Thứ Năm, 7 tháng 1, 2016

2015: Chuyển biến ngoạn mục và tương lai rộng mở

Bài viết mầu hồng của tôi cho báo Tết (các đồ thị không hiện lên được, rất tiếc):
Kinh tế vĩ mô: Chuyển biến ngoạn mục năm 2015 và tương lai rộng mở cho năm 2016
Thế là năm 2015 đã trôi qua; năm mới 2016 đã bắt đầu. Nhớ lại hồi đầu năm 2015, cả nước bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với nhiều tâm trạng lo lắng. Khi đó nền kinh tế đã đi vào thế tăng trưởng ổn định nhưng ở mức thấp so với tiềm năng; chất lượng tăng trưởng trì trệ; thị trường trong nước và thế giới đầy bất ổn và khó lường; giá dầu giảm mạnh gây áp lực nặng nề tới cân đối ngân sách nhà nước. Đặc biệt trong năm 2015 nhiều đồng tiền của các nước đối tác kinh tế chính, nhất là đồng nhân dân tệ của Trung Quốc, bị phá mạnh và lãi suất ở Mỹ liên tục được dự báo sẽ tăng lên đã gây tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu của nước ta. 
Ong cu, ba thac that nghiep: Tang gia
Tuy nhiên đáng mừng là nền kinh tế đã có bước chuyển biến rất ngoạn mục. Không những duy trì được sự ổn định kinh tế vĩ mô, chúng ta còn nâng được tốc độ tăng trưởng kinh tế lên khá cao trong khi tỷ lệ lạm phát được đưa về mức lý tưởng. Rõ ràng với bối cảnh hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tương lai sáng sủa đang mở ra cho đất nước trong năm 2016.

Tăng trưởng kinh tế bất ngờ khởi sắc ngoạn mục
Có thể nói tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2015 đạt xấp xỉ 6,7% là một thành tích khá bất ngờ và đầy ngoạn mục. Tốc độ này không chỉ tăng khá mạnh so với các năm 2012-2014 và vượt khá xa kế hoạch đề ra (6,2%) mà còn là mức cao nhất trong 8 năm qua (kể từ năm 2008). Cần nói thêm là tốc độ tăng trưởng ngoạn mục này đã đạt được trong điều kiện giá tiêu dùng vẫn ổn định (CPI chỉ tăng 0,6%, thấp nhất trong 15 năm 2001-2015). Kết quả này khẳng định không những nền kinh tế đã phục hồi vững chắc sau nhiều năm trì trệ mà đã bắt đầu tiếp cận với tốc độ tăng trưởng tiềm năng, tức là đã đi vào thế phát triển bền vững và hiệu quả.
Điểm sáng thứ hai gắn liền với tăng trưởng là quá trình tái cơ cấu kinh tế dù còn chậm nhưng đã đi đúng hướng và bước đầu phát huy hiệu quả tích cực. Năng suất và chất lượng được cải thiện. Môi trường đầu tư kinh doanh đã có bước tiến đột phá, trong năm đã tăng được 3 bậc về cải thiện môi trường kinh doanh theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới và tăng 12 bậc về năng lực cạnh tranh theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới; đặc biệt, chỉ số sáng tạo của nền kinh tế tăng 19 bậc. Nhiều chỉ số khác về vĩ mô cũng đang tiến tới những con số tốt hơn rất nhiều so với những năm trước. Hầu hết các ngành công nghiệp chế biến đều có tốc độ tăng trưởng khá cao, nhất là, sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học; xe có động cơ; thiết bị điện; sản phẩm da, dệt, giấy và các sản phẩm từ giấy, sản phẩm từ cao su và chất dẻo, sản xuất và phân phối điện; giường, tủ, bàn, ghế và đồ dùng gia đình... Thị trường bất động sản đã bước đầu phục hồi khá vững chắc; ngành xây dựng tăng trưởng 10,8% so với năm 2014, cao nhất kể từ năm 2010. Tính chung, tốc độ tăng trưởng toàn khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 9,6%, tăng mạnh so với năm 2014 (6,4%) và năm 2013 (5,1%). Khu vực nông nghiệp mặc dù gặp những khó khăn rất lớn về thời tiết và giảm giá trên thị trường nông sản thế giới nhưng vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng 2,4%, trong khi khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng 6,3%, tăng nhẹ so với năm 2014 (6,2%). Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Điểm sáng thứ ba là hoạt động của khu vực doanh nghiệp đã chuyển biến rất tích cực; số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và số vốn tăng cao. Năm 2015, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 26,6% và số vốn tăng tới trên 39% (năm 2014, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 2,7% trong khi số vốn chỉ tăng 8,4% so với năm 2013). Đặc biệt, trong năm 2015 có 21506 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 39,5% so với năm trước. Điều này cho thấy hiệu quả của các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Bộ, ngành, địa phương trong việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và hỗ trợ khu vực doanh nghiệp phát triển và cũng là hệ quả của việc đưa vào áp dụng Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi) từ tháng 7/2015.
Thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu: Động lực chính của tăng trưởng
Đáng chú ý là trong khi Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế rất ngoạn mục thì đa số các nước Đông Nam Á và châu Á đều gặp nhiều khó khăn và trì trệ. Do tác động của suy thoái thương mại toàn cầu và tốc độ tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng của các nước Đông Nam Á trung bình chỉ đạt 4,4%. Điểm khác biệt khá rõ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực là Việt Nam liên tiếp thu hút được khối lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cao kỷ lục và duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu mạnh mẽ nhờ vị trị địa lý thuận lợi, chi phí hoạt động và nhân công rẻ, môi trường đầu tư, kinh doanh liên tục được cải thiện cũng như việc Việt Nam đã và đang tham gia nhiều hiệp định thương mại khu vực và quốc tế.
Trong năm 2015, Việt Nam đã đẩy nhanh tốc độ tái cơ cấu đầu tư đi đôi với việc tiếp tục giảm dần đầu tư công và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, hoàn thiện thể chế về đầu tư nhằm huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Việc triển khai, thực hiện có hiệu quả các văn bản pháp quy quan trọng trong hoạt động đầu tư như Luật đầu tư công, Luật đầu tư (sửa đổi), Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Luật đấu thầu, Nghị định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP)... đã góp phần tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, đã tháo gỡ nhiều vướng mắc, khó khăn để đẩy nhanh tiến độ giải ngân các chương trình dự án sử dụng nguồn vốn ODA và FDI; đã chú trọng thu hút FDI theo hướng nâng cao chất lượng nguồn vốn, ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ cao, thân thiện với môi trường, sản xuất các sản phẩm có khả năng cạnh tranh và tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, các dự án phát triển công nghệ phụ trợ. Do đó trong khi vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện năm 2015 tăng 12% so với năm 2014 (bằng 32,6% GDP) thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng tới 19,9%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2015 đã có 2013 dự án được cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 15,6 tỷ USD; đồng thời có 814 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước được cấp vốn bổ sung với 7,18 tỷ USD. Như vậy tổng vốn đăng ký của các dự án cấp mới và vốn cấp bổ sung đạt 22,8 tỷ USD, tăng 12,5% so với năm 2014. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2015 ước đạt 14,5 tỷ USD, tăng 17,4%. Kết quả thu hút vốn FDI năm 2015 cho thấy Việt Nam đang là một điểm đầu tư rất hấp dẫn so với các nước ASEAN khác.
Xuất khẩu cũng là một lĩnh vực quan trọng được Việt Nam phát triển tốt hơn so với các nước khác trong khu vực. Năm 2015, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 162,4 tỷ USD, tăng 8,1% so với năm 2014; nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch xuất khẩu tăng 12,4%, xấp xỉ bằng năm 2014. Đặc biệt, nếu không kể dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu đạt 111,3 tỷ USD, tăng tới 18,5%.
Năm 2015 cũng đánh dấu sự thành công của Việt Nam trong nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng ưu tiên cho xuất khẩu, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu đi đôi với đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu. Mặc dù giá nhiều mặt hàng xuất khẩu giảm mạnh nhưng kim ngạch xuất khẩu một số nhóm hàng chủ lực vẫn tăng khá, nhất là nhóm hàng hóa gia công lắp ráp, may mặc và điện tử (điện thoại các loại và linh kiện tăng 29,9%, điện tử máy tính và linh kiện tăng 38,2%, hàng dệt may tăng 8,2%, giày dép tăng 16,2%...). Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước tính đạt 33,5 tỷ USD, tăng 17% so với năm 2014 và chiếm tỷ trọng 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp theo là thị trường EU với 30,9 tỷ USD, tăng 10,7% và chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường Trung Quốc ước tính đạt 17 tỷ USD, tăng 13,7%...
Như vậy, trong khi tiêu dùng cuối cùng năm 2015 chỉ tăng 9,1% so với năm 2014, tức là gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng trưởng gấp 3 lần và khối lượng xuất khẩu tăng trưởng gấp 2 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Điều này chứng tỏ đầu tư nước ngoài và xuất khẩu đang là động lực chính của quá trình tăng trưởng kinh tế.
Khái quát chung, năm 2015 có thể được xem là một năm thành công vượt dự kiến. Bên cạnh những thành tựu ngoạn mục về tăng trưởng, đầu tư và xuất khẩu nêu trên, trong năm 2015 kinh tế tiếp tục có nhiều điểm sáng nổi bật khác như chính sách tiền tệ, tài khóa được điều hành linh hoạt, hiệu quả và phù hợp với diễn biến của thị trường; do đó mặt bằng giá ổn định trong khi tín dụng vẫn tăng trưởng tới 18% và lãi suất đã giảm xuống mức phù hợp với tình hình phát triển kinh tế; nợ xấu từng bước được kiểm soát chặt chẽ; dự trữ ngoại tệ đạt mức cao; môi trường thể chế được cải thiện; niềm tin của các nhà đầu tư được củng cố và tăng lên; công tác an sinh xã hội được tăng cường; tỷ lệ thất nghiệp thành thị và hiện tượng thiếu đói ở nông dân đều giảm đáng kể... Việt Nam tiếp tục được quốc tế vinh danh là một trong những quốc gia thực hiện tốt các Mục tiêu Thiên niên kỷ, đặc biệt trong lĩnh vực giảm nghèo.
Triển vọng năm 2016 và một số nhiệm vụ trọng tâm
Bước sang năm mới 2016, kinh tế nước ta sẽ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Trong khi hội nhập đang ngày càng sâu rộng và khẩn trương thì môi trường thế giới vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, nhất là vì nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn FDI và thị trường xuất khẩu.
Theo dự báo tháng 12/2015 của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và nhiều tổ chức tài chính, chuyên gia quốc tế, nhìn chung trong năm 2016 nền kinh tế thế giới vẫn trong bối cảnh phát triển ảm đạm. Do ảnh hưởng của tăng trưởng yếu tại các nước công nghiệp phát triển, sự hồi phục chậm hơn dự kiến ​​của Mỹ và nguy cơ suy thoái kinh tế ở Nhật Bản, các nền kinh tế đang phát triển ở châu Á năm 2016 sẽ chỉ tăng trưởng trung bình 6% (năm 2015 là 5,8%). Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 6,9% năm 2015 nhưng dự báo sẽ chỉ tăng 6,7% năm 2016. Riêng khu vực Đông Nam Á sẽ nâng mức tăng 4,4% năm 2015 lên 4,9% năm 2016 nhờ sự phát triển khá cao của nhóm các nước kém phát triển nhất gồm Việt Nam, Myanmar, Lào và Campuchia. Giá dầu thế giới đang có xu hướng giảm và dự báo sẽ ổn định ở mức thấp.
Trong nước, nền kinh tế vẫn đang tồn tại nhiều yếu kém chậm được khắc phục trong khi tăng trưởng phụ thuộc ngày càng lớn vào khu vực kinh tế đối ngoại (đầu tư nước ngoài và xuất khẩu) nên vừa kém hiệu quả, vừa có nguy cơ bất ổn cao. Tình trạng lãng phí, tham nhũng, cửa quyền vẫn phổ biến; vai trò của khu vực tư nhân còn rất yếu, chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân mạnh đủ sức làm trụ cột lôi kéo toàn khu vực kinh tế này phát triển. Công tác xử lý nợ xấu còn nhiều vướng mắc. Tiến trình tái cơ cấu chậm làm cho chất lượng tăng trưởng thấp. Do phụ thuộc vào vốn nước ngoài nên nhập khẩu cao; nhập siêu đã trở lại sau 3 năm liên tục xuất siêu. Chất lượng nguồn nhân lực vẫn là điểm yếu làm cho năng suất lao động thấp, hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn nền kinh tế bị hạn chế.
Tuy nhiên có thể nói bối cảnh phát triển năm 2016 sẽ có nhiều mặt rất thuận lợi so với các năm trước. Đại hội Đảng lần thứ XII thành công là nhân tố nền tảng để Việt Nam ổn định và quyết liệt thực hiện các mục tiêu đã đề ra như giữ vững những cân đối vĩ mô, đẩy mạnh tái cơ cấu nền sản xuất, nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường phù hợp, đấu tranh chống tham nhũng, cải cách bộ máy nhà nước và công tác cán bộ theo hướng tận tâm phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân...
Đặc biệt, tham gia AEC, TPP  và các hiệp định thương mại tự do khác sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho nền kinh tế đang thành công trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và tăng trưởng xuất khẩu như Việt Nam. Theo trang BBC ngày 31/12/2015, Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) trên trang web tiếng Việt của mình đã dự báo: "Sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN năm 2015 sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng GPD của Việt Nam thêm 14,5% và tăng trưởng việc làm thêm 10,5% nếu như Việt Nam có sự quản lý hợp lý và thực thi một cách hiệu quả", trong khi đã có nhiều chuyên gia dự báo Việt Nam sẽ là người thắng cuộc lớn nhất sau khi thành hình cộng đồng AEC và khi TPP đi vào hiện thực. Do vậy có thể tin tưởng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2016 sẽ cao hơn so với năm 2015, ít nhất cũng đạt khoảng 6,8-7%.
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng nêu trên, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ những khó khăn, thách thức đang và sẽ đặt ra để vừa có giải pháp khắc phục vừa chủ động khai thác thật tốt nhiều cơ hội chắc chắn sẽ tới, đặc biệt cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là tiếp tục duy trì vững chắc ổn định kinh tế vĩ mô đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhấn mạnh sử dụng nguồn vốn con người, phát huy sức mạnh của trí tuệ con người thay cho nguồn vốn đầu tư cũng như các nhân tố phát triển theo chiều rộng khác. Tập trung tâm trí và sức lực xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học và thực hiện triệt để nguyên tắc thượng tôn pháp luật, xây dựng một thể chế kinh tế thị trường thực sự lành mạnh, theo đúng chuẩn mực quốc tế để động viên được sức mạnh của toàn dân, toàn thể cộng đồng doanh nghiệp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Đây cũng chính là những vấn đề then chốt phải xử lý để đất nước tăng trưởng nhanh, bền vững và thoát được ra khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.
Hai là khẩn trương rà soát, hoàn thiện thể chế, chính sách để chủ động hội nhập và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Tuyên truyền, hướng dẫn doanh nghiệp tiếp cận thông tin đầy đủ về AEC, TPP và các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Để phát huy được lợi ích của hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp trong nước phải chủ động và tích cực khai thác thông tin, tìm kiếm đối tác để có cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng, sản xuất, kinh doanh toàn cầu; đồng thời mỗi doanh nghiệp, mỗi người lao động phải tự trang bị kiến thức cần thiết trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng và gay gắt hiện nay. Cộng đồng doanh nghiệp tự đổi mới cơ cấu tổ chức và hình thức sinh hoạt của các hội, hiệp hội nghề nghiệp, xây dựng và phát triển liên kết giữa các doanh nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn hóa trong quy trình sản xuất sản phẩm cùng ngành nhằm tiết kiệm chi phí, tăng năng suất và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Ba là tăng cường vai trò của khu vực kinh tế trong nước, nhất là khu vực kinh tế tư nhân trong nước; tập trung tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp và thực hiện các giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Phát triển mạnh thị trường nội địa với nhiều loại sản phẩm được sản xuất trong nước đi đôi với đa dạng hóa thị trường xuất khẩu; phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào, góp phần kiểm soát tình trạng nhập siêu, tiến tới giữ và ổn định cán cân thương mại ở mức hợp lý. Nghiên cứu, thực hiện các giải pháp giảm nhập siêu với Trung Quốc.

Bốn là nâng cao hiệu quả, hiệu lực nền hành chính công và cải cách hành chính. Tổ chức giám sát việc triển khai thực thi pháp luật, đánh giá thực chất đội ngũ cán bộ, công chức, cương quyết loại bỏ những người gây cản trở, trục lợi, gây khó khăn cho doanh nghiệp, người dân. Kiên quyết phòng chống tham nhũng và giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề đang gây bức xúc trong xã hội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét