thức tham vấn nhân dân về dự thảo hiến pháp chỉ có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra các quyết định có giá trị pháp lý, trong khi trưng cầu ý dân về dự thảo hiến pháp cho phép người dân trực tiếp quyết định đồng ý hay không đồng ý các dự thảo hiến pháp. Trưng cầu ý dân là một chế định hiến pháp tồn tại trong nhiều hệ thống chính trị khác nhau ở các châu lục.
Câu hỏi 34
Tham vấn nhân dân trong quá trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp là gì?
Tham vấn nhân dân là hoạt động trong toàn bộ quy trình sửa đổi hiến pháp, trong đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các vấn đề xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Hiến pháp là bản khế ước xã hội của nhân dân
Hiến pháp là đạo luật về chủ quyền nhân dân. Hiến pháp khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, hay nói cách khác quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân trao cho và để phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.
Theo lý thuyết khế ước xã hội, các quyền tự nhiên của con người chỉ có thể được đảm bảo khi các cá nhân cùng nhau thiết lập một khế ước chung, trong đó quyền lực nhà nước bị giới hạn, các quyền và tự do của con người được ghi nhận và bảo vệ. Với quan niệm hiến pháp là bản khế ước thì việc xây dựng, soạn thảo hiến pháp phải có sự tham gia của đông đảo nhân dân nhằm đảm bảo chủ quyền nhân dân. Nhân dân có quyền tranh luận, trao đổi, bày tỏ quan điểm, đánh giá về các vấn đề hiến pháp; và quan trọng hơn, những ý kiến, quan điểm của họ phải được lắng nghe. Mặc dù những điều kiện trên phụ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh thực tế(19), nhưng sự tham gia của nhân dân trong việc làm hiến pháp cho phép nâng cao tính trung thực của các đánh giá hiến pháp, từ đó có những quy định hiến pháp phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Một quy trình sửa đổi, bổ sung hiến pháp quan trọng
Về mặt lý thuyết, việc nhân dân trực tiếp làm hiến pháp sẽ phản ánh rõ ràng nhất chủ quyền nhân dân. Tuy nhiên, hình thức dân chủ trực tiếp hày khó thực hiện xuất phát từ những yếu tố khách quan, do đó nhân dân thường chỉ tham gia với những mức độ khác nhau vào quy trình làm hiến pháp. Thực tế, việc soạn thảo hiến pháp thường được trao cho các cơ quan chuyên môn như Ủy ban hiến pháp, việc thảo luận và thông qua được thực hiện ở Nghị viện/Quốc hội. Việc ủy quyền này một mặt phản ánh hình thức dân chủ đại diện, mặt khác đảm bảo tính chuyên môn, tập trung trong việc soạn thảo, thông qua hiến pháp. Tuy vậy, ở nhiều nước, quy trình này khá khép kín, chỉ là công việc của các cơ quan nhà nước. Do vậy, các cơ quan nhà nước có thể không thực thi và đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân.
Để giám sát các quy trình soạn thảo hiến pháp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, đảm bảo cho quy trình làm hiến pháp ngày càng dân chủ, hiến pháp nhiều nước quy định nhiều hình thức nâng cao sự tham gia của nhân dân trong quá trình soạn thảo hiến pháp, trong đó rất coi trọng việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo hiến pháp.
Hơn hữa, việc tham vấn nhân dân cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ủy ban hiến pháp) có thể thây được các vấn đề của người dân, tìm hiểu và tiếp nhận các thông tin, ý kiến hình thành từ cơ sở, cộng đồng xã hội và người dân. Mặt khác, những hoạt động hày cũng giúp tạo ra sự hiểu biết và chấp nhận của người dân về hiến pháp – một tiêu chí đánh giá quan trọng của một hiến pháp thành công. Sự tham gia này có giá trị lâu dài sau khi hiến pháp ra đời, bởi vì sự thực thi hiến pháp chỉ có giá trị khi người dân hiểu biết, chấp nhận và sử dụng nó.
Tiếp nữa, thực tế một số nước đã chỉ ra rằng các ủy ban sửa đổi hiến pháp không thể giải quyết được nhiều vân đề (do không đồng thuận/vấn đề khách quan phức tạp…). Trong trường hợp hày, cần phải tổ chức tham vấn nhân dân. Ví dụ như ở Uganda, khi có nhiều vấn đề
không thể tìm tiếng nói chung, Hội đồng hiến pháp đã quyết định đưa các vấn đề này ra tham vấn nhân dân và quyết định theo các ý kiến đa số nhằm giải quyết các bất đồng.
Ở Việt Nam, việc tham vấn nhân dân chủ yếu được thực hiện trong giai đoạn lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo hiến pháp đã được chuẩn bị.
Câu hỏi 35
Xã hội dân sự và hiến pháp có mối quan hệ như thế nào? Các tổ chức xã hội dân sự có vai trò như thế nào trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp?
Hiến pháp của các quốc gia rất ít có quy định trực tiếp về xã hội dân sự, nhưng thông qua nội dung của Hiến pháp, nhất là các quy định về nhân quyền, xã hội dân sự được hình thành và phát triển. Những quy định của hiến pháp có liên quan nhiều nhất đến xã hội dân sự là các quyền tự do hội họp, lập hội, tự do ngôn luận. Không có một xã hội phát triển nào mà ở đó không có sự phát triển của xã hội dân sự. Hiến pháp phải tạo nên môi trường thuận lợi và thúc đẩy cho sự phát triển này. Theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền: Nhà nước chỉ được làm những gì mà hiến pháp và pháp luật cho phép, ngược lại, người dân có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, nên hoạt động của con người và sự liên kết củng cố cho hoạt động của họ là rất rộng. Hiến pháp, thông qua các quy định về quyền con người, như một đường ray vạch ra sự hạn hẹp của hoạt động nhà nước và các lĩnh vực rộng rãi cho hoạt động của hgười dân thông qua các tổ chức xã hội của họ.
Hiến pháp, như là một bản khế ước xã hội, có trước và đứng trên nhà nước (bao gồm ba quyền cơ bản lập pháp, hành pháp và tư pháp), nên việc làm ra hiến pháp cũng như việc sửa đổi hiến pháp càng có ít sự tham gia của nhà nước là càng tốt. Vì vậy, với tư cách là các nhóm, tổ chức phi nhà nước, các tổ chức của xã hội dân sự càng tham gia vào việc xây dựng, soạn thảo và sửa đổi hiến pháp càng nhiều càng tạo thêm cơ hội có một bản hiến pháp hoàn hảo hơn.
Các tổ chức xã hội dân sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, các tổ chức này cũng có thể đóng nhiều vai trò khác nhau trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Chẳng hạn như:
• Hỗ trợ nhân dân nâng cao nhận thức về các vấn đề hiến pháp, về các quyền hiến định của họ;
• Tổ chức cho người dân đóng góp cho việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp;
• Tập hợp các ý kiến, kiến nghị xây dựng, sửa đổi hiến pháp để đề xuất các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
• Vận động chính sách để chuyển hóa các ý chí, nguyện vọng của nhân dân được tiếp thu trong quá trình xây dựng, sửa đổi hiến pháp.
Câu hỏi 36
Vai trò của các tổ chức chính trị trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp?
Mặc dù các tổ chức chính trị (các đảng phái chính trị) thường không được hiến pháp trao cho sáng quyền lập hiến, nhưng vì hiến pháp là đạo luật của nhân dân, mà nhân dân với tính chất đa dạng không thể trực tiếp soạn thảo và thông qua hiến pháp, cần phải có những tổ chức được thành lập ra từ nhân dân với chức năng tập hợp, vận động nhân dân, cổ súy cho các dòng tư tưởng tạo nền tảng nên một bản dự thảo hiến pháp. Trong các chế độ đa đảng, các đảng phái có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, sửa đổi hiến pháp. Các đảng phái tham gia vào quy trình lập pháp thông qua nhiều hình thức như: cử đại diện vào các cơ quan lập hiến, thảo luận, đề xuât các phương án, ý kiến xây dựng, sửa đổi hiến pháp…
Tương quan lực lượng giữa các đảng phái có ảnh hưởng lớn đến hoạt động lập hiến ở các quốc gia. Một đảng (hoặc liên minh đảng) cầm quyền mạnh có thể chi phối, quyết định việc sửa đổi hiến pháp. Để tránh khả hăng lạm quyền của các lực lượng chính trị lớn trong việc sửa đổi hiến pháp, các nhà lập hiến thường quy định các quy tắc chặt chẽ cho việc đề xuất, thảo luận và thông qua hiến pháp. Sự ra đời của những bản hiến pháp cương tính rất khó được sửa đổi là nhằm hướng tới mục đích hày.
Ở Việt Nam, Đảng Cộhg sản Việt Nam hiện hay và Đảng Lao động Việt Nam trước đây, mặc dù không được hiến pháp quy định là một chủ thể có sáng quyền lập hiến, nhưng với tư cách là chính đảng cầm quyền nên luôn là chủ thể quan trọng nhất cho việc xây dựng và sửa đổi hiến pháp.
Câu hỏi 37
Tại sao cho đến trước năm 1945, Việt Nam không có hiến pháp?
Trước năm 1945, đã có nhiều người Việt Nam lên tiếng về việc quốc gia cần có hiến pháp, tuy nhiên, điều kiện lịch sử và tương quan giữa các lực lượng chính trị khi đó không cho phép ra đời một bản hiến pháp.
Từ cuối thế kỷ XIX, ngày càng có nhiều sĩ phu, trí thức lên tiếng đòi chính quyền nhà Nguyên thực hiện cải cách toàn diện để đưa đất nước thoát khỏi cảnh lạc hậu và có thể đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Tuy nhiên, những đề xuất đó đã không được lắng nghe. Triều đình nhà Nguyên tiếp tục duy trì chế độ phong kiến, mặc dù có một số vị vua tiến bộ muốn lãnh đạo nhân dân vũ trang chống Pháp. Nhiều sĩ phu yêu nước (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng…) đã sớm nhận ra sự cần thiết của hiến pháp đối với quốc gia. Dẫu vậy, có nhiều quan điểm, khuynh hướng khác nhau về việc xây dựng hiến pháp tại Việt Nam. Phan Bội Châu, từ năm 1907 đã nhắc đến tấm gương nước Nhật Bản có hiến pháp (Hiến pháp Minh Trị 1889), mong muốn đánh đuổi Pháp và thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam. Nhiều nhân vật khác lại có quan điểm cho rằng nên vận động để chính
quyền thực dân Pháp ban hành một bản hiến pháp cho Việt Nam.
Chỉ sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chế độ phong kiến bị lật đổ và nền cộng hòa được thiết lập, nhân dân Việt Nam mới thực sự có điều kiện để ban hành một bản hiến pháp.
Câu hỏi 38
Cho đến nay Việt Nam đã có mấy bản hiến pháp?
Kể từ Hiến pháp 1946 thiết lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lịch sử lập hiến Việt Nam đã có thêm 3 bản hiến pháp (1959, 1980 và 1992). Hiến pháp hiện hành được ban hành vào năm 1992, đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001. Ở miền Nam Việt Nam, trước năm 1975, cũng có hai bản hiến pháp được thông qua vào các năm 1956 và 1967.
Môi bản hiến pháp đều có những đặc điểm phản ánh bối cảnh ra đời. Hiến pháp 1946 khẳng định độc lập dân tộc và chủ quyền nhân dân, phản ánh tư tưởng xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân và bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), với chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam, Hiến pháp 1959 bắt đầu thể chế hóa con đường đi lên CNXH. Khi nước nhà thống nhất, quyết tâm tiến lên CNXH đã được thể hiện trong bản Hiến pháp 1980, chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình hiến pháp Liên Xô cũ trên cả phương diện nội dung và hình thức .
Chủ trương cứng nhắc về CNXH và những quy định của Hiến pháp 1980 đã không tạo điều kiện thúc đẩy dân chủ, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội dẫn đến khủng hoảng kinh tế, xã hội vào thập hiên 80 của thế kỷ trước. Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa chủ trương đổi mới, góp phần tạo ra động lực để hâng cao dân chủ, góp phần giải quyết khủng hoảng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những nền tảng cơ bản của hiến pháp này, với một số sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, được duy trì cho đến nay.
Câu hỏi 39
Hiến pháp 1946 có những đặc điểm và nội dung gì nổi bật?
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hiến pháp trong việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, chấm dứt chế độ quân chủ, tạo nên sự chính đáng của chính quyền cách mạng và thu hút sự ủng hộ của các quốc gia trên thế giới, ngay sau ngày Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945), tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu sự cần thiết phải sớm ban hành một bản hiến pháp cho Việt Nam. Để tiến hành soạn thảo hiến pháp, theo Sắc lệnh ngày 20/9/1945, một Uỷ ban dự thảo hiến pháp do Hồ Chủ tịch đứng đầu được thành lập. Bên cạnh việc xem xét dự thảo của Ủy ban hày, Quốc hội còn xem xét cả dự thảo của Ủy ban Kiến thiết Quốc gia. Dự thảo hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc Hội khoá I ngày 8/11/1946. Do tình hình chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được Chủ tịch nước công bố.
Hiến pháp 1946, hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc chính thức hóa chính quyền mới được hình thành. Hiến pháp gồm 7 chương, 70 điều. Chương I quy định về chính thể, theo đó Việt Nam là nhà nước dân chủ cộng hoà. Chương II quy định về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Chương III và Chương IV Hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, gồm các cơ quan: Nghị viện nhân dân, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và Toà án.
Về cơ cấu tổ chức nhà nước, Hiến pháp 1946 có những đặc điểm của chính thể cộng hòa lưỡng tính. Chủ tịch nước không những là nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu nhà nước, mà còn là trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Bên cạnh đó, người đứng đầu Chính phủ (Thủ tướng) phải do Nghị viện nhân dân (Quốc hội) thành lập và phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Trong khi đó, nguyên thủ quốc gia, mặc dù cũng do Nghị viện bầu ra, nhưng lại không phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Ngoài việc thể hiện mối quan hệ tương đối độc lập giữa lập pháp và hành pháp, Hiến pháp năm 1946 còn những đặc điểm khác rất đặc biệt với các hiến pháp Việt Nam sau này (các cơ quan tư pháp chỉ gồm hệ thống tòa án được tổ chức theo các cấp xét xử, mà không phải theo cấp đơn vị hành chính như quy định về sau này; việc tổ chức chính quyền địa phương có xu hướng phân biệt giữa thành phố, đô thị với các vùng nông thôn…).
Câu hỏi 40
Hiến pháp 1959 có những đặc điểm và nội dung gì nổi bật?
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, miền Bắc Việt Nam được xác định mục tiêu tiến lên xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ. Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội khoá I kỳ họp thứ 11 ngày 18/12/1959 thông qua, gồm 10 chương, 72 điều. Chương I tiếp tục quy định chính thể là dân chủ cộng hoà. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. So với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 có thêm chương về chế độ kinh tế và xã hội (Chương II). Chương III quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Từ Chương IV đến Chương VIII, Hiến pháp quy định về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
Hiến pháp 1959 là bản hiến pháp đầu tiên mang nhiều dấu ấn của việc tổ chức nhà nước theo mô hình XHCN (mô hình Xô-viết). Mặc dù tên gọi chính thể không thay đổi so với của Hiến pháp 1946 (Dân chủ Cộng hòa), nhưng nội dung tổ chức bên trong của bộ máy nhà nước có những quy định rất khác so với Hiến pháp 1946. Cơ chế tập trung được Hiến pháp này thể hiện bằng nhiều quy định (các tổ chức chính quyền địa phương được tổ chức như nhau ở tất cả các cấp chính quyền địa phương, Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát chung được thành lập, các cấp tòa án được tổ chức ra theo các đơn vị hành chính.) Nếu như ở Hiến pháp 1946, bộ máy nhà nước được quy định theo nguyên tắc phân quyền, thì bộ máy nhà nước của Hiến pháp 1959 được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, quyền lực tập trung vào Quốc hội.
Bắt đầu từ đây, các bản hiến pháp của nhà nước Việt Nam mang tính định hướng, tính chương trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với sự phát triển theo con đường xây dựng CNXH.

http://anhbasam04.wordpress.com/hien-phap/6-abc-ve-hien-phap-83-cau-hoi-dap/phan-i-khai-quat-ve-hien-phap-va-sua-doi-hien-phap/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét