Kinh tế vĩ mô 2014:
Ổn định về lượng, trì trệ về chất, chưa rõ tương lai
Ảnh chủ Blog chụp tại đồn biên phòng xã
Loong Sập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Ảnh chủ Blog chụp tại đồn biên phòng xã
Loong Sập, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La
8) Đánh giá toàn cảnh kinh tế vĩ
mô năm 2014:
Nhìn
bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô năm 2014 nêu trên, có thể khẳng định nền kinh
tế tiếp tục có những tiến bộ nhất định và quan trọng hơn, đang đi đúng hướng
mặc dù bước đi còn rất chậm và chưa ổn định. Đối với một nền kinh tế mới thoát
khỏi ngưỡng nước nghèo chưa lâu, trong điều kiện cơ cấu kinh tế vĩ mô mất cân
đối nghiêm trọng kéo dài, đạt được những thành tựu vĩ mô nêu trên là rất đáng
khích lệ.
Điểm
sáng lớn nhất là các cân đối vĩ mô sau khi chuyển dịch về các “tọa độ” cân bằng
trung hạn trong năm 2013 đã tiếp tục được củng cố trong năm 2014; do đó tới đây
nếu không có bất ngờ xảy ra thì sẽ bền vững và hiệu quả; trên cơ sở này có thể
điều chỉnh lớn về thể chế và cơ cấu kinh tế, từ đó mở ra một giai đoạn tăng
trưởng mới với tốc độ và chất lượng cao hơn.
Cần
nhắc lại là đối với mỗi nền kinh tế đều có một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm
năng (trung, dài hạn) đi kèm với những cân đối vĩ mô tương ứng. Điều này cũng
giống như một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng phải đi kèm với một tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên hay một tỷ lệ lạm phát tự nhiên.
Nếu
đưa tất cả vào một mô hình tính toán cân đối, hoàn toàn có thể xác định được đi
kèm với một tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng cân bằng trung hoặc dài hạn, ví
dụ 7-7,5% như ở nước ta trong gần hai thập kỷ trước (1990-2007), 5,5-6% trong
giai đoạn hiện nay (bằng tốc độ tăng trưởng trung bình của 7 năm 2008-2014) và
khoảng 7-7,5% từ năm 2020 trở đi, thì những chỉ tiêu cơ bản liên quan như đầu
tư, lao động, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, ngân sách, lạm phát... cần tương ứng
là bao nhiêu. Đây chính là bộ các “tọa độ” cân bằng (trung, dài hạn), hay trục,
quỹ đạo tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. Nếu nền kinh tế đang phát triển
chệch (tăng trưởng nóng hoặc lạnh) với quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, thông qua
các điều chỉnh chính sách, chúng ta có thể đưa nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo
phát triển tiềm năng. Quá trình này gọi là bước hay quá trình điều chỉnh kinh
tế; thời gian cần thiết để quay trở lại được gọi là thời gian hay tốc độ điều
chỉnh kinh tế.
Lịch
sử phát triển kinh tế gần đây đã chứng minh rất rõ điều đó. Trong giai đoạn
trung hạn 2008-2014, nền kinh tế đã tăng trưởng quá nóng vào năm 2010 gây ra
những bất ổn rất nghiêm trọng, phải cần đến 3 năm 2011-2013 mới trở về được quỹ
đạo cân bằng thấp và thêm 1 năm 2014 để củng cố thế cân bằng bền vững và nâng
dần hiệu quả. Trong quá trình đó, đôi khi đã phải trả giá quá nhiều; ví dụ năm
2012 do hạ cánh quá nhanh, thắt chặt tài chính tiền tệ quá mạnh, tỷ lệ lạm phát
giảm đột ngột..., hàng trăm nghìn doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc đóng cửa dừng
hoạt động; đời sống người lao động và dân cư gặp rất nhiều khó khăn. Dự báo còn
cần ít nhất 1-2 năm nữa các cân bằng vĩ mô mới trở nên thực sự bền vững và phát
huy hiệu quả, tạo điều kiện để nâng dần tốc độ tăng trưởng kinh tế về tốc độ tiềm
năng cho giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nghiêm
túc mà nói, đối với nền kinh tế nước ta, đã qua rồi giai đoạn tăng trưởng dễ
dàng. Nếu không có những đổi mới mạnh mẽ, kiên quyết thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế tiềm năng không thể cao bằng giai đoạn trước. Khác với những năm đầu
đổi mới – mở cửa, khi đó các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng còn rất phong
phú, nhu cầu của dân cư sau thời kỳ chiến tranh thắt lưng buộc bụng và bao cấp
khắc khổ tăng lên rất nhanh đồng thời tốc độ tăng trưởng dân số cũng rất cao,
cần một tốc độ tăng trưởng lên tới 7-7,5%/năm để thỏa mãn. Ngày nay, đời sống
nhân dân đã thay đổi rõ rệt so với trước trong khi tốc độ tăng trưởng dân số
cũng đã chậm lại rất đáng kể (chỉ còn 1%) nên sức ép phải tăng trưởng nhanh
thực sự không quá lớn. Vấn đề quan trọng hơn là chất lượng tăng trưởng và chính
sách điều tiết, phân chia thu nhập hợp lý; đặc biệt cần kiên quyết chống tham
nhũng để những thành tựu về tăng trưởng đến tay người lao động, người nghèo chứ
không chỉ lọt vào tay một bộ phận người giầu. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay,
một tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 5,5-6% là hoàn toàn phù hợp; tương ứng
với nó là tỷ lệ đầu tư trên GDP cũng không nên quá 30%, thu ngân sách không nên
vượt quá 22-23% GDP; tỷ lệ lạm phát không nên quá 5-6%... Vì thế mới nói đối
chiếu những chỉ tiêu, “tọa độ” này với bức tranh tổng thể kinh tế vĩ mô, có thể
tin rằng nền kinh tế đã đi tới đáy vào năm 2013 và đang dần dần lập được trạng
thái cân bằng ổn định với năng suất, chất lượng và tốc độ tăng trưởng tăng dần
lên kể từ năm 2014.
Khái
quát lại, trong năm 2014, nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương
đối hợp lý; các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tỷ lệ lạm phát trở về mức
an toàn, lần đầu tiên đạt được kể từ năm 2004... Tăng trưởng kinh tế vẫn phụ
thuộc các các nhân tố tăng trưởng của những năm trước là đầu tư, lao động, xuất
khẩu và tiêu dùng; tuy nhiên vai trò của chúng đang được điều chỉnh. Trong khi
vai trò của vốn đầu tư giảm mạnh, vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu ổn định
thì vai trò của năng suất lao động, đã tăng lên rất nhanh. Mặt khác, tiêu dùng
đang nổi lên, thay cho vốn đầu tư, trở thành nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng
trưởng, trong đó tiêu dùng chính phủ đang giữ vị trí rất quan trọng. Điều này
phản ánh tác động của các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng (vốn, lao động)
đã chậm lại, trong khi tác động của các nhân tố theo chiều sâu (hiệu quả đồng
vốn, năng suất lao động) và thị trường (tiêu dùng) bắt đầu tăng lên. Các hoạt
động tài chính, ngân hàng, thương mại, giá cả đều phát triển ổn định hơn dù
chưa có những tiến bộ nổi bật.
Tuy
nhiên, nhiều khó khăn thách thức vẫn tồn tại, có mặt trở lên gay gắt hơn. Nổi
bật là tốc độ đổi mới quá chậm và thiếu kiên quyết; cơ cấu kinh tế vẫn hết sức
trì trệ, chưa thấy lối ra, từ cơ cấu vĩ mô xuống cơ cấu ngành, cơ cấu sản phẩm,
cơ cấu địa bàn. Sản xuất kinh doanh vẫn gặp rất nhiều khó khăn; số doanh nghiệp
giải thể, ngừng hoạt động vẫn rất lớn. Bội chi 4,6% vẫn quá cao do nhu cầu chi
tiêu chính phủ quá lớn. Nợ xấu, rủi ro vẫn là những nỗi lo, bức xúc thường trực.
Thực hiện lộ trình giá thị trường đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ thiết yếu
chậm. Hoạt động của một số tổ chức tín dụng chưa thực sự an toàn. Thị trường
bất động sản trầm lắng; nguy cơ khủng hoảng vẫn lớn, nhất là do tốc độ tăng
trưởng cung tiền tệ vẫn khá cao. Hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn
thấp; hệ số ICOR cao. Các chương trình tái cơ cấu được thực hiện quá chậm. Đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng chậm lại, giá thành quá cao... có nguy cơ làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm tới. Chênh lệch giầu nghèo, bất
công đã trở lên quá lớn gây nhiều bức xúc trong xã hội.
Do
vậy, mặc dù nền kinh tế có dấu hiệu ấm lên song sự phục hồi còn rất mong manh
nên Việt Nam cần kiên trì con đường tăng trưởng thận trọng. Nếu tiếp tục nhấn
mạnh mục tiêu tăng trưởng, sẽ buộc phải gia tăng đầu tư công, gia tăng nợ công,
nới lỏng thêm chính sách tiền tệ, tăng cường phát hành trái phiếu, làm giảm
nguồn vốn của doanh nghiệp ngoài quốc doanh... Hậu quả sẽ rất tai hại như những
gì đã diễn ra trong khoảng chục năm gần đây.
Bao
trùm lên tất cả và là nguy cơ chính gây mất ổn định kinh tế trong thời gian tới
là tốc độ cải cách kinh tế, cải cách thể chế, cải cách hành chính đều quá chậm.
Quy trình xây dựng, chất lượng và tổ chức thực hiện pháp luật, chính sách rất
yếu. Kỷ luật kỷ cương hành chính chưa nghiêm; tham nhũng lãng phí vẫn tràn lan
chưa có cách gì khắc phục; tác dụng của công tác giám sát, thanh tra rất hạn
chế. Chất lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu, có mặt
giảm sút. Tội phạm và tệ nạn xã hội vẫn diễn ra khắp nơi nhưng không có giải
pháp căn cơ xử lý. Nói nhiều, hứa nhiều, làm ít hoặc không làm đang là căn bệnh
phổ biến ở mọi cấp lãnh đạo.
Nguyên
nhân chủ yếu là lãnh đạo chưa thực sự kiên trì mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng
5,5-6%, vẫn muốn tăng trưởng nhanh hơn nên không còn nhiều tâm sức nâng cao
chất lượng tăng trưởng, xây dựng thể chế kinh tế thị trường phù hợp với trình
độ phát triển, đẩy mạnh tái cơ cấu lại nền sản xuất, mạnh mẽ đấu tranh chống
tham nhũng, cải cách bộ máy nhà nước và công tác cán bộ theo hướng tận tâm phục
vụ dân... Cũng chưa thực tâm tuân thủ nguyên tắc tối cần thiết đề ra trong suốt
năm 2014 là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ
mô và phát triển hài hòa làm đại cục, ra sức nâng cao chất lượng tăng trưởng để
thay đổi hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh - khủng hoảng lớn"
luân phiên kéo dài hàng chục năm qua. Khi muốn tiếp tục tăng trưởng kinh tế cao
thì sẽ không thể chấp nhận những chi phí phải bỏ ra (kèm theo việc giảm tốc độ
tăng trưởng) để thực hiện những cải cách cần thiết.
9) Nhìn về tương lai: Muốn gì
và cần làm gì trong năm 2015 và 1-2 năm tiếp theo ?
Bối cảnh
phát triển kinh tế năm 2015 cũng như mọi năm đều sẽ có những mặt thuận và những
mặt không thuận, nhưng dự báo mặt thuận là cơ bản. Kinh tế thế giới phục hồi và
hội nhập kinh tế với thế giới, với Cộng đồng kinh tế ASEAN chắc chắn sẽ mang
lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp nước ta. Tuy nhiên, như dự báo của nhiều
tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ tăng lên dù không mạnh nhưng
vững chắc vì đã có những điều chỉnh thể chế kinh tế tài chính thích hợp, hiệu
quả. Tháng 1/2015 Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã điều chỉnh dự báo giảm 0,3% về
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới so với dự báo thực hiện tháng 10/2014. Do
vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới sau khi đều đạt 3,3% trong 2 năm
2013-2014 sẽ chỉ tăng lên 3,5% năm 2015 và 3,7% năm 2016. Đáng ngạc nhiên là
các nền kinh tế nhóm G7 (trừ Nhật Bản) đều sẽ cải thiện nhanh tốc độ tăng
trưởng trong khi những nền kinh tế mới nổi và đã có thời tăng trưởng rất nhanh lại
khó có thể nâng cao được tốc độ tăng trưởng vốn đang rất yếu.
Nhờ
kinh tế phục hồi, tới đây nhiều nước công nghiệp sẽ cắt giảm chương trình kích
cầu. Lãi suất ở Mỹ và châu Âu sẽ tăng; nguồn vốn từ các nước đó chạy vào Việt
Nam và các nước đang phát triển khác sẽ chậm lại vì chúng sẽ lưu lại ở Mỹ và
các nước công nghiệp phát triển do lãi suất ở đó cao. Điều này sẽ ảnh hưởng tới
thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta, và do đó sẽ ảnh hưởng tới khả năng tăng
trưởng trung hạn và dài hạn. Thực tế này đã xảy ra trong nửa cuối năm 2014 khi
kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi và từng bước đang trở lại tốc độ tăng trưởng cao.
Ở tầm
trung và dài hạn, có thể thấy rõ kinh tế toàn cầu nói chung và của các nước
đang phát triển châu Á nói riêng sẽ khó có thể lập lại những tốc độ tăng trưởng
thần kỳ đạt được trong nửa sau thế kỷ 20. Kinh tế Mỹ đã từ hơn chục năm nay chỉ
tăng trưởng khoảng 1-3%, giảm mạnh so với 4-5% trong nhiều năm trước đó, trong
đó hai năm 2013-2014 chỉ tăng trưởng 2,3%/năm; dự báo năm 2015 sẽ tăng lên 3,6%
rồi giảm về 3,3% năm 2016. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước khối EU cũng
giảm mạnh tương ứng. Kinh tế Trung Quốc IMF dự báo chỉ tăng trưởng khoảng 6,8%
năm 2015 và 6,3% năm 2016 so với xấp xỉ 10%/năm trong suốt 30 năm trước đó.
Dự báo
trong 2 năm 2015-2016, tăng trưởng kinh tế của nhóm ASEAN-5 gồm 5 quốc gia Đông
Nam Á Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines và Việt Nam chỉ đạt 5,2%, trong
đó, Việt Nam dự báo cũng chỉ đạt mức 5,2%. IMF dự báo năm 2016, tăng trưởng
kinh tế của nhóm sẽ phục hồi hơn so với năm 2015 nhưng cũng chỉ đạt mức 5,3%.
Trong
năm 2015 khu vực các nước ASEAN sẽ có nhiều chuyển biến lớn với sự hình thành
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào cuối năm. Đây sẽ là một thị trường duy nhất
và một cơ sở sản xuất duy nhất, trong đó hàng hóa, dịch vụ, vốn đầu tư và nhân
công có trình độ sẽ được tự do lưu thông giữa tất cả các nước. Do vậy,
nhiều cơ hội mới sẽ được mở ra. Tự do hoá kinh tế trong nội bộ khối sẽ làm cho
nhiều loại chi phí giảm mạnh và các luồng vốn di chuyển giữa các quốc gia ASEAN
ngày càng dễ dàng hơn; sự dịch chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia trong khu
vực sẽ tăng mạnh, đặc biệt là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Ở
trong nước, dự báo tình hình năm 2015 nền kinh tế vẫn tương đối trì trệ, nhưng
từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng được tổ chức vào đầu năm
2016, và việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đất nước và nền kinh tế sẽ phải
có nhiều thay đổi to lớn. Về bối cảnh, có thể nói 2015 sẽ là năm bản lề cho
tương lai của nền kinh tế Việt Nam, bởi đây sẽ là năm hình thành nhiều
khối tự do mậu dịch mà Việt Nam sẽ tham gia, trước hết là ba khối: Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-Liên hiệp châu Âu
(Việt Nam – EU AFTA) và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Riêng
với hợp tác ASEAN, trong năm 2015, Việt Nam sẽ phải đẩy mạnh việc thực hiện
những sáng kiến kinh tế hiện có, đặc biệt là: (i) Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN,
Hiệp định Khung ASEAN về Dịch vụ và Khu vực Đầu tư ASEAN; (ii) thúc đẩy hội
nhập khu vực trong các ngành ưu tiên; (iii) tạo thêm nhiều thuận lợi cho việc
đi lại của doanh nhân, lao động lành nghề và nhân tài giữa các nước ASEAN...
Những
áp lực của hội nhập, cạnh tranh quốc tế và khu vực cùng với những chủ trương
chính sách mới được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của
Đảng đầu năm 2016 chắc chắn sẽ đòi hỏi Chính phủ cũng như từng doanh nghiệp, cá
nhân phải hành động quyết liệt hơn. Thuận lợi và khó khăn đan xen nhau; khó khăn
cũng có mặt tích cực là tạo sức ép để phải đổi mới, phải hành động. Thực tiễn
cho thấy càng bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, người Việt và doanh nhân Việt càng
trở lên mạnh mẽ. Do vậy, nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn
2016-2020 dự báo sẽ cao hơn so với giai đoạn 2011-2015; năng suất, chất lượng,
hiệu quả dự báo sẽ có bước cải thiện... nếu như những chính sách phát triển đi
đúng hướng.
Giữa
lúc nền thế giới đang phục hồi tăng trưởng và sức ép cạnh tranh quốc tế lớn như
vậy, thì nền kinh tế nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng vẫn quá yếu
ớt, thậm chí chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Do vậy, mục tiêu
chủ yếu của chính sách kinh tế năm 2015 và 1-3 năm tiếp theo không phải là tăng
trưởng cao mà là tập trung sửa chữa những lỗi hệ thống, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, làm nền tảng phát triển mạnh mẽ cho những năm sau. Nếu như Việt
Nam giữ được tốc độ tăng trưởng khoảng 5,5-6% trong khi chất lượng tăng trưởng
và sức cạnh tranh tăng vọt, thì sẽ là điều rất đáng mừng.
Để
nâng cao chất lượng tăng trưởng, không gì khác hơn là phải đổi mới mô hình tăng
trưởng, nhấn mạnh vào sử dụng nguồn vốn con người, phát huy sức mạnh của trí
tuệ con người, thay cho nguồn vốn đầu tư cũng như các nhân tố phát triển theo
chiều rộng khác. Dứt khoát phải từ bỏ con đường phát triển dựa vào mở rộng bội
chi ngân sách, phát hành tiền tệ tín dụng, khai thác tài nguyên và lao động rẻ
tiền (thực chất là bóc lột nhân công), bán đất đai và vay nợ nước ngoài như đã
làm trong hàng chục năm qua, tập trung tâm trí và sức lực xây dựng (i) một hệ thống pháp luật đầy đủ, khoa học và
thực hiện triệt để nguyên tắc thượng tôn pháp luật, (ii) một thể chế kinh tế thị
trường thực sự lành mạnh, theo đúng chuẩn mực quốc tế để động viên được sức
mạnh của toàn dân, toàn thể cộng đồng doanh nghiệp vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Đây cũng chính là những vấn đề then chốt phải xử lý để đất nước tăng
trưởng nhanh, bền vững và thoát được ra khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.
Những
vấn đề cụ thể để chất lượng tăng trưởng, đổi mới mô hình tăng trưởng... rất
nhiều, không thể bàn tới trong khuôn khổ bài viết này được. Để bắt đầu từ đâu,
dựa vào đâu để thóat khỏi tình trạng trì trệ hiện nay, chỉ xin kể ra một vấn đề
then chốt, trọng tâm nhất và dễ thấy nhất là công tác cán bộ.
Chất
lượng cán bộ quyết định tất cả; cán bộ tốt thì làm ra thể chế tốt, điều hành và
giám sát thực hiện thể chế tốt. Đất nước tiến nhanh hay tiến chậm, phát triển
hay thụt lùi có liên quan chặt chẽ tới chất lượng hoạt động của bộ máy lãnh đạo
đất nước, của hệ thống chính quyền từ trung ương với cơ sở. Để nâng cao chất
lượng tăng trưởng, dứt khoát phải nâng cao chất lượng bộ máy giám sát thực hiện
đúng pháp luật và nguyên tắc kinh tế thị trường, tức là nâng cao năng lực và
phẩm chất đội ngũ cán bộ nhà nước.
Thực
ra Việt Nam là nước đi sau nên hoàn toàn có thể sao chép kinh nghiệm, cách làm
của các nước đi trước để áp dụng cho mình (như Trung Quốc đã và đang làm rất
thành công), mặt khác cán bộ nhà nước đa phần là làm sự vụ hành chính theo quy
định của pháp luật. Do đó không nhất thiết phải dồn sức cho việc nâng cao năng
lực đội ngũ cán bộ mà vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay là nâng cao phẩm chất,
đạo đức cán bộ.
Phẩm chất cán bộ thể hiện ở
hai tiêu chí: (i) Dám nhìn thẳng vào sự thật, nói ra sự thật, bảo vệ những
người nói ra sự thật; (ii) Một lòng một dạ làm việc vì lợi ích của dân; nói ít,
làm nhiều; cái gì có lợi cho dân, cho đất nước thì nhất định phải làm; cái gì
hại nhất thiết phải bỏ; bảo vệ những người thực sự làm việc vì lợi ích của dân,
của nước. Chỉ khi có đủ hai tiêu chí này thì mới chống được tình
trạng tham nhũng và quan liêu ức hiếp đang lộng hành trong bộ máy công quyền
hiện nay.
Cán
bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo ở mọi cấp, phải thực sự hiểu dân, phải biết
thương dân, phải nhìn thấy dân nghèo sống khổ cực như thế nào, doanh nghiệp
đang khốn khổ ra sao, bị bộ máy công quyền hạch sách gây khó khăn như thế
nào... để tìm cách giúp đỡ.
Luân
chuyển cán bộ phải là cơ hội để họ hiểu dân hơn và làm ra nhiều thành tựu cho
người dân chứ không phải chỉ để hoàn chỉnh lý lịch cho bước thăng quan tiến
chức tiếp theo. Chỉ những cán bộ làm ra được những thành tựu cho địa phương,
cho người dân mới được thăng quan tiến chức sau khi hoàn thành tốt nhiệm vụ ở
cơ sở.
Mỗi
công dân khi đồng ý làm việc trong bộ máy nhà nước nên bắt đầu công tác ở cơ
sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào khó khăn để vừa rèn luyện, vừa học
cách thương yêu và nhận thấy trách nhiệm của mình với cuộc sống của người dân.
Nhà nước có chế độ thích hợp về tiền
lương, nhà công vụ, thời hạn luân chuyển công tác, cách thức nâng đỡ, bảo vệ
người làm việc tốt, làm việc chỉ vì lợi ích đất nước, lợi ích của người dân...
để khuyến khích cán bộ công chức trẻ về công tác ở cơ sở.
Nếu
như quyết tâm nâng cao phẩm chất cán bộ, trước hết từ cấp cao nhất ở Trung ương,
dần dần xuống mọi cấp chính quyền cơ sở, thì nhất định quan điểm, mô hình phát
triển sẽ được thay đổi, đất nước sẽ có tương lai tươi đẹp.
Trong
khi chưa có những thay đổi mang tính đột phá về công tác cán bộ, không thể hy
vọng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không gây ra những cuộc khủng
hoảng mới. Vì vậy ở tầm ngắn hạn, trong điều hành chính sách kinh tế xã hội, cần
tiếp tục thực hiện nguyên tắc tối cần thiết là: Kiên định không chạy theo tăng trưởng nhanh; lấy ổn định vĩ mô và
phát triển hài hòa (kinh tế, xã hội, môi trường) làm đại cục, ra sức nâng cao
chất lượng tăng trưởng để chấm dứt hoàn toàn cục diện "tăng trưởng nhanh -
khủng hoảng lớn" luân phiên kéo dài hàng chục năm qua. Khi đó phải chấp
nhận có một giai đoạn điều chỉnh cơ cấu và thể chế kinh tế, kèm theo một tốc độ
tăng trưởng thấp.
Đã xác
định được mục tiêu (chất lượng thay cho số lượng) thì dù khó khăn đến đâu cũng
nhất định phải tìm mọi cách để thực hiện. Lãnh đạo phải luôn luôn khảm một câu trong đầu: “Kiên trì, không
vội. Kiên trì, chính là thắng lợi!”.
-----------
Lưu ý Tổng cục Thống
kê vừa tính lại số liệu GDP cho tất cả các năm từ 2005 đến nay. Tốc độ tăng
trưởng hàng năm theo số mới giảm 1-1,3% so với số cũ, tức là rất lớn. Ví dụ năm 2006 số công bố trước tăng trưởng 8,44% thì số
mới chỉ là 7,13%... Từ đây các số liệu GDP thành phần (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đầu tư, tích lũy, tiêu dùng, xuất nhập khẩu...) cũng thay đổi.
Thêm
nữa, TCTK chỉ mới tính lại đến năm 2005,
còn những năm trước 2005 thì coi như không có số liệu. Do đó không thể dùng mô
hình toán để phân tích chi tiết hơn được. Một số chỉ tiêu khác liên
quan cũng thay đổi... Vì vậy sử dụng thông tin từ những con số
ở VN cần thận trọng. Theo dõi xu thế tiến triển đáng tin cậy hơn là theo dõi
con số cụ thể.
Đặc
biệt, từ nay dường
như Tổng cục Thống
kê sẽ chính thức dùng "tốc độ tăng giá
bình quân năm" làm chỉ tiêu lạm phát năm thay cho "mặt bằng giá
tháng 12 năm nay so với mặt bằng giá tháng 12 năm trước"...
Đáng
buồn nhất hiện nay là phần lớn các chỉ tiêu thống kê ở nước ta giống của quốc
tế về tên gọi, nhưng không giống về bản chất, về nội dung, nên thực chất không
thể so sánh quốc tế hay sử dụng trong các mô hình tóan kinh tế. Thứ hai là phần
lớn số liệu không chính xác, thậm chí sai rất lớn, và được sửa đổi khá thường
xuyên, tùy tiện; điển hình là việc TCTK thường xuyên tính lại giá trị các chỉ
tiêu của những năm cũ rồi âm thầm sử dụng. Nếu số liệu cứ thế này thì chính
sách kinh tế không thể đúng được.
Tài liệu tham khảo:
1) “Tình
hình kinh tế - xã hội năm 2014”, báo cáo của Tổng cục Thống kê
2) “10
sự kiện nổi bật ngành Tài chính năm 2014”, trang thông tin điện tử Bộ tài
chính: http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn/cttk?p_itemid=156392020&p_itemtype=2176921
3) Overview
of the World Economic Outlook Projections của IMF, tháng 1/2015.
4)
“Kinh tế vĩ mô: Những điểm sáng 2013 và định hướng 2014”, Lê Việt Đức, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, Số 2 (429), tháng 2-2014.
5)
Nguồn số liệu trong bài chủ yếu từ Niên giám thống kê các năm.
Viết
ngày 20/1/2015.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét