THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)Thứ Ba, ngày 30/7/2013 TTXVN (New York 29/7)Theo “Tạp chí Á-Âu”, nhiều người cho rằng thế kỷ 21 là thế kỷ châu Á. Châu Á có dân số lớn hơn dân số của tất cả các châu lục khác cộng lại. Như bản báo cáo “các xu hướng toàn cầu đến năm 2030” của cộng đồng tình báo Mỹ nhận định, châu Á sẽ có sức mạnh toàn cầu về GDP, chi phí quân sự và đầu tư lớn hơn Mỹ và châu Âu cộng lại, vì vậy châu Á xứng đáng với danh hiệu đó.
Nếu Trung Quốc và Ấn Độ có đủ sức mạnh để xác định thế kỷ 21 là kỷ nguyên châu Á, hai nước phải phát triển các giá trị nhiều hơn nữa và phổ biến chúng trên toàn cầu.
Ấn Độ và Trung Quốc đã áp dụng hệ thống chính trị, kinh tế và các giá trị kèm theo do người châu Âu và Mỹ đã phát triển. Các nền văn minh và văn hóa của người Mỹ và châu Âu đã ảnh hưởng rất lớn đến con người và cách sống của người dân trên toàn châu Á, kể cả Trung Quốc và Ấn Độ. Khi nói về nền giáo dục, khoa học, công nghệ, kinh tế và hệ thống tài chính hiện đại cũng như các hoạt động phát triển, các giá trị dân chủ và tự do… tất cả đều xuất phát từ các nước phương Tây. Tất cả mọi đồ dùng và thiết bị hiện đại trong cuộc sống hiện nay của con người đều sử dụng các công nghệ phương Tây. Nhà kinh tế Jacques Attali của Pháp ví Internet là “lục địa thứ tám” và cũng là thuộc địa của Mỹ. Các tập đoàn Apple, Microsoft, Google, Facebook, Twitter, Yahoo – một phần cuộc sống của con người – cũng là của người Mỹ. Bất cứ thứ gì mang thương hiệu Mỹ và châu Âu đều đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Chỉ đến khi Trung Quốc và Ấn Độ có thể cạnh tranh với Mỹ và phương Tây trên các lĩnh vực đó, họ mới có thể xác định sự phát triển của khu vực như một kỷ nguyên châu Á. Vì vậy, chỉ riêng sự tích lũy của cải và thịnh vượng của một số nước châu Á thì không thể làm nên một kỷ nguyên châu Á. Có những trường hợp như: Canada không hề lo lắng trước sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ; Đức là nước mạnh nhất châu Âu nhưng không hề gây bất cứ lo lắng nào cho Pháp, Anh hay tất cả các nước châu Âu khác. Nhưng theo tờ “New York Times” ngày 24/5, khi Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe chụp ảnh trong buồng lái của một máy bay chiến đấu, sự kiện này đã khiến Trung Quốc và Hàn Quốc tức giận. Tương tự, sự phát triển của Trung Quốc đã tạo nên mối quan ngại sâu sắc ở tất cả các nước láng giềng từ Nhật Bản và Hàn Quốc đến Việt Nam và Ấn Độ. Đối với Ấn Độ, gần như tất cả các nước láng giềng ngày càng bất bình đối với nước này và muốn Trung Quốc đứng về phía họ để đối trọng với Ấn Độ. Ngược lại, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Philíppin cũng muốn Ấn Độ đóng vai trò chiến lược quan trọng trong khu vực của họ để có thể kiểm soát sự thống trị quân sự của Trung Quốc.
Một biên giới được phân định giữa các cường quốc châu Á có thể là sự mở đầu của kỷ nguyên châuÁ: Cách đây 100 năm ở Shimla-Ấn Độ, tháng 10/1914, Ấn Độ, vẫn là thuộc địa của Anh, và Tây Tạng đã đàm phán về một thỏa thuận biên giới. Biên giới được phân định thời gian đó được gọi là đường McMahon, tên của trưởng đoàn đàm phán người Anh Sir Henry McMahon. Các đại biểu của Chính phủ Trung Quốc cũng tham dự cuộc đàm phán nhưng sau khi hiệp ước được Ấn Độ và Tây Tạng ký kết, các đại biểu Trung Quốc không ký hiệp ước vì cho rằng Tây Tạng là nước chư hầu của Trung Quốc nên không có quyền kỳ bất cứ văn kiện nào với nước khác. Sau khi sáp nhập Tây Tạng năm 1949, Trung Quốc trở thành láng giềng của Ấn Độ. Cuộc tranh cãi tiếp tục và tháng 10/1962, Trung Quốc xâm lược Ấn Độ. Sau khi Ấn Độ bị thất bại, Trung Quốc đã rút lực lượng của họ. Nhưng hiện nay biên giới Trung Quốc-Ấn Độ vẫn là “biên giới nguy hiểm nhất trên thế giới”. Giữa tháng 4/2013, một số binh sĩ Trung Quốc đã tiến sâu khoảng 19 km bên trong Đường Kiểm soát Thực tế và chỉ trở về vị trí đóng quân trước đó của họ sau 3 tuần căng thẳng kéo dài. Vài ngày sau khi hai nước đạt được một thỏa thuận về biên giới ở độ cao khoảng 5.000 mét trên dãy Himalaya, tạp chí TIME đã đăng bài viết nhan đề: “Sau cuộc giao tranh trên các dãy núi, Ấn Độ và Trung Quốc chuyển sang cạnh tranh ở Ấn Độ Dương”. Một báo cáo ngày 16/5 của Bộ Quốc phòng Ấn Độ cảnh báo các mối đe dọa thường xuyên nghiêm trọng từ lực lượng hải quân Trung Quốc ở khu vực biển sân sau của Ấn Độ do hải quân Trung Quốc phát triển mạnh hạm đội tàu ngầm. Cùng ngày, tờ “TIME” đăng bài viết của tác giả Kirk Spitzer từ Tokyo đề cập đến một cuộc thảo luận công khai hiếm có giữa các chuyên gia hải quân đến từ Nhật Bản, Mỹ và Trung Quốc. Trích dẫn phát biểu của ông Yang Yi, cựu giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Đại học Quốc nhòng ở Bắc Kinh, bài báo của ông Spitzer cho biết 80% dân số Trung Quốc muốn sử dụng sức mạnh quân sự và đang đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta lãng phí tiền bạc cho hải quân nếu chúng ta không sử dụng nó?” Bài báo cũng dẫn lời ông Michael McDevitt, cựu Đô đốc Hải quân Mỹ từng chỉ huy một nhóm tàu sân bay ở Thái Bình Dương: “Sức mạnh kinh tế của mỗi quốc gia châu Á đều phụ thuộc vào an ninh hàng hải. Nhưng gần như tất cả các vấn đề an ninh hiện nay trong khu vực là hàng hải và điều đó có nghĩa sự cạnh tranh các khả năng quân sự chủ yếu cũng ở trên biển”. Thực tế, thái độ khác nhau của Trung Quốc và Ấn Độ được hình thành bởi lịch sử của mỗi nước và chi phối đặc điểm của hai nước như các nhà nước hiện đại, mâu thuẫn với nhau về chế độ chính trị, tranh chấp lãnh thổ và cạnh tranh địa chính trị. Rõ ràng, các tranh chấp lãnh thổ như vậy và sự cạnh tranh địa chính trị giữa hai cường quốc châu Á sẽ tiếp tục cản trở cả Ấn Độ và Trung Quốc trong việc xây dựng khả năng để lãnh đạo một kỷ nguyên châu Á.
Các khu vực xung đột mới xuất hiện, các cuộc xung đột cũ chưa được giải quyết và kỷ nguyên chân Á: Trung Quốc và Nhật Bản có các tranh chấp về chủ quyền một số đảo nhỏ hơn. Các cuộc tranh cãi tương tự đã ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ của hai nền dân chủ và hai nền kinh tế châu Á phát triển: Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc đang can dự vào cuộc tranh cãi gay gắt với Việt Nam và Philíppin về một số hòn đảo ở Biển Đông. Ngày 8/5, Nhân dân Nhật báo công bố một bài xã luận đặt dấu hỏi về vị thế của chuỗi đảo lớn hơn rất nhiều là Okinawa – nơi cư trú của vài triệu người dân Nhật Bản cùng với các căn cứ quân sự lớn của Mỹ. Theo Nhân dân Nhật báo, Nhật Bản đã sáp nhập vương quốc độc lập trước đây là quần đảo Ryukyu, kể cả Okinawa vào năm 1879. Nhân dân Nhật báo cho rằng quần đảo Ryukyu cũng từng là một quốc gia chư hầu của Trung Quốc, từ đó đem lại cho Bắc Kinh tiếng nói về các vấn đề chính trị. Điều này đã gây khó khăn hơn cho Nhật Bản trong quan hệ với Trung Quốc. Chuỗi đảo đó kéo dài từ đảo Kyushu đến Đài Loan được gọi là “quần đảo Nansei” ở Nhật Bản.
Bắc Kinh đã áp dụng các biện pháp trên biên giới với Ấn Độ trong các tuyên bố chủ quyền mới về quần đảo Ryukyu như một phần của chiến lược nhằm gia tăng áp lực cho các nước láng giềng bằng sức mạnh kinh tế và xây dựng quân đội. Tất cả hành động đó của Bắc Kinh đã đem lại cho Mỹ vị thế như một lực lượng ổn định lâu dài ở châu Á. Hiện nay Mỹ đang nỗ lực hợp pháp hóa sự hiện diện của họ ở châu Á, và bắt đầu khẳng định như một quốc gia Thái Bình Dương và có lợi ích lâu dài tại châu Á. Chiến lược “Trở lại châu Á” khẳng định Chính quyền Obama sẽ chú trọng châu Á hơn châu Âu và châu Phi. Nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu chiến lược và hoạch định chính sách ở Mỹ và châu Âu thừa nhận hơn bao giờ hết, hiện nay châu Á không những quan trọng về kinh tế mà cả quân sự với Mỹ. Vì vậy, không đồng minh nào của Mỹ đặt dấu hỏi về quyết định tái cân bằng sức mạnh quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hiện nay châu Á tồn tại rất nhiều khu vực xung đột giữa các quốc gia cũng như trong các nhà nước kéo dài từ Đông Á đến Trung Đông; từ Bắc Á và Trung Á đến Nam Á và Đông Nam Á, Hầu như tất cả các khu vực ở châu Á đều có các hệ thống vũ khí hiện đại nhất, kể cả vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nếu có một kỷ nguyên châu Á, ‘Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở thành những đầu tàu của khu vực. Do có nguồn nhân lực rất lớn và cơ sở sức mạnh công nghệ tiên tiến hơn nhiều so với Trung Quốc và Ấn Độ, vai trò của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ nổi lên mạnh mẽ trong một kỷ nguyên như vậy. Sự xuất hiện của Inđônêxia như một cường quốc kinh tế đầy triển vọng và dự trữ các nguồn tài nguyên khổng lồ sẽ đóng một vai trò không kém phần quyết định trong kỷ nguyên châu Á. Một kỷ nguyên châu Á đòi hỏi có một nền văn minh châu Á mới. Đó là vấn đề thiếu nhất ở châu Á. Theo ông Lý Quang Diệu, các nền văn minh xuất hiện khi xã hội loài người có thể đối phó với những thách thức một cách khôn ngoan và thành công. Nghĩa là, một “đội ngũ lãnh đạo kiên quyết”, một chính quyền hiệu quả nhất và kỷ luật xã hội mạnh mẽ hơn là nhũng điều cần thiết nhất ở các nước sẽ lãnh đạo kỷ nguyên châu Á. Nhưng thật đáng tiếc, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều thiếu những điều kiện đó. Người châu Á thường thích sống với quá khứ cay đắng và muốn truyền lại những cay đắng đó cho con cái, cháu chắt của họ. Họ đang làm tương tự ở tất cả các khu vực châu Á từ Đông sang Tây và từ Bắc vào Nam. Họ muốn trở thành một nhà lãnh đạo thế giới và chỉ huy thế kỷ 21 được gắn liền với tên của châu Á, nhưng lại ít quan tâm và lắng nghe tiếng nói và nhân phẩm của những người hàng xóm. Hơn nữa, một kỷ nguyên châu Á đòi hỏi một số giá trị, văn hóa và truyền thống châu Á. Một nền văn hóa chung sống với nhau và cùng nhau chia sẻ lợi ích, nền văn hóa phi bạo lực, hòa bình và khoan dung – các giá trị văn hóa riêng của châu Á đang ràng buộc các xã hội của người châu Á qua nhiều thế kỷ, hiện chỉ hạn chế ở một số lĩnh vực của lục địa lớn nhất thế giới.
Các giá trị của người châu Á nhằm phát triển nền dân chủ cộng đồng và ý thức trách nhiệm giải trình mạnh mẽ hơn để bảo đảm xã hội châu Á phát triển mạnh qua hàng nghìn năm lịch sử không còn nữa. Các giá trị phổ quát như dân chủ, tự do cá nhân, và trách nhiệm giải trình của phương Tây được các chính phủ nhập khẩu và sao chép thuần túy mà không hề nỗ lực xây dựng và phát triển các giá trị đó trên mảnh đất của họ, vì vậy chúng trở thành hình thức bị xuyên tạc nhất như đã thể hiện ở nhiều nước châu Á và châu Phi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, tiếp theo là Ấn Độ, có xu hướng tạo nên nhiều mâu thuẫn hơn trong khu vực. Như nhà khoa học chính trị người Mỹ Ian Bremmer nhấn mạnh trong cuốn sách nhan đề “Every Nation for Itself states” được xuất bản năm 2012: “Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản khó có thể cùng tồn tại trong thời gian dài và các nước như Inđônêxia, Hàn Quốc, và Thái Lan đủ mạnh để không bị lôi kéo hoàn toàn vào quỹ đạo của một nước khác. Châu Á có thể phát huy vai trò như một đầu tàu tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhưng khu vực này vẫn có quá nhiều thách thức an ninh tiềm tàng”. Nhiều người biết Trung Quốc phát triển thế nào, nhung không biết liệu Trung Quốc có thể vượt Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế số một thế giới hay không. Sự giàu có của Trung Quốc được tích lũy qua các công ty nhà nước, nhưng chừng nào sự thịnh vượng đó vẫn chưa được thúc đẩy thông qua các chương trình và chính sách tư nhân, Trung Quốc không thể vượt Mỹ và duy trì sự phát triển bền vững. Mặt khác, cũng không ai biết Ấn Độ sẽ phát triển ra sao. Thực tế, chính sức mạnh của xã hội Ấn Độ đã giải quyết rất nhiều yếu kém, mâu thuẫn và phe phái trong nước, từ đó thúc đẩy nước này trở thành một nền dân chủ cùng với một nền kinh tế phát triển mạnh. Trung Quốc có một nhà nước mạnh và Ấn Độ có một xã hội mạnh. Nhà nước mạnh hơn nhưng phải trả giá bằng cách hy sinh các lợi ích xã hội và ngược lại xã hội mạnh hơn nhưng phải hy sinh các lợi ích của nhà nước, do đó hai nước lãnh đạo khu vực phải tìm được các mô hình thích hợp để hợp tác và thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện được điều đó sẽ hạn chế cuộc khủng hoảng niềm tin giữa các lãnh đạo chính trị của hai nước. Nếu đạt được một số niềm tin, họ có thể có những ý đồ táo bạo trong việc giải quyết các vấn đề của hai nước với các nước láng giềng. Nhưng những nỗ lực táo bạo đó đòi hỏi phải có các kỹ năng và nỗ lực ngoại giao dũng cảm hơn mới giải quyết được các vấn đề với các nước láng giềng. Hai nước phải hiểu rằng mức độ sức mạnh kinh tế và quân sự của họ khó có thể biến thành sức mạnh khiêm tốn bao gồm: sức mạnh chính trị, sức mạnh tri thức và sức mạnh đạo đức. Nếu không có các nhà lãnh đạo quyết đoán và có tầm nhìn xa trông rộng cộng với sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng trong nước, sức mạnh khiêm tốn như vậy không thể được tạo ra. Chính sách ngoại giao được thúc đẩy bởi sức mạnh khiêm tốn như vậy cộng với giới lãnh đạo quyết tâm có thể được gọi là nền ngoại giao khiêm tốn – một vấn đề cấp thiết nhất trong trường hợp Trung Quốc và Ấn Độ muốn can dự và lãnh đạo một kỷ nguyên châu Á.
Nguồn: Anhbasam.
Một biên giới được phân định giữa các cường quốc châu Á có thể là sự mở đầu của kỷ nguyên châuÁ: Cách đây 100 năm ở Shimla-Ấn Độ, tháng 10/1914, Ấn Độ, vẫn là thuộc địa của Anh, và Tây Tạng đã đàm phán về một thỏa thuận biên giới. Biên giới được phân định thời gian đó được gọi là đường McMahon, tên của trưởng đoàn đàm phán người Anh Sir Henry McMahon. Các đại biểu của Chính phủ Trung Quốc cũng tham dự cuộc đàm phán nhưng sau khi hiệp ước được Ấn Độ và Tây Tạng ký kết, các đại biểu Trung Quốc không ký hiệp ước vì cho rằng Tây Tạng là nước chư hầu của Trung Quốc nên không có quyền kỳ bất cứ văn kiện nào với nước khác. Sau khi sáp nhập Tây Tạng năm 1949, Trung Quốc trở thành láng giềng của Ấn Độ. Cuộc tranh cãi tiếp tục và tháng 10/1962, Trung Quốc xâm lược Ấn Độ. Sau khi Ấn Độ bị thất bại, Trung Quốc đã rút lực lượng của họ. Nhưng hiện nay biên giới Trung Quốc-Ấn Độ vẫn là “biên giới nguy hiểm nhất trên thế giới”. Giữa tháng 4/2013, một số binh sĩ Trung Quốc đã tiến sâu khoảng 19 km bên trong Đường Kiểm soát Thực tế và chỉ trở về vị trí đóng quân trước đó của họ sau 3 tuần căng thẳng kéo dài. Vài ngày sau khi hai nước đạt được một thỏa thuận về biên giới ở độ cao khoảng 5.000 mét trên dãy Himalaya, tạp chí TIME đã đăng bài viết nhan đề: “Sau cuộc giao tranh trên các dãy núi, Ấn Độ và Trung Quốc chuyển sang cạnh tranh ở Ấn Độ Dương”. Một báo cáo ngày 16/5 của Bộ Quốc phòng Ấn Độ cảnh báo các mối đe dọa thường xuyên nghiêm trọng từ lực lượng hải quân Trung Quốc ở khu vực biển sân sau của Ấn Độ do hải quân Trung Quốc phát triển mạnh hạm đội tàu ngầm. Cùng ngày, tờ “TIME” đăng bài viết của tác giả Kirk Spitzer từ Tokyo đề cập đến một cuộc thảo luận công khai hiếm có giữa các chuyên gia hải quân đến từ Nhật Bản, Mỹ và Trung Quốc. Trích dẫn phát biểu của ông Yang Yi, cựu giám đốc Viện Nghiên cứu Chiến lược thuộc Đại học Quốc nhòng ở Bắc Kinh, bài báo của ông Spitzer cho biết 80% dân số Trung Quốc muốn sử dụng sức mạnh quân sự và đang đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta lãng phí tiền bạc cho hải quân nếu chúng ta không sử dụng nó?” Bài báo cũng dẫn lời ông Michael McDevitt, cựu Đô đốc Hải quân Mỹ từng chỉ huy một nhóm tàu sân bay ở Thái Bình Dương: “Sức mạnh kinh tế của mỗi quốc gia châu Á đều phụ thuộc vào an ninh hàng hải. Nhưng gần như tất cả các vấn đề an ninh hiện nay trong khu vực là hàng hải và điều đó có nghĩa sự cạnh tranh các khả năng quân sự chủ yếu cũng ở trên biển”. Thực tế, thái độ khác nhau của Trung Quốc và Ấn Độ được hình thành bởi lịch sử của mỗi nước và chi phối đặc điểm của hai nước như các nhà nước hiện đại, mâu thuẫn với nhau về chế độ chính trị, tranh chấp lãnh thổ và cạnh tranh địa chính trị. Rõ ràng, các tranh chấp lãnh thổ như vậy và sự cạnh tranh địa chính trị giữa hai cường quốc châu Á sẽ tiếp tục cản trở cả Ấn Độ và Trung Quốc trong việc xây dựng khả năng để lãnh đạo một kỷ nguyên châu Á.
Các khu vực xung đột mới xuất hiện, các cuộc xung đột cũ chưa được giải quyết và kỷ nguyên chân Á: Trung Quốc và Nhật Bản có các tranh chấp về chủ quyền một số đảo nhỏ hơn. Các cuộc tranh cãi tương tự đã ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ của hai nền dân chủ và hai nền kinh tế châu Á phát triển: Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc đang can dự vào cuộc tranh cãi gay gắt với Việt Nam và Philíppin về một số hòn đảo ở Biển Đông. Ngày 8/5, Nhân dân Nhật báo công bố một bài xã luận đặt dấu hỏi về vị thế của chuỗi đảo lớn hơn rất nhiều là Okinawa – nơi cư trú của vài triệu người dân Nhật Bản cùng với các căn cứ quân sự lớn của Mỹ. Theo Nhân dân Nhật báo, Nhật Bản đã sáp nhập vương quốc độc lập trước đây là quần đảo Ryukyu, kể cả Okinawa vào năm 1879. Nhân dân Nhật báo cho rằng quần đảo Ryukyu cũng từng là một quốc gia chư hầu của Trung Quốc, từ đó đem lại cho Bắc Kinh tiếng nói về các vấn đề chính trị. Điều này đã gây khó khăn hơn cho Nhật Bản trong quan hệ với Trung Quốc. Chuỗi đảo đó kéo dài từ đảo Kyushu đến Đài Loan được gọi là “quần đảo Nansei” ở Nhật Bản.
Bắc Kinh đã áp dụng các biện pháp trên biên giới với Ấn Độ trong các tuyên bố chủ quyền mới về quần đảo Ryukyu như một phần của chiến lược nhằm gia tăng áp lực cho các nước láng giềng bằng sức mạnh kinh tế và xây dựng quân đội. Tất cả hành động đó của Bắc Kinh đã đem lại cho Mỹ vị thế như một lực lượng ổn định lâu dài ở châu Á. Hiện nay Mỹ đang nỗ lực hợp pháp hóa sự hiện diện của họ ở châu Á, và bắt đầu khẳng định như một quốc gia Thái Bình Dương và có lợi ích lâu dài tại châu Á. Chiến lược “Trở lại châu Á” khẳng định Chính quyền Obama sẽ chú trọng châu Á hơn châu Âu và châu Phi. Nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu chiến lược và hoạch định chính sách ở Mỹ và châu Âu thừa nhận hơn bao giờ hết, hiện nay châu Á không những quan trọng về kinh tế mà cả quân sự với Mỹ. Vì vậy, không đồng minh nào của Mỹ đặt dấu hỏi về quyết định tái cân bằng sức mạnh quân sự của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hiện nay châu Á tồn tại rất nhiều khu vực xung đột giữa các quốc gia cũng như trong các nhà nước kéo dài từ Đông Á đến Trung Đông; từ Bắc Á và Trung Á đến Nam Á và Đông Nam Á, Hầu như tất cả các khu vực ở châu Á đều có các hệ thống vũ khí hiện đại nhất, kể cả vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nếu có một kỷ nguyên châu Á, ‘Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở thành những đầu tàu của khu vực. Do có nguồn nhân lực rất lớn và cơ sở sức mạnh công nghệ tiên tiến hơn nhiều so với Trung Quốc và Ấn Độ, vai trò của Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ nổi lên mạnh mẽ trong một kỷ nguyên như vậy. Sự xuất hiện của Inđônêxia như một cường quốc kinh tế đầy triển vọng và dự trữ các nguồn tài nguyên khổng lồ sẽ đóng một vai trò không kém phần quyết định trong kỷ nguyên châu Á. Một kỷ nguyên châu Á đòi hỏi có một nền văn minh châu Á mới. Đó là vấn đề thiếu nhất ở châu Á. Theo ông Lý Quang Diệu, các nền văn minh xuất hiện khi xã hội loài người có thể đối phó với những thách thức một cách khôn ngoan và thành công. Nghĩa là, một “đội ngũ lãnh đạo kiên quyết”, một chính quyền hiệu quả nhất và kỷ luật xã hội mạnh mẽ hơn là nhũng điều cần thiết nhất ở các nước sẽ lãnh đạo kỷ nguyên châu Á. Nhưng thật đáng tiếc, cả Trung Quốc và Ấn Độ đều thiếu những điều kiện đó. Người châu Á thường thích sống với quá khứ cay đắng và muốn truyền lại những cay đắng đó cho con cái, cháu chắt của họ. Họ đang làm tương tự ở tất cả các khu vực châu Á từ Đông sang Tây và từ Bắc vào Nam. Họ muốn trở thành một nhà lãnh đạo thế giới và chỉ huy thế kỷ 21 được gắn liền với tên của châu Á, nhưng lại ít quan tâm và lắng nghe tiếng nói và nhân phẩm của những người hàng xóm. Hơn nữa, một kỷ nguyên châu Á đòi hỏi một số giá trị, văn hóa và truyền thống châu Á. Một nền văn hóa chung sống với nhau và cùng nhau chia sẻ lợi ích, nền văn hóa phi bạo lực, hòa bình và khoan dung – các giá trị văn hóa riêng của châu Á đang ràng buộc các xã hội của người châu Á qua nhiều thế kỷ, hiện chỉ hạn chế ở một số lĩnh vực của lục địa lớn nhất thế giới.
Các giá trị của người châu Á nhằm phát triển nền dân chủ cộng đồng và ý thức trách nhiệm giải trình mạnh mẽ hơn để bảo đảm xã hội châu Á phát triển mạnh qua hàng nghìn năm lịch sử không còn nữa. Các giá trị phổ quát như dân chủ, tự do cá nhân, và trách nhiệm giải trình của phương Tây được các chính phủ nhập khẩu và sao chép thuần túy mà không hề nỗ lực xây dựng và phát triển các giá trị đó trên mảnh đất của họ, vì vậy chúng trở thành hình thức bị xuyên tạc nhất như đã thể hiện ở nhiều nước châu Á và châu Phi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, tiếp theo là Ấn Độ, có xu hướng tạo nên nhiều mâu thuẫn hơn trong khu vực. Như nhà khoa học chính trị người Mỹ Ian Bremmer nhấn mạnh trong cuốn sách nhan đề “Every Nation for Itself states” được xuất bản năm 2012: “Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản khó có thể cùng tồn tại trong thời gian dài và các nước như Inđônêxia, Hàn Quốc, và Thái Lan đủ mạnh để không bị lôi kéo hoàn toàn vào quỹ đạo của một nước khác. Châu Á có thể phát huy vai trò như một đầu tàu tăng trưởng kinh tế toàn cầu, nhưng khu vực này vẫn có quá nhiều thách thức an ninh tiềm tàng”. Nhiều người biết Trung Quốc phát triển thế nào, nhung không biết liệu Trung Quốc có thể vượt Mỹ để trở thành cường quốc kinh tế số một thế giới hay không. Sự giàu có của Trung Quốc được tích lũy qua các công ty nhà nước, nhưng chừng nào sự thịnh vượng đó vẫn chưa được thúc đẩy thông qua các chương trình và chính sách tư nhân, Trung Quốc không thể vượt Mỹ và duy trì sự phát triển bền vững. Mặt khác, cũng không ai biết Ấn Độ sẽ phát triển ra sao. Thực tế, chính sức mạnh của xã hội Ấn Độ đã giải quyết rất nhiều yếu kém, mâu thuẫn và phe phái trong nước, từ đó thúc đẩy nước này trở thành một nền dân chủ cùng với một nền kinh tế phát triển mạnh. Trung Quốc có một nhà nước mạnh và Ấn Độ có một xã hội mạnh. Nhà nước mạnh hơn nhưng phải trả giá bằng cách hy sinh các lợi ích xã hội và ngược lại xã hội mạnh hơn nhưng phải hy sinh các lợi ích của nhà nước, do đó hai nước lãnh đạo khu vực phải tìm được các mô hình thích hợp để hợp tác và thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện được điều đó sẽ hạn chế cuộc khủng hoảng niềm tin giữa các lãnh đạo chính trị của hai nước. Nếu đạt được một số niềm tin, họ có thể có những ý đồ táo bạo trong việc giải quyết các vấn đề của hai nước với các nước láng giềng. Nhưng những nỗ lực táo bạo đó đòi hỏi phải có các kỹ năng và nỗ lực ngoại giao dũng cảm hơn mới giải quyết được các vấn đề với các nước láng giềng. Hai nước phải hiểu rằng mức độ sức mạnh kinh tế và quân sự của họ khó có thể biến thành sức mạnh khiêm tốn bao gồm: sức mạnh chính trị, sức mạnh tri thức và sức mạnh đạo đức. Nếu không có các nhà lãnh đạo quyết đoán và có tầm nhìn xa trông rộng cộng với sự ủng hộ mạnh mẽ của dân chúng trong nước, sức mạnh khiêm tốn như vậy không thể được tạo ra. Chính sách ngoại giao được thúc đẩy bởi sức mạnh khiêm tốn như vậy cộng với giới lãnh đạo quyết tâm có thể được gọi là nền ngoại giao khiêm tốn – một vấn đề cấp thiết nhất trong trường hợp Trung Quốc và Ấn Độ muốn can dự và lãnh đạo một kỷ nguyên châu Á.
Nguồn: Anhbasam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét