Luận văn Đỗ Thị Thoan, một Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai
RFI 5-8-13, By Thanh Phương
Trong thời gian qua, báo chí chính thức và một số nhà phê bình trong nước đã kịch liệt đả kích một bài luận văn của cô Đỗ Thị Thoan, giảng viên Đại học Sư phạm.Vụ này khiến người ta nhớ lại vụ Nhân Văn Giai Phẩm từ cách đây nửa thế kỷ, bởi vì theo như nhận định của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội, kiểu đả kích luận văn của Đỗ Thị Thoan là một lối phê bình “chỉ điểm”.
Đỗ Thị Thoan, còn được biết với bút danh Nhã Thuyên, vào năm 2010 đã viết một luận văn thạc sĩ bàn về nhóm “Thơ Mở Miệng” với nhan đề “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Nhóm thi sĩ này này gồm bốn tác giả: Khúc Duy, Bùi Chát, Lý Ðợi và Nguyễn Quán, từng xuất bản chui tập thơ Mở Miệng vào tháng 06/2002, được phổ biến bằng cách chuyền tại nhau tại Sài Gòn, nhưng không lâu sau đã bị thu hồi và tiêu hủy.
Tuy đề tài luận văn nói về một hiện tượng rất mới mẻ của văn học đương đại Việt Nam, nhưng Đỗ Thị Thoan đã được bộ môn Lý luận văn học của khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, chấp nhận cho làm luận văn này. Luận văn của Đỗ Thị Thoan đã được chấm điểm 10, tức là điểm tuyệt đối, từ cách đây ba năm, nhưng không hiểu sao bây giờ lại có cả một làn sóng phê phán gay gắt luận văn này, với nhiều bài viết chỉ trích cả người làm, người hướng dẫn, lẫn người chấm và cơ quan chủ quản trong việc này.
Tại Hội nghị Lý luận-Phê bình văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đầu tháng 06/2013 vừa qua ở Tam Đảo, nhiều nhà phê bình văn học đã phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan, với giọng điệu “gay gắt, phẫn nộ”, đòi “xử lý trách nhiệm” của tất cả những ai có dính líu đến bản luận văn mà nhà nghiên cứu-phê bình văn học Nguyễn Văn Lưu gọi là “một luận văn kích động sự phản kháng và chống đối”. Có người còn nói rằng: “Đây là một luận văn trá hình mang nội dung chính trị phản động…”.
Về báo chí chính thức, tờ Quân đội Nhân dân số ra ngày 07/07, trong bài chính luận tựa đề “ Một góc nhìn phản văn hóa và chính trị”, đã kịch liệt lên án bản luận văn của Đỗ Thị Thoan. Theo báo Quân đội Nhân dân, các thi sĩ trong nhóm Mở Miệng đã dùng lối nói trong thơ nhằm “ hạ bệ các thần tượng, giải thiêng lãnh tụ và các danh nhân... xúc phạm tình cảm của hàng triệu đồng bào ta đối với Bác Hồ kính yêu”. Tờ báo cho rằng tập thơ của Nhóm Mở Miệng là “biểu hiện hết sức trắng trợn của những người tự nhận là ‘cách tân, đổi mới’ nhưng thực chất là mượn văn nghệ để làm ngọn cờ chính trị hòng lật đổ chế độ, thay đổi thể chế.” Báo Quân Ðội Nhân Dân viết những câu như: “Tác giả còn tố cáo Đảng và Nhà nước ta bóp nghẹt tự do sáng tạo” và “Tác giả đã bộc lộ thái độ chính trị của mình thông qua việc ca ngợi những nhà văn ‘phản kháng’ như Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương... để rồi xuyên tạc và kích động...” Ðỗ Thị Thoan còn bị tờ Quân Đội Nhân dân đả kích vì đã khen ngợi nhóm Nhân Văn Giai Phẩm và so sánh với nhóm Mở Miệng. Không chỉ luận văn bị đả kích như vậy, cô Đỗ Thị Thoan nghe nói còn bị chấm dứt hợp đồng giảng dạy ở khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, giáo viên hướng dẫn cô cũng bị thôi chức trưởng bộ môn. Truớc việc luận văn của Đỗ Thị Thoan bị « đánh hội đồng » như vậy, một số nhà phê bình khác đã lên tiếng bênh vực cho cô. Chẳng hạn như ông Trần Đình Sử, Giáo sư tiến sĩ Lý luận văn học, khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, ngày 26/07 vừa qua đã viết trên trang blog của ông một bài tựa đề : « Cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ? ». Trong bài này, Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng chiến dịch phê phán luận văn của Đỗ Thi Thoan và việc đòi « xử lý trách nhiệm » là một « cách hành xử quá nóng vội ». Giáo sư Trần Đình Sử viết : « Thông thường người ta chỉ xử lý sau khi đã nghị án rõ ràng, có người bào chữa, có ý kiến của đương sự. Đằng này tất cả đều làm rất nhanh, bên trên, sau lưng đương sự, thiếu các thủ tục dân chủ tối thiểu. Tại sao chúng ta không tổ chức đối thoại, nêu câu hỏi để yêu cầu nhà khoa học trẻ giải trình, mà chỉ cho phép phê phán, như là một tội lỗi đương nhiên không cần bàn cãi? Tại sao chúng ta lại hành xử một sự kiện văn hóa một cách thô bạo, y như hồi những năm 50, 60, khi chúng ta đang còn ít kinh nghiệm ? » Giáo sư Trần Đình Sử nhắc lại : « Trong các thời trước đổi mới, làm thơ không vần như Nguyễn Đình Thi là bị cấm, coi là bất hợp pháp. Đổi mới thơ như Hoàng Hưng, Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng cũng từng bị phê phán. Nhưng trong đổi mới thơ cũng có trung tâm và ngoại biên. Đổi mới kiểu Nguyễn Quang Thiều hôm nay được coi là trung tâm, nhưng khi mới xuất hiện, đối với một số người là ngoại biên, là thơ tây dịch sang thơ ta. Thơ của nhóm “Mở miệng” cũng là một thứ ngoại biên. Chúng ta có thể không thích nó, thậm chí ghét bỏ nó, nhưng nó vẫn là một phần, dù là rất bé nhỏ, rất phụ, đã lui vào quá khứ của quá trình văn học. Hiểu như thế mọi hiện tượng văn học ngoại biên đều đáng được xem xét, đều có ý nghĩa để soi sáng lịch sử văn học từ chỗ này hay chỗ khác. Vì vậy tạo ra vùng cấm trong nghiên cứu văn học là không nên. » Trong một bài viết đăng trên mạng ngày 31/07, nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng vụ đả kích luận văn Đỗ Thị Thoan đã đưa chúng ta « về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa ». Trong bài viết này, nhà văn Nguyên Ngọc nhắc lại lời của tướng Trần Độ, Trưởng ban Văn hóa văn nghệ trung ương trước đây : « Trong nghệ thuật thường vẫn vậy, muốn có đỉnh cao mới thì bao giờ cũng phải có trường phái mới. » Nhà văn Nguyên Ngọc viết : « Nhắc lại chuyện này tôi không có ý nói rằng luận văn của Nhã Thuyên về một hiện tượng văn học bên lề đã là khẳng định một trường phái văn học mới, nhóm Mở Miệng đã là một trường phái văn học mới như anh Độ từng mong. Nhưng chỉ mới một hiện tượng hơi lạ như vậy, bàn về một hiện tượng hơi lạ như vậy, mà đã hô hoán cháy nhà um cả lên, rồi ngang nhiên trừng trị, cách chức …, thì liệu còn hy vọng chút gì thoát ra khỏi ao tù nữa. Thế mà chính những kẻ la làng ấy lại luôn miệng đòi hỏi đỉnh cao, đỉnh cao … ». Ông khẳng định : « trường phái mới thì hẳn phải xuất hiện từ bên lề ». Nhà văn Nguyên Ngọc còn chỉ trích hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương tự cho họ cái quyền « ban bố mọi thứ đúng sai về văn học nghệ thuật trên cả nước này », mà đứng đầu cái hội đồng ấy là mấy người « chẳng dính dáng gì và chẳng biết chút gì về văn học nghệ thuật cả ». Đối với nhà văn Nguyên Ngọc, đây quả là « một sự sỉ nhục to lớn đối với toàn bộ giới văn nghệ và lý luận văn nghệ ». Trả lời phỏng vấn RFI từ Hà Nội ngày 29/07, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, cũng cho rằng những người phê bình đả kích luận văn của Đỗ Thị Thoan chẳng hiểu gì về đề tài nghiên cứu của cô : Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên : Về nhóm Thơ Mở Miệng, tôi cũng có thể nói rằng là phần lớn những người phê bình có thể chưa đọc hoặc không biết gì về nhóm này. Nhóm Mở Miệng bao gồm những người trẻ ở Sài Gòn, đều đã tốt nghiệp đại học. Họ làm một thứ thơ trước hết là nhằm phản ứng lại những thứ thơ đang thịnh hành : thứ thơ du dương, véo von, hoặc thứ thơ không đi sát đời sống, ... Họ làm một thứ thơ mà bản thân họ tự nhận là « thơ dở », « thơ rác », « thơ nghĩa địa », thứ thơ nên « đào đất chôn đi ». Họ thực hành một thứ thơ nhằm biểu lộ một thái độ. Thơ của họ có những bài tục, có những bài thơ nhại, tức là lấy một bài thơ quen thuộc, nổi tiếng, sửa đi một vài từ, thêm một vài từ, biến một bài thơ nghiêm túc thành một bài thơ cợt nhả. Họ cũng biến tấu theo kiểu thơ tân hình thức, lấy một đoạn văn xuôi trong sách, sắp xếp lại và chú nguồn theo cuốn này, cuốn kia, theo bài thơ này, theo bài thơ khác. Có những bài thơ họ làm cho nó tục, vì đối với họ, cái tục cũng đáng nói như cái thanh. Tất nhiên, thơ của nhóm này không được đa số chấp nhận và lại càng không được đăng và họ phải tự xuất bản, ra một nhà xuất bản gọi là nhà xuất bản Giấy Vụn. Việc tự nhận là « thơ nghĩa địa », đặt tên nhà xuất bản là « Giấy Vụn » đã cho thấy họ ý thức mình như đang ở bên lề, không phải là « dòng chính », không phải là « trung tâm », sẽ không được chấp nhận, nhưng họ làm như vậy. Có thể có những nhóm thơ khác ở Việt Nam hiện nay, cũng tự lưu truyền với nhau, nhưng không tạo ra được ấn tượng như nhóm Mở Miệng. Ngay cái từ Mở Miệng cũng là xuất phát từ một câu trong Kinh Thánh : « Khởi thủy là lời », mà muốn có lời thì phải mở miệng mới nói ra được. Họ cũng hàm ý rằng có những tiếng nói khác, không được mở miệng, không được nói lên. Đây là một cách bày tỏ quan điểm của họ đối với cuộc sống hiện nay. Nhóm Mở Miệng có quan điểm riêng của họ và họ thực hành trên cái quan điểm ấy. Số đông thì cảm thấy thơ mà tục thì cho là tục, thơ mà nhả cợt thì cho là thơ không nghiêm túc, là phá hoại những giá trị, thì tự nhiên là nó bị đặt ra bên lề, không thuộc dòng chính, không thuộc trung tâm, nhưng nó vẫn tồn tại. Tất nhiên thơ của họ không được in, không được đọc công khai tại các buổi đọc thơ, đêm thơ, ngày thơ, nhưng họ thực hành trong nhóm của họ và cũng có những độc giả của họ. Bằng chứng là khi nói đến Nhóm Mở Miệng là người ta biết. Các tập thơ tự xuất bản của họ vẫn được chuyền tay nhau, người ta vẫn đọc. Có những người phê phán, nhưng cũng có những người thích. Có những người chia sẽ, ủng hộ đường lối của họ, hoặc có thể không đồng tình với những bài thơ đó, nhưng xem đấy là một cách bày tỏ thái độ. Và như vậy nó trở thành một hiện tượng. Cô Đỗ Thị Thoan-Nhã Thuyên chọn nó làm đề tài luận văn thạc sĩ là đúng đề tài, vì nó đã trở thành một hiện tượng văn học, một hiện tượng có thể giúp chúng ta khảo sát các mối quan hệ giữa trung tâm với bên lề, với ngoại biên. Tên của luận văn là “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Tức là cô lấy nhóm Mở Miệng làm đối tượng khảo sát và coi cách thức của họ như là thái độ của những kẻ bên lề, đặt họ không tổng thể văn hóa của đời sống xã hội. Đề tài này đã được tổ bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, khoa Văn, Đại học Hà Nội chấp nhận cho làm và cho bảo vệ. RFI : Thưa ông, luận văn này đã được bảo vệ và chấm điểm từ cách đây ba năm, sao bây giờ lại rộ lên phong trào đả kích gay gắt như vậy ? Phạm Xuân Nguyên : Theo quy định, khi luận văn thạc sĩ hay tiến sĩ được bảo vệ rồi thì phải nộp văn bản vào thư viện và bất kỳ ai đều có thể được tiếp cận như một tài liệu tham khảo. Luận văn của Đỗ Thị Thoan cũng vậy. Ai cũng có thể tiếp cận với luận văn đó và khi tiếp cận, có thể có người không đồng ý với những điểm nào đó, thì họ có thể nói lên. Nhưng anh phải nói lên dưới góc độ khoa học và phải tìm hiểu kỹ càng. Không hiểu sao bây giờ lại rộ lên phong trào đánh đấm luận văn của Nhã Thuyên, bắt đầu từ bài của Nguyễn Văn Lưu. Ông Lưu nếu tiếp cận được bài luận văn đó, thì có quyền viết phê bình, nhưng phải (phê bình ) dưới góc độ khoa học, vì đây là một luận văn khoa học, đã được hội đồng chấm. Nhưng ở đây, người ta đã vội hô hoán lên cho rằng rằng luận văn này ca ngợi một loại « thơ dở », « thơ tục », « thơ phản động », thế mà lại được chọn làm đề tài khoa học, mà lại được chấm điểm 10. Phê phán như thế đã là nhầm lẫn rồi. Rồi lại còn quy kết về mặt chính trị, xem đây là một luận văn khoa học trá hình để « giải thiêng », hô hào « chống đối phản kháng ». Họ nhầm lẫn một cách sơ đẳng, đó là nhầm lẫn giữa đối tượng với người nghiên cứu đối tượng. Những câu thơ được trích ra đó là để người làm luận án phân tích, lý giải vì sao nhóm Mở Miệng làm thơ tục, làm thơ nhại. Người ta không để ý đến điều đó và sau đó một loạt bài cũng phê phán như vậy. Theo tôi nghĩ, có thể những người phê bình đã không tiếp cận đầy đủ, chưa được đọc nhiều về thơ Mở Miệng. Đó là một điều tối kỵ trong phê bình, khi mà anh chưa tiếp cận với văn bản. Như vậy, thứ nhất, những người phê bình luận văn của Nhã Thuyên lấy các cứ liệu được dẫn ra để phê phán người phân tích cứ liệu, thứ hai là họ không trực tiếp đọc văn bản gốc. Theo chỗ tôi biết, luận văn của Đỗ Thị Thoan, sau khi dấy lên như thế này, tạm thời không được tiếp cận nữa. Nhưng những người viết bài phê phán đều nhận được luận văn để đọc. Như vậy họ cũng chỉ mới đọc luận văn, rồi từ đó quy kết không chỉ người làm, mà cả người hướng dẫn là phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình, trưởng bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, phê phán cả khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, rồi còn đòi hội đồng « thẩm tra lại » luận văn này, xét lại người hướng dẫn, và còn kêu lên rằng tại sao một cơ sở đào tạo như Đại học Sư phạm mà lại cho làm một đề tài như vậy. Phê phán như vậy là vượt quá giới hạn chuyên môn. Có người còn đặt câu hỏi : Một người ngoài ngành, ngoài chuyên môn đó chỉ mới nêu lên một ý kiến, thì đó chỉ mới là một ý kiến thôi, thế mà mọi người đồng thanh theo ý kiến đó, rồi buộc người ta phải thay đổi quyết định, thay đổi hội đồng đó. Thế thì đâu là sự tôn trọng học đường ? Đâu là sự tôn trọng người làm khoa học ? Cho nên có người nói rằng vụ vừa rồi giống như là một vụ Nhân Văn Giai Phẩm thứ hai. Bỗng nhiên có đến hàng chục bài viết chỉ trích đó là một bản luận văn « mơ hồ », « sai lầm », « có ý hướng chính trị ». Phê phán như vậy trước hết là hoàn toàn không đúng với tinh thần dân chủ trong khoa học và không đúng với tinh thần chính trị của xã hội ngày nay. RFI : Qua việc đả kích nặng nề bản luận văn của Nhã Thuyên, phải chăng người ta muốn nhắm đến những xu hướng văn học đi ra ngoài khuôn khổ cho phép ? Phạm Xuân Nguyên : Theo tôi nghĩ, việc phê phán mạnh mẽ, dữ dội, gay gắt luận văn của Đỗ Thị Thoan - Nhã Thuyên là vì cô nghiên cứu về một đối tượng « nhạy cảm ». Toàn bộ vụ việc này, cũng như trước đây, khi có phê phán, đánh đấm gì đấy, thì người ta thường nhìn từ góc độ chính trị. Trong con mắt của chính quyền, nhóm Mở Miệng biểu hiện cho một sự bất an về chính trị. Bản thân anh Bùi Chát, người phụ trách Nhà xuất bản Giấy Vụn, đã từng bị bắt.Những người trong nhóm cũng bị bị gọi lên công an. Họ không nhìn nhóm đó như một hiện tượng văn học, mà xem như một hiện tượng chính trị. Những bài viết phê phán vẫn theo tinh thần truyền thống của những bài viết phê phán các tác phẩm văn hóa theo hướng quy chụp về mặt chính trị. Đầu thế kỷ 21 rồi, gần 15 năm của thế kỷ này rồi, mà đọc lại ( những bài viết đó ) tôi vẫn còn thấy rùng rợn, lo ngại, như cách đây nửa thế kỹ. Toàn là những lời quy chụp ! Nếu có những bài phê bình như vậy, thì mọi việc ( lẽ ra ) vẫn bình thường, tôi có thể tiếp thu, nghiên cứu ý kiến của anh. Nhưng ở đây, dường như có lệnh từ trên dội xuống, bắt phải họp, bắt phải kiểm điểm, bắt đầu từ cái bài phê bình của ông Nguyễn Văn Lưu. Trước đó, ông có viết một loạt bài trên tờ Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh mấy kỳ liền. Sau đó, tại Hội nghị Lý luận-Phê bình văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đầu tháng 06/2013 vừa qua, mà tôi cũng là đại biểu tham dự, Nguyễn Văn Lưu cũng lên đọc bài đó, nói về hiện tượng này và cũng hô hoán lên giống như vào thời kỳ đổi mới, nào là « lật đổ thần tượng », nào « chống đối », nào là « chính trị ». Khi tôi đăng ký phát biểu, tôi cũng đã nói ngay kiểu phê bình đó là phê bình « chỉ điểm », tức là bới móc ra để trấn áp, bắt bớ hoặc có biện pháp mạnh. Đây không phải lần đầu tôi nói với ông Lưu như vậy. Tháng Tư năm ngoái, cũng tại một cuộc hội thảo về nâng cao lý luận phê bình văn học, do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức tại Hà Nội, tôi cũng là một đại biểu được mời, Nguyễn Văn Lưu hôm đó cũng đọc một bài về kinh nghiệm phê bình văn học, qua một trường hợp văn học cụ thể, đó là hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, phê bình văn học Nguyễn Huy Thiệp hồi mới đổi mới, khi Nguyễn Huy Thiệp mới xuất hiện. Ông ta khẳng định rằng những bài viết về Nguyễn Huy Thiệp cho thấy những người ủng hộ Thiệp hoạt động có tổ chức, có người ra chủ trương, có người vạch đường hướng, phân công người này, người kia viết bài tâng bốc, ủng hộ Thiệp. Phe chống đối Thiệp lúc đó cũng cho rằng Thiệp muốn « lật đổ thần tượng », « bôi nhọ dân tộc ». Cũng tại diễn đàn đó, khi phát biểu, tôi cũng đã nói ngay rằng lối phê bình của Nguyễn Văn Lưu là phê bình « chỉ điểm ». Cái từ « chỉ điểm » tôi đã nói ngay từ hội thảo tháng 04/2012, cho đến hội nghị vừa qua ở Tam Đảo tôi đã nhắc lại từ này khi nói về bài phê bình của Nguyễn Văn Lưu. Vừa rồi, giáo sư Trần Đình Sử cũng đã có một bài viết cũng rất hay, gọi đó là lối phê bình « kiểm dịch », giống như kiểm dịch thịt lợn. Thịt lợn bị đóng dấu bệnh là không được tiêu dùng. Bây giờ có kiểu phê bình « kiểm dịch », tức là đóng dấu vào các tác phẩm văn học, nhưng bất chấp phẩm tính của văn học tác phẩm. Giáo sư Trần Đình Sử cũng kết thúc bài viết bằng một câu rất hay : « Đó có thể đó cũng là một lối phê bình, nhưng đó không phải là phê bình văn học ». Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến của Giáo sư Trần Đình Sử. Tất cả những bài đánh đấm luận văn của Nhã Thuyên không phải là phê bình văn học. RFI : Xin cám ơn nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên. ----- Văn học trung tâm: động cơ của phê bình chỉ điểm?
Vụ án Văn học Nhã Thuyên tức Đỗ Thị Thoan bước vào tuần lễ thứ ba với hàng chục bài viết dồn đẩy bài luận văn thạc sĩ vào chân tường qua cái nhãn phê bình văn học. Những luận điểm phê bình này được GS Trần Đình Sử gọi là “Phê bình kiểm dịch” còn nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên gọi thẳng là “Phê bình chỉ điểm”.
Kiểm dịch hay chỉ điểm cũng đều đe dọa sự vận động của nền văn học Việt Nam do đó qua sự quan trọng của bản thân sự kiện văn học này Mặc Lâm xin được một lần nữa trao đổi với nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên trước cái tựa ấn tượng và rất “hiện thực” của ông.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên hiện giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội trong nhiệm kỳ mới nhất này.
Trước tiên ông Phạm Xuân Nguyên lý giải tại sao rất nhiều nhà lý luận phê bình văn học Việt Nam vẫn chưa thoát ra được lý thuyết văn học hiện thực Xã hội chủ nghĩa, mặc dù cố tìm cách tiếp cận với nền phê bình văn học Tây phương.
Vẫn phê bình văn học dưới lăng kính chính trị cho nên thình thoảng lại có một vụ việc gì đấy.
Phạm Xuân Nguyên: Cùng với sự chuyển đổi của công cuộc đổi mới có nhiều thay đổi cách nhìn nhận từ kinh tế thị trường, về dân chủ về nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. Nó đang tiệm cận với thế giới với giá trị cốt lõi căn bản của nhân loại. Trong văn học, do chiến tranh do những việc trong thời kỳ bao cấp mà theo một loại hình khác và cho đến bây giờ khi trở lại cuộc sống bình thường thì văn học cũng có một sự chuyển đổi nội tại. Bên phê bình cũng thế thường được gọi là phê bình Văn học Xã hội chủ nghĩa. Cụm từ ấy trước đây coi như cụm từ thống soái trong mọi bài viết, trong mọi nghị quyết, chỉ thị hay trong mọi bài phê bình văn học không thể không nhắc tới phê bình văn học xã hội chủ nghĩa.
Nó áp dụng lên tất cả thực tế sáng tác, phê bình hay giảng dạy nhưng cho đến bây giờ không ai nói hay nhắc tới nữa. Tất nhiên không phải không nói đến thì tự nhiên nó mất. Những di hại hay tác động tiêu cực của nó vẫn còn rơi rớt trong tư duy của nhà quản lý hay nhiều người khá sâu đậm. Nói ngay như chuyện bản luận văn của cô Nhã Thuyên: những bài phê phán có thể gọi là đánh đập giống như trước đây khiến người ta liên tưởng đến vụ án văn chương trước đây nhưng tôi tin là có sự chuyển đổi trong hệ hình trong văn học.
Xung đột hay tiêu diệt?
Mặc Lâm: Theo ông các lý thuyết văn học nước ngoài được giới phê bình trong nước tiếp cận ra sao?
Phạm Xuân Nguyên: Những lý thuyết, trường phái nước ngoài cả cũ lẫn mới thí dụ như là lý thuyết M. Bakhtin chẳng hạn. Về thi pháp tiểu thuyết những quan niệm đối thoại từ đó ra liên văn bản được giới thiệu và áp dụng tại Việt Nam. Cũng có những lý thuyết mà đối với phuơng Tây hay châu Âu gọi là cũ như “cấu trúc”, “hậu cấu trúc”, “hiện tượng học”... lần lượt được dịch được giới thiệu cũng như được vận dụng tại Việt Nam và điều này là có. Do đó mà bao giờ cũng có cái cũ và cái mới. Mới thì đi theo thế hệ mới họ vận dụng vào đời sống văn học cả đương đại lẫn trung đại.
Nếu chỉ thuần về chuyên môn thì hai hệ mỹ học hoàn toàn khác nhau, cách tiếp cận khác nhau vì từ lý thuyết đã khác nhau nên nhẹ thì va chạm xung đột mà nặng thì có thể tiêu diệt nhau.
Mặc Lâm: Theo như anh vừa nói thì do hai hệ mỹ học xung đột nhau gây ra sự tiêu diệt lẫn nhau. Hệ quả hiện nay là có nhiều nhà phê bình đánh nhóm Mở Miệng qua bài luận văn của Đỗ Thị Thoan. Tuy nhiên nhiều người không đồng tình với ý kiến này mà họ cho là sâu xa hơn, đàng sau đó là các động cơ chính trị không được trong sáng lắm anh nhận thấy ý kiến này ra sao?
Phạm Xuân Nguyên: Tôi muốn nói là “chưa nói đến” những yếu tố có chính trị can thiệp vào. Tôi chỉ nói xét theo chuyên môn thì cái cũ cái mới đứng trên bình diện lý thuyết, trên những phuơng pháp khác nhau nó cũng đưa đến sự khác nhau rồi. Nhẹ thì có thề va chạm ý kiến mà nặng thì va chạm quan điểm và hệ thống lý thuyết. Cho đến bây giờ cái dòng chủ lưu vẫn thường là phê bình trên mặt báo vẫn nặng tính chính trị. Vẫn phê bình văn học dưới lăng kính chính trị cho nên thình thoảng lại có một vụ việc gì đấy. Một cuốn sách này bị cấm, một bài báo kia bị phê phán... thường là có yếu tố chính trị, hoặc là bị quy kết yếu tố chính trị. Chẳng hạn như cuốn tiều thuyết “Thời của thánh thần” của Hoàng Minh Tường chẳng hạn. Người ta nói cuốn này nói về cải cách ruộng đất, nói về một thời kỳ lịch sử nên nó bị cấm.
“Trung tâm/ngoại biên” đang được áp dụng?
Mặc Lâm: Xin lỗi phải cắt ngang anh chỗ này, những người tấn công Nhã Thuyên và cuốn Thời Của Thánh Thần có khác nhau, thay vì phải tấn công nhóm Mở Miệng vì họ là người sáng tác còn Nhã Thuyên chỉ là người làm luận văn một trào lưu văn học mà chị gọi là “bên lề” do đó người ta có quyền nghĩ rằng nhóm người phê bình Nhã Thuyên có động cơ khác ngoài động cơ văn học?
Phạm Xuân Nguyên: Trong vụ Nhã Thuyên này thì nhiều người tự hỏi vì sao như vậy? Rõ ràng ở đây người ta đánh giá có một cái gì khác ngoài vẩn đề của một bản luận văn, nhất là bản luận văn này đã được bảo vệ cách đây ba năm và được hội đồng cho điểm 10. Tự nhiên bây giờ có ai tung nó ra lấy nó như một cái cớ để nhằm mục đích gì? Cho đến bây giờ đã có khoảng 20 bài viết với những lời quy kết rất nặng nề tuy chưa biết đúng sai thế nào mà đòi phải đuổi việc cô Nhã Thuyên, kỷ luật người hướng dẫn rồi báo động phải xem lại việc đào tạo khoa văn của trường Đại học Sư phạm... thì rõ ràng đây là ý đồ ngoài văn học.
Mọi người khi quan sát hiện tượng này thì đều thấy rất rõ như vậy cho nên anh không thể quy kết một cách xằng bậy như vậy. Rõ ràng nhóm Mở Miệng họ có một quan điểm và họ có những tuyên ngôn của họ để nhằm đạt tới vấn đề mỹ học, tư tưởng hay quan điểm. Cô Nhã Thuyên lấy đó làm đối tượng và khảo sát nó, xử lý văn học và dùng lý thuyết “trung tâm/ngoại biên” khai thác lý thuyết “Kẻ bên lề”...để soi chiếu vào.
Báo chí chính thống chỉ đăng những bài phê mà không đăng những bài lại (bênh vực). Người bị hại cũng không được lên tiếng để bảo vệ mình tức là không có sự trao đổi bình đẳng.
Nó thật sự khoa học và được một hội đồng chấp nhận. Quy trình làm luận án cao học cũng như luận án tiến sĩ tại Việt Nam phải qua rất nhiều công đoạn vì đây là một quy trình khoa học. Vì vậy nếu ông Nguyễn Văn Lưu hay là ai khác khi đọc có thể không đồng ý với nó nhưng ông phải trình bày nó như một cách đọc luận văn và từ đó phải đưa ra một cách đọc về nhóm Mở Miệng dưới một góc độ khác để so sánh, đối chiếu những quan niệm này với nhau.
Người ta đã chụp cho nó chiếc mũ phản động. Đã lớn tiếng động chạm đến sinh mệnh chính trị và cả nghề nghiệp, cuộc sống của người ta nữa.
Mặc Lâm: Nhóm Mở Miệng đã xuất hiện từ nhiều năm qua chứ không phải mới đây. Tuy nhiên người ta chưa thấy bất cứ một bài phê bình văn học nào viết về nhóm này một cách khoa học. Câu hỏi đặt ra là phải chăng vì họ sáng tác theo dòng văn chương hậu hiện đại khiến cho giới phê bình e dè vì họ không đủ lý luận lẫn lập luận để đụng tới lĩnh vực này hay chính nhận thức thẩm mỹ trong văn học xã hội chủ nghĩa đã cản trở họ làm công việc này?
Phạm Xuân Nguyên: Có cả hai. Một là họ không đứng trong hệ thống mỹ học mới và họ không chấp nhận hệ thống mỹ học này, ta tạm gọi đó là lý do “văn học” và bên cạnh đó là lý do “giải thiêng”. Thật ra trong vụ đánh đấm, phê phán này thì nó càng chứng tỏ đúng là có trung tâm và ngoại biên. Họ càng muốn phủ nhận điều đó thì càng rõ ràng bởi những phê phán này dù tự giác hay không tự giác, ý thức hay không ý thức thì họ đã tự đặt mình vào vị trí trung tâm và chế áp ngoại biên. Bản thân những người bị phê phán trong cuộc tôi cho đó là sự dũng cảm của tổ Văn học Việt Nam Hiện đại đã hướng dẫn cho bài luận văn này. Bởi vì khi làm như vậy họ biết là sẽ bị đặt vào vị trí bên lề, và từ đó sẽ bị coi là không chính danh, không thuộc trung tâm.
Toàn bộ cuộc phê phán này đã chứng tỏ có trung tâm và ngoại biên đúng như lý thuyết. Trung tâm này có đầy đủ những áp chế những cái ngoại biên hay bên lề. Phải nói thật rằng những người viết bài phê phán vừa rồi là những người không nắm được lý thuyết. Họ không lập luận và cũng không đi vào lý thuyết vì họ biết đó là điểm yếu của họ cho nên họ phải đẩy sang phía chính trị, tư tưởng và giọng điệu của họ là giọng điệu quy kết chứ không phải phân tích.
Mặc Lâm: Cho tới nay sự lên tiếng bênh vực cho bản luận văn này trên phương tiện truyền thông chính thống vẫn còn quá thưa thớt ngoại trừ bài viết “Phê bình chỉ điểm” của ông xuất hiện trên tờ Pháp Luật Thành phố. Trong khi đó các tờ báo lớn và chính quy như Quân Đội Nhân Dân, Nhân Dân, Văn Nghệ, Thanh Tra và hàng chục tờ báo khác viết bài tấn công đả kích... sự chênh lệch này sẽ dẫn tới hậu quả gì thưa ông?
Phạm Xuân Nguyên: Nó sẽ tác hại đến nền phê bình văn học Việt Nam. Qua vụ Nhã Thuyên này người ta thấy y hệt những vụ xảy ra từ trước tới nay, tức là chỉ có một chiều. Báo chí chính thống chỉ đăng những bài phê mà không đăng những bài lại (bênh vực). Người bị hại cũng không được lên tiếng để bảo vệ mình tức là không có sự trao đổi bình đẳng. Rõ ràng ở đây chưa có một điều gì rõ ràng mà chỉ là áp lực nhưng Hội đồng chấm luận văn phải họp lại thì đủ thấy sức mạnh của phía trung tâm như thế nào và điều này đã khiến mọi người lo sợ cho một vụ Nhân văn Giai phẩm mới.
Đúng là bổn cũ soạn lại y hệt như mọi thao tác như từ trước tới nay. Nhiều bài, nhiều báo ra dồn dập luận điệu giống như nhau. Quy kết về chính trị, quy kết về tư tưởng và không chứng minh, lẫn lộn mọi thứ. Lẫn lộn giữa đối tượng và người nghiên cứu đối tượng.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét