Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

(6) Phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô đến năm 2010

Bài viết cũ của tôi năm 2004:
Phân tích, dự báo một số khả năng phát triển kinh tế đến năm 2010
II- KHU VỰC TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ CỦA NỀN KINH TẾ
Những thành tựu kinh tế vĩ mô trong khu vực thực nêu trên gắn liền với tiến triển của khu vực tài chính, tiền tệ. Khu vực này xác định nhiều biến quan trọng của nền kinh tế như tài chính, tiền tệ, lãi suất, lạm phát và tỷ giá...; những biến này sẽ ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận đầu tư nói riêng và khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế nói chung, từ đó tác động tới đầu tư và tăng trưởng sản xuất. Nhìn chung, sau một giai đoạn phát triển đầy biến động nửa cuối thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90, từ năm 1993 đến nay, hoạt động tài chính, tiền tệ đã đi dần vào thế ổn định và ngày càng phù hợp với mục tiêu ổn định kinh tế, tạo thuận lợi rất cơ bản cho quá trình tăng trưởng. Trong mục này, chúng ta sẽ xem xét tiến triển của một số chỉ tiêu tài chính, tiền tệ chính và quan hệ giữa chúng với tăng trưởng kinh tế vĩ mô làm cơ sở để xây dựng các phương trình trong mô hình kinh tế lượng.
          1) Lãi suất thực và đầu tư
          Các lãi suất thực phản ánh tình trạng căng thẳng trên thị trường tiền tệ. Chúng được định nghĩa là chênh lệch giữa các lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát dự kiến. Đối với thời kỳ quá khứ, khi không có chỉ tiêu khách quan phản ánh đúng tỷ lệ lạm phát dự kiến thì người ta thường xấp xỉ nó bằng tỷ lệ lạm phát thực tế. Mặt khác, các lãi suất dài hạn được coi là chỉ tiêu đo lường tốt nhất tình trạng căng thẳng trên các thị trường vốn trong khi các lãi suất ngắn hạn thường được dùng để đo lường độ căng thẳng trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn). Đối với nền kinh tế nước ta, do thị trường vốn còn rất kém phát triển, vốn huy động và cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn và chính phủ còn thường xuyên can thiệp vào lãi suất thị trường nên chỉ tiêu lãi suất ngắn hạn phản ảnh tình trạng thị trường tốt hơn.

          a) Xu hướng phát triển của lãi suất thực

          Đồ thị dưới đây minh hoạ tiến triển của lãi suất thực đối với huy động tiền gửi kỳ hạn 3 tháng của dân cư (lãi suất HĐ) và lãi suất thực đối với cho vay ngắn hạn (lãi suất CV). Theo đồ thị, rõ ràng đến trước năm 1993, các lãi suất thực còn biến động rất mạnh: ở những mức rất cao trong năm 1989 rồi đột ngột rất giảm mạnh trong năm 1990, trở thành âm trong năm 1991 (lần lượt là -11,2% và -28,3% năm 1991), rồi tăng vọt trở lại tới 9,3% và 20,1% trong năm 1992. Tuy nhiên, từ năm 1993 đến 1998, lãi suất thực đã tiến triển theo xu hướng giảm dần khá ổn định. Đến năm 1998, lãi suất thực tụt đến mức thấp nhất, chỉ còn 0,5% đối với lãi suất huy động và 5,5% đối với lãi suất cho vay. Trong giai đoạn 1992-1998, lãi suất huy động thực bình quân năm là 5,9% và lãi suất cho vay ngắn hạn thực bình quân năm là 14,1%. Nguyên nhân của quá trình giảm lãi suất thực trong giai đoạn này là các lãi suất huy động, lãi suất cho vay danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát đều giảm, nhưng tốc động giảm của các lãi suất danh nghĩa nhanh hơn tốc độ giảm lạm phát. Quá trình giảm lãi suất thực này phản ánh độ ổn định của nền kinh tế tăng lên, do đó khoảng cách giữa các loại lãi suất thực được thu hẹp dần.




                    Đồ thị 9: Tiến triển của các loại lãi suất thực (%)

          Tuy nhiên, tiến triển của lãi suất thực đã thay đổi trong các năm 1999-2000. Mặc dù các lãi suất danh nghĩa tiếp tục xu thế giảm nhưng lãi suất thực đều tăng lên do tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột (tỷ lệ lạm phát giảm từ 9,2% năm 1998 xuống 0,1% năm 1999 và -0,6% năm 2000). Tính trung bình trong 2 năm 1999 và 2000, lãi suất huy động thực lên tới 4,4% trong khi lãi suất cho vay thực tăng lên tới 11%. Môi trường kinh tế không ổn định do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế châu á và tỷ lệ lạm phát giảm đột ngột đã làm khoảng cách giữa lãi suất cho vay thực và lãi suất huy động thực tăng lên.

          Điều đáng nói thêm là trong những năm gần đây (2001-2004), lãi suất thực biến động không ổn định, năm tăng năm giảm, do tỷ lệ lạm phát thay đổi đột ngột. Đặc biệt trong năm 2004, do tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng cao (9,5%) nên lãi suất huy động thực tụt xuống âm (-2,4%), trong khi lãi suất cho vay thực rất thấp (0,6)%, không đủ để đáp ứng các chi phí hoạt động của hệ thống ngân hàng. Lãi suất thực âm thông thường sẽ ảnh hưởng bất lợi tới huy động vốn và đầu tư toàn nền kinh tế. Thực tế cũng đã xảy ra ở nước ta như trong phân tích dưới đây.

          b) Quan hệ giữa lãi suất thực và tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư)

          Trong kinh tế thị trường, tiến triển của lãi suất thực được xem như một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới đầu tư, từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế. Đồ thị 10 cho thấy ở Việt Nam trước năm 1992, khi lãi suất thực thoát ly thực tế (cao quá hoặc thấp quá), thì tỷ lệ đầu tư trên GDP cực kỳ thấp. Ngược lại, từ năm 1992, khi lãi suất thực được đưa dần về mức phù hợp với một nền kinh tế đang chuyển đổi, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trên đã GDP tăng lên rất nhanh. Mặt khác, như đã phân tích trong phần trên, đầu tư là nhân tố quyết định tạo ra quá trình tăng trưởng trong thập kỷ 90 nên ở nước ta, bên cạnh nhiều nhân tố khác, lãi suất là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng gián tiếp với tăng trưởng.

Tuy nhiên, sau một số năm giảm dần lãi suất cho vay thực về mức hợp lý, việc các lãi suất thực trở lại mức cao trong những năm 1999-2001 đã có những tác động tiêu cực tới đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Thứ nhất, lãi suất thực cao làm tỷ lệ đầu tư trên GDP giảm từ 29% năm 1998 xuống còn 27% năm 1999 và chỉ trở lại 28,9% năm 2000 nhờ tác động rất tích cực của Luật Doanh nghiệp. Trong điều kiện tốc độ tăng năng suất lao động và cơ hội kinh doanh không còn thuận lợi như giai đoạn đầu chuyển đổi, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đang trở nên quá cao so với tỷ suất lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, làm cho nhiều doanh nghiệp không còn dám tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất nữa. Hậu quả là trong ba năm đó, các ngân hàng liên tục bị ứ đọng vốn do tốc độ cho vay luôn luôn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng tiền gửi.




                  Đồ thị 10: Quan hệ giữa lãi suất thực, tiết kiệm và đầu tư (%)

Nguồn số liệu: Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổng cục Thống kê; tỷ lệ đầu tư / GDP và tiết kiệm / GDP được đo theo trục trái, lãi suất cho vay thực được đo theo trục phải.

          Tác hại thứ hai của việc duy trì lãi suất thực cao là hạn chế tiêu dùng. Trong những năm này, phần lớn các hộ gia đình đều hạn chế chi tiêu để dành tiền gửi tiết kiệm ngân hàng lấy lãi suất cao hoặc đổ tiền vào bất động sản, một loại hàng hoá đặc biệt chỉ có tăng giá chứ không có giảm giá trong điều kiện đất chật, người đông và tốc độ đô thị hoá nhanh ở nước ta. Cầu tiêu dùng trong nước chậm lại trong khi đầu tư trì trệ và cầu bên ngoài giảm mạnh đã tác động làm giảm khả năng đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.

Tác hại thứ ba của chính sách lãi suất thực cao là gây khó khăn hơn cho cân đối tài chính của các doanh nghiệp và chính phủ. Trong hầu hết các doanh nghiệp, khoảng 50% đến 80% vốn kinh doanh là vay từ ngân hàng. Lãi suất thực cao làm cho việc trả lãi ngân hàng trở thành gánh nặng đối với các doanh nghiệp; tỷ lệ nợ ngân hàng quá hạn và tỷ lệ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tăng lên. Bản thân nhà nước cũng đi vay dân, nên lãi suất thực cao cũng sẽ gây khó khăn cho nhà nước khi phải thanh toán nợ công cộng đến hạn, đồng thời cũng hạn chế phạm vi hoạt động của chính sách ngân sách.

          Trong bối cảnh đó, chính sách cho vay ưu đãi để kích cầu của Chính phủ đã phát huy tác động mạnh mẽ từ năm 2001 đến năm 2003. Khối lượng tiền tệ và tín dụng tiếp tục tăng nhanh, làm cho tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa đều tăng lên, nhưng do tốc độ tăng tỷ lệ lạm phát cao hơn tốc độ tăng lãi suất danh nghĩa nên lãi suất cho vay thực đã giảm xuống, thậm chí gần bằng 0% trong năm 2004. Việc lãi suất thực giảm xuống quá mạnh, lãi suất huy động thực âm năm 2004 đã ảnh hưởng bất lợi tới huy động vốn đầu tư qua hệ thống ngân hàng, đồng thời kích thích người dân tiêu dùng hơn là tiết kiệm và đầu tư, do đó đã góp phần làm tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư năm 2004 giảm xuống.

          2) Tăng trưởng tiền tệ, lạm phát và tăng trưởng GDP

a) Quan hệ giữa tiền tệ và lạm phát

Phân tích và dự báo lạm phát là một trong những nội dung quan trọng nhất của nghiên cứu kinh tế vĩ mô vì một mặt, giá cả có ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động của nền kinh tế, và mặt khác trong cân đối vĩ mô, bên cạnh cân đối hiện vật, bao giờ cũng phải xây dựng cân đối giá trị dựa trên dự báo tiến triển của giá cả. Tất cả các lý thuyết kinh tế, trong khi nhấn mạnh nguyên nhân trực tiếp hay sâu xa của hiện tượng lạm phát thuộc nhân tố này hay nhân tố khác, đều thống nhất thừa nhận cung tiền tệ có ảnh hưởng rất lớn tới lạm phát, dù rằng ảnh hưởng đó có thể chưa diễn ngay mà phải qua một khoảng thời gian trễ. Quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền tệ (theo nghĩa rộng) và lạm phát là một trong những quan hệ trung tâm của kinh tế vĩ mô và phản ảnh một trong những vai trò tác động chính của chính sách tiền tệ.

Quan hệ giữa tăng trưởng tiền tệ và lạm phát được thể hiện khá rõ trong nền kinh tế nước ta thời kỳ cải cách; nhất là vào nửa cuối thập kỷ 80, khi những tỷ lệ lạm phát rất cao đi liền với những tốc độ tăng trưởng tiền tệ rất cao. Đồ thị dưới đây được xây dựng căn cứ vào số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (về tăng trưởng cung tiền tệ) và Tổng cục Thống kê (về lạm phát) cho thấy từ năm 1990 đến năm 1998[1], lạm phát tiến triển gần như song song với tăng trưởng tiền tệ; điều này cho thấy có một quan hệ tỷ lệ thuận giữa hai chỉ tiêu này.

Tuy nhiên, phân tích kỹ tình hình trong các năm 1999-2004 thì thấy dường như có một quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tăng trưởng tiền tệ vào lạm phát vì khi tốc độ tăng trưởng tiền tệ giảm thì tỷ lệ lạm phát lại tăng và ngược lại. Có thể lý giải hiện tượng trái với xu thế này như sau: do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ châu á, tốc độ tăng trưởng tổng cầu giảm đột ngột, làm cho tổng cung lớn hơn tổng cầu; hậu quả tiếp theo là tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh. Đến lượt mình, việc tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm lại thêm tác động của lãi suất thực cao đã gây ra hậu quả làm giảm tốc độ tăng trưởng cầu tín dụng trong khi làm tăng tỷ lệ tiết kiệm tiền tệ; tức là làm tỷ trọng tiền đưa ra lưu thông trong tổng cung tiền tệ giảm mạnh (mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh). Từ đây phát sinh quan hệ nhân quả thứ ba là tốc độ tăng trưởng tiền đưa vào lưu thông thấp trong khi cung vượt cầu trên thị trường hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng thì giá hoặc tốc độ tăng giá của chúng phải giảm.




   Đồ thị 11: Quan hệ giữa cung tiền tệ và lạm phát (%/năm)

            Nguồn số liệu: Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổng cục Thống kê

Phân tích quan hệ nhân quả theo phương pháp Granger cho giai đoạn 1990-2004 cho thấy quan hệ hai chiều giữa tiền tệ và lạm phát đi từ tăng trưởng tiền tệ đến lạm phát hoặc từ lạm phát tới tăng trưởng tiền tệ đều rất mạnh trong đó đặc biệt là chiều đi từ tăng trưởng tiền tệ đến lạm phát[2]. Như vậy, tăng trưởng tiền tệ có tác động mạnh tới giá cả và tỷ lệ lạm phát. Ước lượng kinh tế lượng với chuỗi thời gian 1987-2004 cho thấy trung bình, khi tốc độ tăng trưởng cung tiền tệ giảm 1% (ví dụ từ 30% xuống 29%) thì tỷ lệ lạm phát giảm tới 0,95%, tức là hầu như toàn bộ số tăng hoặc giảm cung tiền tệ đều được chuyển sang thành tăng hoặc giảm giá. Điều này cho thấy vai trò cực kỳ quan trọng của tiền tệ đối với giá cả trong nền kinh tế nước ta tính về trung hạn.





          b) Quan hệ giữa tăng trưởng tiền tệ và tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng tiền tệ là chỉ tiêu chính để xác định tiến triển của chính sách tiền tệ trong khi chính sách tiền tệ có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia vì nó tác động mạnh mẽ tới huy động và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Ở nước ta, vai trò của chính sách tiền tệ còn quan trọng hơn, vì thị trường vốn trực tiếp (thị trường chứng khoán) còn quá nhỏ bé; phần lớn nguồn vốn nội lực được huy động và đưa vào đầu tư đều thông qua hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua, do quá chú trọng đến thắt chặt tiền tệ nhằm chống lạm phát nên chính sách tiền tệ đã không phát huy được đầy đủ tác dụng tới động viên đầu tư và tăng trưởng kinh tế; thậm chí trong một số giai đoạn, do chính sách lãi suất thực cao, huy động tiền vào ngân hàng ngày một tăng trong khi tốc độ cho vay chậm, làm cho tăng trưởng tiền tệ chậm dần dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp và tình trạng thiểu phát trở nên nặng nề.

          Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng tăng trưởng tiền tệ luôn luôn có quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế. Ở nước ta trong những năm đổi mới, quan hệ này được thể hiện tương đối rõ. Đồ thị dưới đây cho thấy, trong các năm 1987-1996, tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa tiến triển xấp xỉ ngang nhau; tức là toàn bộ cung tiền tệ đã được chuyển thẳng vào tăng trưởng GDP cộng với tăng giá GDP theo đúng quan điểm của thuyết trọng tiền. Hơn nữa, trong nhiều năm, nhất là từ 1994 đến nay, tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán còn cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa.

          Đồ thị 12: Quan hệ giữa tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 và tăng trưởng GDP tính theo giá hiện hành (%/năm)




          Điều này hoàn toàn phù hợp với lập luận của các nhà kinh tế hiện đại cho rằng trong những nền kinh tế tự cung tự cấp hoặc đang chuyển đổi như nước ta, nhu cầu tiền tệ hoá sẽ rất cao nên tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán thường phải cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa; nếu không, nền kinh tế sẽ rơi vào trường hợp thiếu tiền phục vụ lưu thông và phát triển kinh tế hàng hoá, và đến một lúc nào đó, do sức ép của cuộc sống, tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán sẽ phải cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa dù đây không phải là mong muốn của những người điều hành chính sách tiền tệ.

Thực tế nền kinh tế nước ta cho thấy trong một số năm như từ 1990 kéo dài đến 1994, do tốc độ tăng trưởng tiền tệ không đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và tiền tệ hoá nền kinh tế, hiện tượng khan hiếm tiền lưu thông đã trở nên phổ biến, buộc Ngân hàng trung ương phải phát hành các loại ngân phiếu được sử dụng thay tiền nhưng không phải là tiền vì chỉ có giá trị sử dụng trong vòng 3 tháng và chịu một số biện pháp quản lý khác. Bên cạnh đó, do thiếu tiền Việt để lưu thông, người dân và các doanh nghiệp đã sử dụng ngay vàng và ngoại tệ, đặc biệt là đồng đô la Mỹ, làm phương tiện thay thế, kéo theo hiện tượng đô la hoá mạnh mẽ nền kinh tế trong những năm thiếu tiền mặt.

          Kiểm tra quan hệ nhân quả theo phương pháp Granger - Sim với chuỗi số liệu từ năm 1987 đến 2004 cho thấy tồn tại các mối quan hệ nhân quả hai chiều rất mạnh đi từ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP tính theo giá hiện hành) đến tăng trưởng tiền tệ và ngược lại, trong đó khi độ trễ là 1 năm thì chiều từ tăng trưởng GDP đến tăng trưởng tiền tệ mạnh hơn, khi độ trễ là 2 năm thì chiều từ tăng trưởng tiền tệ đến tăng trưởng GDP mạnh hơn[3]. Như vậy, ở tầm ngắn hạn, tăng trưởng kinh tế đã gây sức ép phải tăng trưởng tiền tệ, trong khi tăng trưởng tiền tệ đến lượt mình lại tạo điều kiện để kinh tế phát triển. Quan hệ thứ hai này cho thấy vai trò quan trọng của cung cấp tiền tệ và chính sách tiền tệ tới tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn hạn. Tuy nhiên, xem xét với thời gian trễ ngày càng lớn thì ảnh hưởng của tăng trưởng tới tiền tệ càng quan trọng hơn so với chiều ngược lại; điều này chứng tỏ vai trò của chính sách tiền tệ rất yếu.

          c) Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế (GDP) và lạm phát

          Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát cũng là một trong những quan hệ trung tâm của quản lý kinh tế vĩ mô, nhất là trong các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng tương đối cao như ở nước ta. Quan hệ nhân quả này thường được phân tích theo hai chiều. Các nước công nghiệp và các tổ chức tài chính quốc tế thường nhấn mạnh chiều đi từ lạm phát đến tăng trưởng, trong đó lạm phát được coi môi trường cho quá trình tăng trưởng: tỷ lệ lạm phát thấp sẽ mở ra môi trường sản xuất kinh doanh ổn định và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; ngược lại tỷ lệ lạm phát cao sẽ tạo ra môi trường sản xuất kinh doanh không ổn định, dẫn tới đầu tư thấp và tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp.

          Tuy nhiên, trái với quan niệm của các nước công nghiệp và các tổ chức tài chính quốc tế, các lý thuyết kinh tế khi nghiên cứu cho trường hợp các nước đang phát triển đều tập trung phân tích chiều quan hệ đi từ tăng trưởng đến lạm phát, coi tăng trưởng là một nguyên nhân của lạm phát. Đặc biệt, đây cũng là mối quan tâm hàng đầu tại các nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (nền kinh tế tăng trưởng nóng). Kinh nghiệm quản lý kinh tế chỉ ra rất rõ ràng rằng trong một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, tổng cầu gồm nguyên liệu cơ bản, năng lượng, lao động, vốn, vật tư... thường tăng nhanh, kéo theo tăng giá, tức là gây ra hiện tượng lạm phát. Hơn nữa, quá trình tăng trưởng nhanh cũng thường phải đi kèm với tăng trưởng tín dụng và tiền tệ cao trong khi những nhân tố này lại là nguyên nhân quan trọng và trực tiếp của quá trình lạm phát.

          Đồ thị dưới đây cho thấy trong giai đoạn 1986-2004, trong khi tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm mạnh trong suốt nửa cuối thập kỷ 80 và cả thập kỷ 90 (từ 67,5% năm 1990-1991 xuống -0,6% năm 2000) nhờ những chính sách kinh tế thích hợp, trước hết là chính sách tiền tệ chặt như đã phân tích trong phần trên, thì tốc độ tăng trưởng GDP cũng liên tục tăng lên, trừ trong nửa cuối thập kỷ 90. Mặt khác, trong thập kỷ 90 và 4 năm đầu thế kỷ 21, tốc độ tăng trưởng kinh tế tiến triển tương đối ổn định cũng đi kèm với tỷ lệ lạm phát tương đối ổn định.


          Đồ thị 13: Quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát (%/năm)

Như vậy, nhìn một khoảng dài kể từ nửa sau thập kỷ 80 đến nay thì có thể thấy một quan hệ âm giữa tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam; tức là tồn tại một đường cong Philip[4]. Quan hệ này được xác nhận là quan hệ nhân quả theo kiểm định Granger nhưng chỉ theo chiều từ tăng trưởng tới lạm phát chứ không có chiều ngược lại [5].

          3) Chính sách tài khoá và tăng trưởng kinh tế

          Cũng như chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá là một công cụ vĩ mô rất quan trọng để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế theo hướng duy trì tỷ lệ phát triển ổn định của nền kinh tế theo tiềm năng thực của nó. Đây là một chính sách điều chỉnh kinh tế nên có vai trò rất lớn trong các mô hình dự báo ngắn hạn.

          a) Xu hướng phát triển của tài chính công

          Kể từ khi bắt đầu chuyển đổi kinh tế năm 1986 đến nay, chính sách tài khoá ở nước ta đã phát triển qua ba giai đoạn: giai đoạn đầu kéo dài từ năm 1986 đến năm 1990; giai đoạn 2 diễn ra trong những năm 1991-1998 và giai đoạn 3 từ năm 1999 đến nay. Đặc trưng của giai đoạn đầu là tỷ trọng thu trong nước trong tổng thu ngân sách chỉ khoảng 60-80%, còn lại là vay nợ và viện trợ; thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế quốc doanh. Chi ngân sách tập trung cho khu vực doanh nghiệp nhà nước và được ưu tiên dành để phát triển các cơ sở công nghiệp nặng. Tỷ lệ thâm hụt ngân sách giai đoạn 1986-1990 lớn, khoảng 6,7%/năm; bình quân 63% bội chi ngân sách được bù đắp bằng phát hành tiền[6].

Từ năm 1989, Chính phủ Việt Nam bắt đầu nhận thấy cần phải cải cách triệt để hệ thống thu chi ngân sách và không thể dùng tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách nên một số chính sách mới đã được áp dụng, như hạn chế dần cơ chế ngân sách mềm, tách dần tài chính ngân sách nhà nước với tài chính doanh nghiệp, tăng nhanh quyền tự chủ sản xuất, tự hạch toán kinh doanh cho các doanh nghiệp, xây dựng và ban hành một loạt các luật thuế (cải cách thuế bước 1)... Mặc dù kết quả đạt được trong những năm 1989-1990 còn rất hạn chế, thậm chí tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tăng lên do thu ngân sách tăng chậm trong khi chi ngân sách tăng nhanh, nguồn viên trợ từ nước ngoài bị cắt giảm hoàn toàn và chính phủ phải tăng trợ cấp cho khu vực doanh nghiệp gặp khó khăn, nhưng ngay từ năm 1991, tình hình ngân sách đã có những cải thiện đáng kể. Tỷ lệ thu ngân sách trên GDP đã tăng vọt từ khoảng 14% trong các năm 1989-91 lên 23% trong các năm 1993-96 trong khi tỷ lệ chi ngân sách chỉ tăng từ khoảng 20% lên 26%; kết quả là tỷ lệ thâm hụt ngân sách đã giảm mạnh trong giai đoạn 2, thậm chí chỉ còn 1,9% năm 1991, 1,6% năm 1994 và 2,5% năm 1998, trung bình khoảng 3%/năm thời kỳ 1991-1998; thâm hụt ngân sách xuất phát từ chi tiêu cho đầu tư phát triển chứ không còn do chi tiêu thường xuyên như giai đoạn đầu. Đặc biệt, trong giai đoạn 2, về cơ bản, Việt Nam đã không sử dụng phát hành tiền tệ để bù đắp thâm hụt ngân sách mà thay bằng phát hành trái phiếu, tín phiếu nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân nên thâm hụt ngân sách không gây áp lực lên lạm phát. Như vậy, có thể kết luận rằng chính sách tài khoá giai đoạn này có xu hướng thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.

          Bảng 4: Tiến triển của thu chi ngân sách và so với GDP


GDP theo giá hiện hành (tỷ đồng)
Thu ngân sách (tỷ đồng)
Chi ngân sách (tỷ đồng)
Thu ngân sách so với GDP (%)
Chi ngân sách so với GDP (%)
Bội chi NS so với GDP (%)
1986
599
86
121
14,36
20,20
-5,84
1987
2870
387
515
13,48
17,94
-4,46
1988
15420
1791
2840
11,61
18,42
-6,80
1989
28093
3945
6671
14,04
23,75
-9,70
1990
41955
6372
9186
15,19
21,89
-6,71
1991
76707
10613
12081
13,84
15,75
-1,91
1992
110532
21024
23711
19,02
21,45
-2,43
1993
140258
32199
39063
22,96
27,85
-4,89
1994
178534
41440
44208
23,21
24,76
-1,55
1995
228892
53374
62679
23,32
27,38
-4,07
1996
272037
62387
70539
22,93
25,93
-3,00
1997
313624
65352
78057
20,84
24,89
-4,05
1998
361016
72965
81995
20,21
22,71
-2,50
1999
399942
69500
89400
17,38
22,35
-4,98
2000
441646
90749
108961
20,55
24,67
-4,12
2001
481295
103888
129773
21,59
26,96
-5,38
2002
535762
121715
148208
22,72
27,66
-4,94
2003
605586
142200
176600
23,48
29,16
-5,68
2004
708500
166900
206100
23,56
29,09
-5,53

Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê "Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội tháng 2/2001; Niên giám thống kê 2002 và Web site của Bộ Tài chính.



          Đặc trưng của chính sách tài khoá giai đoạn 3 là tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tăng lên khá mạnh; tỷ lệ trung bình năm trong 6 năm 1999-2004 khoảng 5,1% so với 3% của 8 năm 1991-1998. Trong những năm đầu của giai đoạn này, do tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm mạnh, chính phủ Việt Nam đã triển khai một chương trình kích cầu khá toàn diện ngay từ đầu quý II/1999. Về mặt tài chính công, chương trình cắt giảm thuế rộng rãi được áp dụng làm cho tỷ lệ thu ngân sách so với GDP giảm xuống còn 17,4% năm 1999 so với 20,2% năm 1998. Tỷ lệ này năm 2000 tăng lên tới 20,6% là nhờ tăng giá xuất khẩu dầu thô; nếu trừ đi ảnh hưởng của yếu tố này thì tỷ lệ thu ngân sách trên GDP chỉ khoảng 18%. Ngược lại, tỷ lệ chi ngân sách đã tăng lên nhanh; nhất là trong năm 2000 có sự tăng chi ngân sách mạnh cho tiêu dùng và đầu tư phát triển. xu hướng chung trong giai đoạn này là tỷ lệ thu và chi ngân sách trên GDP đều tăng nhanh song tỷ lệ chi tăng nhanh hơn tỷ lệ thu làm cho tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP có xu hướng tăng lên. Đáng nói thêm là toàn bộ phần bội chi ngân sách tăng lên trong những năm gần đây đã được dùng để đầu tư phát triển, chủ yếu là phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ quá trình phát triển kinh tế dài hạn.

          b) Quan hệ giữa chính sách tài khoá và tăng trưởng kinh tế

          Kinh nghiệm quá khứ ở nước ta cho thấy chính sách tài khoá có ảnh hưởng rất mạnh tới tăng trưởng kinh tế. Đồ thị 14 so sánh tiến triển của hai chỉ tiêu tỷ lệ thu và chi ngân sách trên GDP với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm. Trục tung bên phải phản ánh tốc độ tăng trưởng GDP; trục tung bên trái phản ánh tỷ lệ thu và chi ngân sách.




             Đồ thị 14: Quan hệ giữa chính sách tài khoá và tăng trưởng (%)

 Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê "Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội tháng 2/2001, Web site của Bộ Tài chính.

Theo đồ thị, rõ ràng tồn tại một quan hệ trực tiếp giữa ba chỉ tiêu này khi thấy ba đường cong tiến triển tương ứng với nhau, nhất là trong thập kỷ 90. Kiểm tra quan hệ nhân quả theo phương pháp Granger cho thấy có tồn tại quan hệ hai chiều giữa ba chỉ tiêu, tuy nhiên chiều từ tăng trưởng kinh tế đến hoạt động thu chi ngân sách mạnh hơn; đặc biệt có một quan hệ nhân quả mạnh giữa tỷ lệ thu và tỷ lệ chi ngân sách trên GDP theo chiều từ thu đến chi, tức là có thu mới có chi.

Tăng trưởng kinh tế cao cho phép tăng tỷ lệ thu và chi ngân sách là hiện tượng phổ biến trong kinh tế thế giới và được giải thích cụ thể trong các lý thuyết kinh tế. Phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng thu ngân sách tăng mạnh trong giai đoạn bùng nổ kinh tế 1992-1997 là nhờ phát triển kinh tế. Riêng đối với chiều quan hệ nhân quả đi từ chính sách tài khoá đến tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, có rất ít nghiên cứu quan hệ này; tuy nhiên, những phân tích mối quan hệ này cũng cho thấy giảm thuế và tăng chi tiêu ngân sách chính phủ thường kéo theo hiện tượng tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế với thời gian trễ khoảng 6 tháng đến 1 năm; tức là chính sách tài khoá có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng.

          Thực vậy, đối với chính sách tài khoá, giảm tỷ lệ thu ngân sách trong các năm 1986-88 và tăng tỷ lệ chi ngân sách trong các năm 1988-90 có tác dụng làm tăng tốc độ tăng trưởng GDP những năm 1988-1990 (so với 1986-1987); tuy nhiên do tỷ lệ thu ngân sách trong những năm 1989-90 tăng lên nên tốc độ tăng trưởng GDP không tăng lên tương xứng với tăng tỷ lệ chi ngân sách. Hạ tỷ lệ thu ngân sách trên GDP trong khi tăng mạnh tín dụng cho nền kinh tế để có thể giảm chi ngân sách trong năm 1991 (thay thâm hụt ngân sách bằng thâm hụt của Ngân hàng trung ương) đã cho phép phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao năm 1992 mặc dù tỷ lệ lạm phát tăng vọt tới 67,5% trong hai năm 1990-91. Trái lại, việc tăng mạnh tỷ lệ thu ngân sách trong năm 1992 đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1993. Trong những năm 1994-1995, chúng ta thấy tỷ lệ thu ngân sách liên tục được duy trì ở mức cao nhưng tốc độ tăng trưởng GDP vẫn cao, điều này được giải thích như sau: Một mặt, tỷ lệ chi ngân sách tăng rất mạnh trong năm 1993 và được duy trì ở mức rất cao trong các năm 1995-96 (làm cho tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tăng mạnh so với các năm 1991-1992); đây là nhân tố quan trọng tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.

Mặt khác, tỷ lệ thu ngân sách cao là nhờ từ năm 1993 khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu đóng góp vào ngân sách nhà nước và tỷ lệ thuế hải quan đột ngột tăng mạnh; nếu loại trừ ảnh hưởng của những nhân tố này thì tỷ lệ thu ngân sách tăng không nhiều so với năm 1992. Ngoài ra, có thể thấy từ năm 1996, khi ảnh hưởng đột biến của hai nguồn thu trên không còn và tỷ lệ chi ngân sách bắt đầu giảm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm. Dĩ nhiên, quá trình suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1997 còn chịu tác động của nhiều nhân tố khác, trước hết là cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế châu á, nhưng đồ thị cho thấy vai trò của chính sách tài khoá chặt giai đoạn 1993-96 cũng rất quan trọng, góp phần tạo ra hiện tượng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ngay từ năm 1996.

Thực tế, trong thập kỷ 90, nền kinh tế nước ta tuy có tốc độ tăng trưởng cao song không bền vững vì nguồn tích luỹ nội địa còn rất thấp; tăng trưởng dựa chủ yếu vào giải phóng sức sản xuất nhỏ (nông nghiệp và tiểu thương) và phụ thuộc rất lớn vào đầu tư nước ngoài; do đó tỷ lệ thu ngân sách cao sẽ làm giảm cơ hội tích luỹ và hạn chế việc mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn tiếp theo. Đối với chi ngân sách, khi tỷ lệ chi ngân sách trên GDP giảm, sẽ không đủ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng thoả mãn nhu cầu tăng trưởng cao nên cũng ảnh hưởng xấu tới tăng trưởng. Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi ngân sách cho các doanh nghiệp Nhà nước cũng góp phần đẩy khu vực kinh tế chủ đạo này vào tình thế khó khăn trong khi chúng còn chưa thực sự thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường và phải đương đầu với những cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập ngoại. Đây là những mâu thuẫn rất nan giải của các nền kinh tế kém phát triển như nước ta và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế trở nên kém bền vững. Những nhân tố trên đã tạo ra áp lực tổng hợp làm tốc độ tăng trưởng GDP giảm ngay từ năm 1996 và kéo dài đến hết năm 1999.

Ngược lại, chính sách kích cầu thực hiện từ năm 1999 đến nay, thể hiện bằng giảm mạnh tỷ lệ thu ngân sách và tăng tỷ lệ chi ngân sách đi kèm với nới lỏng nhanh chính sách tiền tệ đã cho phép nền kinh tế phục hồi lại tốc độ tăng trưởng khá ngay từ năm 2000 và kéo dài đến nay. Như vậy, theo kinh nghiệm quá khứ, chính sách tài khoá có ảnh hưởng tích cực tới quá trình tăng trưởng kinh tế.




[1] Quan hệ này cũng rất rõ trong thập kỷ 80, nhưng vì tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng tiền tệ thập kỷ này rất cao nên chúng tôi không đưa vào đồ thị.
[2] Ví dụ với độ trễ là 1 năm, tiền tệ gây ra tăng giá có xác xuất tới 98,4% trong khi giá cả làm tăng cung tiền tệ chỉ với xác xuất là 96,3% (ngưỡng thống kê để chấp nhận có quan hệ đáng tin cậy là phải trên 90%). Nếu độ trễ là 2 năm, tiền tệ gây ra tăng giá có xác xuất tới 100% trong khi giá cả làm tăng cung tiền tệ chỉ với xác xuất là 98%.
[3] Ví dụ với thời gian trễ là 1 năm, xác xuất để tăng trưởng tiền tệ gây ra tăng trưởng kinh tế là 92,6% trong khi xác xuất để tăng trưởng kinh tế gây ra tăng trưởng tiền tệ là 99,8%; tức là chiều nhân quả đi từ tăng trưởng kinh tế đến tăng trưởng tiền tệ mạnh hơn chiều ngược lại. Tuy nhiên, khi thời gian trễ là 2 năm, xác xuất để tăng trưởng tiền tệ gây ra tăng trưởng kinh tế là 100% trong khi xác xuất để tăng trưởng kinh tế gây ra tăng trưởng tiền tệ là 98,2%; do vậy, trong trường hợp này, chiều nhân quả đi từ tăng trưởng tiền tệ đến tăng trưởng kinh tế mạnh hơn chiều ngược lại.
[4] Hiện tượng xảy ra ở Việt Nam cũng giống như ở nhiều nước đang phát triển khác. Theo tổng kết của Hagger A.J.(1977) "Inflation: Theory  and Policy", The Macmillan Press Ltd, thì trong các nước đang phát triển có tỷ lệ lạm phát cao trên 20%/ năm, thường tồn tại một quan hệ âm giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát; do đó, giảm tỷ lệ lạm phát sẽ khuyến khích tăng trưởng kinh tế; ngược lại, khi lạm phát quá thấp thì kinh tế trì trệ, và nếu tỷ lệ lạm phát tăng lên thì tốc độ tăng trưởng kinh tế thường lên theo. Tình hình kinh tế nước ta những năm 1985-1995 và 1999-2004 cũng như vậy.
[5] Với thời gian trễ là 1 năm, xác xuất để tăng trưởng kinh tế gây ra lạm phát là 93,5% trong khi xác xuất để lạm phát gây ra tăng trưởng kinh tế là 75,9%, tức là có khả năng nhưng thấp, không đáng tin cậy. Nếu thời gian trễ là 2 hoặc 3, 4 năm, không có quan hệ nhân quả giữa hai chỉ tiêu, nhưng xác xuất để lạm phát gây ra tăng trưởng kinh tế vẫn ổn định khoảng 75,9%, trong khi xác xuất để tăng trưởng kinh tế gây ra lạm phát giảm mạnh, chỉ còn khoảng 8%. Như vậy, về ngắn hạn, tăng trưởng có ảnh hưởng mạnh tới lạm phát và trong khi chiều ngược lại có thể xảy ra song không chắc chắn; ngược lại về dài hạn, tăng trưởng hoàn toàn không ảnh hưởng tới lạm phát, trong khi lạm phát vẫn có khả năng ảnh hưởng tới tăng trưởng.
[6] Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp "Đổi mới Ngân sách Nhà nước", Nhà xuất bản Thống kê, 1995.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét