Chủ Nhật, 8 tháng 6, 2014

Điểm lật Minsky của Trung Quốc

Điểm lật Minsky của Trung Quốc
Như đã hẹn, Diễn đàn Kinh tế lại nhắc tới hiện trạng kinh tế của Trung Quốc, lồng trong biến cố xảy ra 25 năm trước mà đa số giới trẻ tại xứ này, và nhiều xứ khác, có thể lãng quên hoặc không biết. Đó là vụ khủng hoảng tại quảng trường Thiên An Môn vào Tháng Sáu năm 1989 khiến cả ngàn sinh viên bị quân đội tàn sát. Xin quý vị theo dõi cuộc trao đổi của Vũ Hoàng với chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa, tư vấn kinh tế của đài Á Châu Tự Do.

Hàng ngàn sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, 
Trung Quốc ngày 18 tháng 5 năm 1989.

Một quốc gia không bình thường

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, mùng bốn Tháng Sáu năm 1989, đúng 25 năm trước, quân đội Trung Quốc tiến vào Bắc Kinh đẹp cuộc biểu tình của sinh viên và mở ra cuộc tàn sát khiến cả ngàn người thiệt mạng. Nhà nước Bắc Kinh ém nhẹm biến cố này, và âm thầm tiến hành việc kiểm soát an ninh vì sợ người dân tổ chức sinh hoạt tưởng niệm. Truyền thông quốc tế có theo dõi chuyện ấy và nói đến sự thờ ơ hay lãng quên của giới trẻ tại Trung Quốc vì nhiều người không hề được biết gì về vụ thảm sát. Trong khi đó, hôm Thứ Hai vừa qua, các thị trường tài chính Á châu đã lên giá, một phần là do một chỉ số thống kê về đơn đặt hàng chế biến tại Trung Quốc trong Tháng Năm, khiến người ta dự đoán tình hình kinh tế khả quan hơn. Như đã hẹn, chương trình kỳ này xin đề nghị là ông phân tích lại về kinh tế Trung Quốc, đặt trong một bối cảnh dài là vụ khủng hoảng Thiên An Môn. Ông nghĩ sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng Trung Quốc vẫn là một quốc gia không bình thường khi lãnh đạo giấu nhẹm một vụ tàn sát thường dân và chỉ phô trương thành quả kinh tế như lý do lãnh đạo chính đáng của đảng Cộng sản.
Tôi xin lấy một thí dụ, sử sách Trung Quốc viết nhiều về vụ thảm sát Nam Kinh do quân Nhật gây ra năm 1937 và cứ nhắc chuyện đó để khơi dậy lòng căm thù trong công chúng mà hoàn toàn không có một chữ về việc lãnh đạo thời đó là ông Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho quân đội vào giết người dân tại quảng trường Thiên An Môn của thủ đô. Họ không bạch hóa và chịu trách nhiệm về một quyết định đối với công dân của họ mà chỉ đòi nước khác phải hối lỗi và xin lỗi về những gì đã thi hành tại Trung Quốc trong lịch sử.
Vũ Hoàng: Trước hết, xin ông nhắc tại vụ Thiên An Môn của 25 năm trước, rồi chúng ta sẽ trở về chuyện kinh tế ngày nay.
Trung Quốc vẫn là một quốc gia không bình thường khi lãnh đạo giấu nhẹm một vụ tàn sát thường dân và chỉ phô trương thành quả kinh tế.
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trung Quốc bắt đầu cải cách kinh tế từ dầu năm 1979, 10 năm sau thì bị những mâu thuẫn khó giải quyết. Về kinh tế thì có nguy cơ lạm phát và về chính trị thì có nạn tham nhũng trong bộ máy công quyền. Ngày 15 Tháng Tư năm 1989, nguyên Tổng bí thư là Hồ Diệu Bang từ trần. Ông ta là nhân vật cải cách và vì chối từ việc đàn áp trí thức hai năm trước nên bị Đặng Tiểu Bình và Bộ Chính trị hạ bệ để đưa Triệu Tử Dương lên làm Tổng bí thư.
Khi Hồ Diệu Bang tạ thế, người dân xếp hàng mấy cây số để bày tỏ lòng thương tiếc khiến lãnh đạo phải tổ chức lễ quốc táng tại Nhân dân Đại sảnh đường ở Bắc Kinh. Nhân đó, mấy vạn công nhân và sinh viên dâng kiến nghị phản đối nạn vật giá leo thang và thái độ tham ô cửa quyền của đảng viên để yêu cầu Thủ tướng Lý Bằng cải cách.
Vì nội bộ lãnh đạo chưa thống nhất ý kiến về cách xử trí và trong cả tháng trời, số dân biểu tình lên tới 10 vạn và sinh viên bắt đầu tuyệt thực đòi tự do thông tin và dân chủ. Một tháng sau, giữa Tháng Năm lại có cuộc thăm viếng của Chủ tịch Liên bang Xô viết Michael Gorbachev. Truyền thông quốc tế đến tường thuật cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa lãnh đạo hai nước kể từ ba chục năm cho nên lãnh đạo Bắc Kinh càng phân vân. Họ vừa muốn chứng tỏ với Liên Xô rằng Trung Quốc có tự do hơn vừa sợ là phong trào đấu tranh lan rộng ra nhiều tỉnh mà nội bộ lãnh đạo lại rạn nứt vì nhiều người thông cảm với đòi hỏi của quần chúng, kể cả Tổng bí thư Triệu Tử Dương.
Sau khi Gorbaehev ra về, lãnh đạo thực tế là Đặng Tiểu Bình cho ban bố lệnh thiết quân luật và đưa ba chục sư đoàn từ năm quân khu ở xa về dẹp loạn tại Bắc Kinh. Báo chí bị đuổi ra ngoài và các đơn vị quân đội tắt đèn nã súng vào dân biểu tình. Số thương vong là bao nhiêu thì không ai biết rõ, có thể tới vài ngàn chứ không phải vài trăm như Quốc vụ viện công nhận.
Vũ Hoàng: Thưa ông, kết cuộc sau đó thì sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi nhìn lại thì khởi đầu chỉ là phản ứng của quần chúng về kinh tế, mà lại thành phong trào phản kháng chính trị của thanh niên sinh viên làm chế độ rung chuyển đến thượng tầng. Kết cuộc thì Đặng Tiểu Bình có chuyến "Nam tuần" là thăm các tỉnh miền Nam để nhấn mạnh đến việc tiếp tục cải cách kinh tế, nhưng tăng cường kiểm soát chính trị, Tổng bí thư Triệu Tử Dương thì bị cách chức, cầm tù rồi bị quản thúc tại gia cho đến chết, vào năm 2005.
Đến nay, lãnh đạo Trung Quốc chưa công khai xét lại vụ khủng hoảng và nhận trách nhiệm, nhưng tin là chế độ kiểm soát tư tương, độc tài chính trị và cởi mở kinh tế sẽ hướng tuổi trẻ vào việc làm ăn mà không lý gì đến quyền tự do và dân chủ. Họ có lý phần nào vì đa số thanh niên ngày nay chỉ để ý đến quyền lợi thiết thực mà xa rời lý tưởng và hết biết gì về quá khứ. Còn lại, nếu quần chúng có phản ứng về chuyện tiêu cực trong kinh tế hay xã hội thì lãnh đạo lại dẫn họ vào tinh thần ái quốc và bài ngoại.
Dù kinh tế có tăng trưởng trong 20 năm sau đó thì chế độ này thật không đáng kính. Huống hồ nay kinh tế lại đi hết chu kỳ tăng trưởng mà vào điểm lật nên bất ổn có thể tái diễn. Đấy cũng là một nguyên nhân khiến lãnh đạo Bắc Kinh mở ra cái hướng bành trướng và gây hấn để huy động quần chúng vào chuyện bên ngoài.

“Điểm lật”

Vũ Hoàng: Ông nói kinh tế Trung Quốc hết đà bành trướng và đi vào "điểm lật", điểm lật ấy là gì? Và ông trả lời sao về chỉ số kinh tế khả quan mà Bắc Kinh vừa mới công bố hôm Thứ Hai?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin nêu ý kiến chung về thống kê kinh tế của Trung Quốc rồi ta mới đi vào từng điểm.
000_Hkg9886907-250.jpg
Công an Trung Quốc gác tại quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh hôm 3 tháng 6 năm 2014. AFP PHOTO.
Trước hết, thống kê kinh tế của Trung Quốc có hai nhược điểm là thiếu chính xác về kỹ thuật thu thập, lại thiếu khả tín vì bị xào nấu cải sửa cho mục tiêu chính trị và tuyên truyền. Đây là loại vấn đề cơ bản ta không thể quên được khi nói về kinh tế Trung Quốc. Vì chế độ không có tự do thông tin và lại giỏi gây ra ấn tượng cho thị trường, tức là tuyên truyền, cho nên chính lãnh đạo cũng chẳng biết được thực hư về kinh tế và có thể bị bất ngờ.
Lẽ thứ hai, kinh tế Trung Quốc có lực đẩy là đầu tư rất cao và mắc nợ rất nhiều nên cứ lao về  phía trước và có thể lao vào khủng hoảng. Trong một xứ đất rộng, người đông mà thông tin không chính xác thì thị trường và cả giới kinh tế quốc tế có thể lầm nếu chỉ căn cứ vào số liệu thống kê của một tháng. Thí dụ ông vừa nhắc tới là chỉ số PMI của Trung Quốc.
Vũ Hoàng: Xin ông giải thích cho chỉ số đó là gì.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa chỉ số này gọi là "purchasing managers' index" là kết quả khảo sát doanh nghiệp xem là trong tháng họ nhận được bao nhiêu đơn đặt hàng chế biến, nếu cao hơn số 50 là coi như tương lai sẽ khả quan. Nhưng nếu chỉ nhúc nhích từ số 50,4 lên 50,8 mà vội mừng thì đấy là một sự nông nổi của thị trường. Lý do hơi chuyên môn ở đây là chỉ số này tổng hợp nhiều dữ kiện với các "hệ số gia trọng" để nhấn mạnh đến yếu tố này hay yếu tốc khác. Loại hệ số gia trọng đó là quyết định chính trị, về chính sách, chử không phản ảnh thực tế thị trường. Một thí dụ là ngân hàng Hongkong Shanghai Bank của Anh cũng có hệ thống thu thập chỉ số PMI của kinh tế Trung Quốc mà cứ điều chỉnh liên tục sau khi hồ hởi sảng.
Đã thế, sau Nghị quyết ba của Hội nghị Trung ương đảng vào tháng 11 năm ngoái, cả Chủ tịch Tập Cận Bình lẫn Thủ tướng Lý Khắc Cường đều nói tới yêu cầu cải cách cơ chế để chú trọng đến phẩm hơn là lượng dù có giảm đà tăng trưởng. Vậy mà khi đà tăng trưởng giảm tới sát mức 7,5% như vào Tháng Ba vừa qua là Bắc Kinh lật đật đưa ra biện pháp kích thích như giảm thuế, gia tăng đầu tư về gia cư, hoả xa hay nhiều dự án khác. Cho nên ta gặp một nghịch lý bất ngờ là khi thấy kinh tế Trung Quốc có đà tăng trưởng cao hơn thì chớ vội mừng và lãnh đạo đừng nên xem đó là thành tích mà nên lo vì kinh tế tiếp tục lao vào điểm lật! Nghĩa là sẽ rơi xuống vực!
Vũ Hoàng: Bây giờ ta mới nói về cái điểm lật này, thưa ông nó là gì vây?
Vì chế độ không có tự do thông tin và lại giỏi gây ra ấn tượng cho thị trường, tức là tuyên truyền, cho nên chính lãnh đạo cũng chẳng biết được thực hư về kinh tế và có thể bị bất ngờ.
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Về bối cảnh, Hoa Kỳ có một giáo sư kinh tế và học giả từng nghiên cứu sâu rộng về các vụ khủng hoảnh tài chính, đó là ông Hyman Minsky, sinh năm 1919 tạ thế năm 96. Năm 1998, một kinh tế gia kiêm quản trị tài chính của tập đoàn đầu tư và bảo hiểm PIMCO rất lớn tại miền Nam California này áp dụng lý luận của Minsky mà nghiên cứu vụ khủng hoảng tài chính tại Liên bang Nga để nói tới thời suy sụp của một hệ thống tín dụng ảo. Ông ta gọi đó là "thời Minsky", tôi xin tạm dịch là "điểm lật" cho dễ hiểu.
Đó là khi lượng tín dụng bơm ra quá nhiều, người ta đi vay quá dễ để đầu tư thì sẽ tính chuyện đầu cơ vì ham lời rất lớn mà ít thấy rủi ro rất nặng. Tình trạng đầu cơ đó thổi lên bong bóng ảo và đến một lúc nào đó thì bóng sẽ bể, như tại Nhật Bản và nhiều xứ khác, kể cả Hoa Kỳ mới vừa bị vào năm 2007-2008. Người ta có nhiều chỉ dấu tiên báo cái điểm lật đó mà thị trường hồ hởi lại không nhìn ra và bị thiệt hại bất ngờ. Trung Quốc có những chỉ dấu đáng ngại cho thấy là họ đang tới điểm lật này.
Vũ Hoàng: Dù có thể là hơi chuyên môn, xn ông nói thêm về các chỉ dấu đó để thính giả của chúng ta cùng biết mà suy ngẫm về trường hợp của Việt Nam.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Kinh tế Trung Quốc lấy sức đẩy chủ yếu từ đầu tư cố định vào các dự án kém giá trị kinh tế, là tốn kém mà hoang phí. Họ tài trợ việc đầu tư đó bằng sức tiết kiệm rất cao của người dân và thổi lên trái bóng tín dụng, tức là vay mượn. Khi nhà nước cứ kích thích kinh tế bằng tín dụng dễ dãi thì cả khu vực nhà nước lẫn tư nhân đều phóng tay vay tiền mà bất kể rủi ro. Tính theo Tổng sản lượng GDP thì tổng số tín dụng công và tư của Trung Quốc từ 320% GDP vào năm 2008 đã lên tới 420% vào năm ngoái. Đó là về lượng, một con số quá cao và đáng ngại. Về phẩm thì núi nợ khổng lồ này có nhiều khối nợ xấu, không sinh lời, khó đòi và sẽ mất. Mà xấu đến cỡ nào thì không ai biết vì bên trong có nhiều khoản nợ chui, chẳng nằm trong sổ sách ngân hàng, kể cả các khoản nợ để đầu cơ và lường gạt.
Giới kinh tế gia Hoa Kỳ có biết điều ấy và các tổ hợp đầu tư đứng đắn của họ đều có thư riêng cho thân chủ để nói tới rủi ro tại Trung Quốc. Vì là thư riêng trong giới làm ăn, lại có sự hạn chế về bản quyền nên truyền thông cho đại chúng ít nhắc tới. Bản thân tôi cũng không được phép trích dẫn những đánh giá riêng tư của các tập đoàn tài chính này, nhưng nếu có báo động dư luận thì cũng không thừa.
Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối thưa ông. Khi nhớ lại vụ Thiên An Môn ngày xưa và rủi ro ngày nay thì ông kết luận như thế nào?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong chu kỳ kinh doanh thì ai cũng có thể bị bất ngờ và lỗ vốn. Xứ nào cũng có thể bị nạn bể bóng và kinh tế sa sút trong thời gọi là "hậu Minsky". Mỹ, Nhật, Âu gì cũng thế. Nhưng Trung Quốc không có tự do thông tin và dân chủ chính trị, khi bị khủng hoảng tài chính thì bị nặng hơn với hậu quả dội ngược lên hệ thống lãnh đạo chính trị. Người ta có thể không biết hoặc chẳng nhớ tới vụ Thiên An Môn ngày xưa nhưng giới có tiền tiết kiệm thì thấy ngay sự phá sản trước mắt. Họ sẽ có phản ứng còn dữ dội hơn phản ứng của thị trường!
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi lý thú này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét