MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ BÁO CÁO: "ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1990 ĐẾN NĂM 2002"
Trước hết, tôi chân thành cám ơn ban tổ chức đã tin tưởng giao cho tôi phản biện báo cáo "Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ 1990-2002" của Ngân hàng NN Việt Nam". Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện, công phu về một lĩnh vực khó và nhạy cảm của nền kinh tế, do đó việc đánh giá, nhận xét đòi hỏi phải có nhiều thời gian nghiên cứu sâu. Do thời gian nghiên cứu và nguồn thông tin về lĩnh vực này hạn hẹp, tôi chỉ xin đưa ra một số ý kiến dưới đây theo quan điểm cá nhân, không phản ảnh quan điểm của cơ quan công tác.
Báo cáo gồm 22 trang, chia làm 2 phần lớn. Phần 1 đánh giá những mặt được cơ bản của nền kinh tế, trong đó tác giả xem xét tình hình qua 2 nội dung chính của chính sách tiền tệ là mục tiêu của chính sách tiền tệ và sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Trong phần 2, tác giả đề cập đến một số yếu kém, bất cập trong thực thi chính sách tiền tệ hiện nay. Như vậy, bố cục báo cáo đơn giản và phù hợp với lô gíc tự nhiên. Đi sâu vào tìm hiểu chi tiết, tôi cơ bản nhất trí với các nhận định, đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của tác giả nêu ra. Vì vậy, dưới đây tôi không nhắc lại những điểm nhất trí mà chỉ tập trung nêu một số vấn đề cần bàn bạc làm rõ hơn.
1) Về sự phù hợp của mục tiêu của chính sách tiền tệ với tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước
1.1) Tác giả đã xem xét tiến triển mục tiêu của chính sách tiền tệ (CSTT) qua 3 thời kỳ. Thời kỳ đầu từ năm 1989 đến 1991 được coi là những năm đầu xây dựng cơ sở cho việc hình thành khuôn khổ của chính sách tiền tệ; khi đó, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chưa hình thành mà chỉ đang trong quá trình phôi thai. Tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng NHNN đã xác định rõ ràng mục tiêu của CSTT là chống lạm phát và ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tỷ giá.
Tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định của tác giả rằng CSTT lúc đó còn phôi thai. Tuy nhiên, tôi cho rằng đó vẫn thực sự là CSTT với mục tiêu, nguyên tắc xử lý để đạt mục tiêu và các công cụ cần được sử dụng... đều rất rõ ràng. Thậm chí, chúng ta còn chủ động thay đổi công cụ điều hành CSTT khi công cụ đang sử dụng không đạt hiệu quả mong muốn. Cụ thể là:
a) Về mục tiêu: giảm tỷ lệ lạm phát, góp phần ổn định kinh tế.
Tuy nhiên lúc này không đặt ra vấn đề ổn định tỷ giá mà NHNN đã thực hiện chính sách tự do hoá tỷ giá (cùng với tự do hoá các hoạt động ngân hàng, kinh doanh tiền tệ).
b) Về nguyên tắc xử lý: đi theo tiếp cận tân cổ điển, cụ thể là thuyết trọng tiền của M. Friedman, F. Hayek và các nhà kinh tế trọng tiền khác, theo đó phải sử dụng chính sách tiền tệ chặt ổn định để chống lạm phát; trong đó điểm then chốt là hạn chế tỷ lệ tăng trưởng tổng cung tiền tệ. Như vậy, tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
c) Về sử dụng công cụ: Công cụ cơ bản đầu tiên được sử dụng là chính sách lãi suất thực dương và cao để thu hút tiền về hệ thống NH. Tuy nhiên, như mọi người đều thấy, chính sách lãi suất cao trong bối cảnh tự do hoá tài chính quá mạnh lúc đó đã nhanh chóng dẫn đến hiện tượng đầu cơ tiền tệ qui mô lớn, hậu quả là bùng nổ khủng hoảng tiền tệ và tín dụng năm 1990, hoàn toàn phù hợp với lập luận lý thuyết của Mc. Kinnon. Thất bại của chính sách lãi suất cao cũng vạch ra một trong những điểm yếu cơ bản của chính sách tiền tệ lúc đó: Lạm dụng công cụ của chính sách tiền tệ Keynes trong bối cảnh tự do hoá tài chính quá mạnh và lạm phát do nguyên nhân tiền tệ.
- Vì hiệu quả của chính sách lãi suất cao giảm rõ rệt trong khi tác hại của nó ngày càng cao, nên nó được thay thế bằng công cụ thứ hai: Kiểm soát chặt chẽ cung tiền tệ M2. Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền tệ M2 năm 1990 chỉ còn 53,1% so với 188,8% năm 1989.
- Từ năm 1990-91, chính sách tiền tệ Việt nam dựa hoàn toàn vào học thuyết trọng tiền. Ngân hàng trung ương chấp nhận lãi suất thực âm, chỉ tập trung vào kiểm soát cung tiền tệ. Hậu quả là tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ giảm tiếp từ 53,1% năm 1990 xuống còn 33,7% năm 1992, 27,2% năm 1993. Ngược lại, lãi suất thực tụt xuống dưới 0, âm trong hầu hết các tháng của hai năm 1990-91 và trong nhiều tháng của những năm tiếp theo.
d) Về phương thức kiểm soát cung tiền tệ lúc đó dựa vào 2 điểm chính:
+ Xác định khối lượng tiền tệ cần bổ sung hàng năm, theo nguyên tắc đồng thời thoả mãn đủ nhu cầu phương tiện thanh toán của nền kinh tế và kìm hãm lạm phát dưới một tỷ lệ mong muốn. Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ được xác định theo công thức sau:
m = p* + g - v
trong đó hai chỉ tiêu tỷ lệ tăng trưởng kinh tế g và tỷ lệ lạm phát dự kiến p* đã được Quốc hội quyết định, Ngân hàng trung ương phải dự báo tốc độ thay đổi vòng quay tiền tệ v để tính toán ra m và sau đó thực hiện quá trình phát hành tiền vào lưu thông.
+ Khối lượng tiền tệ tăng thêm này sẽ được sử dụng vào ba mục đích: Tăng tổng tín dụng cho nền kinh tế, cho ngân sách nhà nước vay và mua ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng trung ương.
Phần tiền tệ dành cho mục tiêu mua ngoại tệ phụ thuộc vào biến động hàng quý của cán cân thanh toán quốc tế. Vì Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi nên về nguyên tắc, có thể dễ dàng kiểm soát phần cung tiền tệ vì mục tiêu này. Tuy nhiên, trong thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã tỏ ra hoàn toàn bị động và chạy theo xu hướng đầu cơ ngoại tệ trên thị trường, nên khi tỷ giá thị trường bị giới đầu cơ đẩy lên quá cao, mặc dù không phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế và cân bằng cung cầu ngoại tệ, nhưng NHNN vẫn cung tiền rộng rãi để đáp ứng, dẫn tới đồng tiền Việt Nam vừa bị mất giá ngày càng nhanh so với ngoại tệ, vừa thừa nội tệ trong lưu thông và gây lạm phát cao trở lại trong 2 năm 1990-1991 (khoảng 67,5%/năm).
Mục đích thứ hai là để thực hiện điều 29 của Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước năm 1990, theo đó Nhà nước có quyền vay Ngân hàng trung ương. Cuối cùng, về mục đích tín dụng, Ngân hàng trung ương căn cứ vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát dự kiến để tính toán tổng tín dụng cần thiết cho nền kinh tế và tổng lượng tiền cần cấp cho các ngân hàng thương mại cung như qui định hạn ngạch tín dụng cho từng loại ngân hàng thương mại.
1.2) Thời kỳ thứ 2 từ năm 1992 đến 1995. Tác giả coi đây là giai đoạn CSTT bắt đầu được hình thành với mục tiêu cuối cùng là ổn định tiền tệ, mục tiêu trung gian là kiềm chế khối lượng tiền tệ tăng thêm. Bên cạnh mục tiêu riêng đó, CSTT đã có thêm mục tiêu góp phần đảm bảo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch Quốc hội thông qua.
Tôi nhất trí với đánh giá trên của tác giả. Nhờ theo đuổi một chính sách tiền tệ khá chặt nên đã đem lại những kết quả mong đợi: Kết thúc lạm phát nguồn gốc tiền tệ, hệ thống kinh tế trở nên trong sạch và khoẻ mạnh, dự báo chính xác hơn và quyết định hợp lý hơn, và cuối cùng phục hồi được sản xuất, tăng việc làm với lạm phát ổn định trung bình khoảng 13% từ 1992 đên 1995. Chính trên cơ sở những thành tích này mà Ngân hàng Trung ương đã quyết định tiếp tục chính sách tiền tệ chặt cho giai đoạn sau năm 1995.
Tuy nhiên tôi cho rằng nếu xem xét sự phù hợp của mục tiêu của chính sách tiền tệ với tình hình và yêu cầu phát triển kinh tế đất nước như tác giả đặt vấn đề thì có thể nói CSTT trong giai đoạn này đã không theo kịp tình hình nên dần dần trở nên quá chặt, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế đất nước, kìm hãm tốc độ tăng trưởng đầu tư, tăng trưởng tổng cầu và tăng trưởng kinh tế so với tiềm năng, đồng thời gây ra hiện tượng đô la hoá quá nhanh nền kinh tế và đẩy nềnkinh tế từ phát triển hướng ngoại sang hướng nội. Cũng do duy trì CSTT chặt quá dài, tỷ lệ lạm phát năm 1996 tụt xuống còn 4,5% năm 1996, 3,6% năm 1997...[2] trong khi nền kinh tế thiếu nghiêm trọng tín dụng nội địa phục vụ phát triển. Chúng ta đều thấy hiện tượng phi cân bằng tiền tệ này đã diễn ra khắp nơi trong nền kinh tế những năm 1992-93, nổi bật là những khan hiếm tiền tệ cho thanh toán giao dịch và cho tích luỹ vốn. Ngân hàng Nhà nước khi đó đã phải phát hành ngân phiếu để sử dụng thay tiền nhưng không phải là tiền[3].
Tình hình phi cân bằng tiền tệ nêu trên đã dẫn đến hai khả năng: Hoặc nhu cầu tích luỹ vốn của dân cư và tỷ lệ đầu tư, tăng trưởng kinh tế bị chặn lại, hoặc NHNN phải nới lỏng chính sách tiền tệ chặt, nghĩa là phải lựa chọn giữa tăng trưởng kinh tế nhanh (tăng cung tiền tệ để tăng tích luỹ và đầu tư) và ổn định trì trệ (chính sách tiền tệ chặt). Do tâm lý lo ngại không kiểm soát được tình hình nếu thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng nên NHNN cố tình duy trì CSTT chặt.
Tuy nhiên, dù lựa chọn mục tiêu gì, thì đến giữa năm 1994, NHNN cũng đã phải thừa nhận chính sách tiền tệ chặt đã làm cho những phi cân bằng tiền tệ ngày càng trở nên rất trầm trọng, do đó đã phải nới lỏng chính sách tiền tệ chặt. Tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ năm 1994 tăng lên gấp đôi so với năm 1993; tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với một số loại tiền gửi được điều chỉnh giảm xuống, đồng thời khung lãi suất cũng được mở rộng...
Tiếc thay, ngay từ giữa năm 1995, khi tình hình căng thẳng tiền tệ vừa giảm và trước một vài biến động không lớn của giá cả, Ngân hàng Nhà nước đã vội vàng quay ngay trở lại chính sách tiền tệ chặt chính thống thông qua hàng loạt biện pháp mạnh như giảm tỷ lệ tăng trưởng cung tiền tệ, hạn chế tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại (hạn ngạch), tăng cường chính sách tín dụng tuyển chọn và buộc các ngân hàng thương mại cổ phần phải mua trái phiếu với lãi suất thấp (0,7%/tháng) để giảm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của khu vực tư nhân... Các biện pháp này đã làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại (vì nhiều ngân hàng phải giữ trong két hàng tỷ đồng không cho vay trong khi vẫn phải trả lãi cho người gửi, các ngân hàng vẫn không được phép từ chối không nhận tiền gửi) và làm tăng lãi suất cho vay của cả khu vực ngân hàng nhà nước lẫn khu vực ngân hàng tư nhân để bù đắp. Hậu quả là lãi suất cho vay đã tăng lên rất nhanh, thậm chí cao hơn nhiều so với lãi suất trần được qui định trong quyết định 184 QĐ/NH của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt nam tháng 9/1993. Đặc biệt, lãi suất cho vay trong khu vực tư nhân có lúc lên tới 50-80%/năm hoặc hơn.
Trong bối cảnh thiếu nghiêm trọng tín dụng nội địa, từ năm 1992, các nhà đầu tư nội địa đã phải xoay xở tìm kiếm con đường khác để huy động vốn cần thiết, trong đó họ rất chú trọng tới nguồn vốn từ nước ngoài, trước tiên là huy động tiền của bà con, anh em ở nước ngoài (việt kiều). Tiếp đó, sự tăng lên rất nhanh của xuất khẩu dầu thô và vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, sự trở lại của nguồn vốn viện trợ ODA và nhất là chấm dứt cấm vận tài chính của Mỹ đối với Việt nam đã làm tăng rất mạnh khối lượng ngoại tệ trên thị trường Việt nam. Để đối phó với tình trạng thiếu hụt nội tệ do CSTT chặt gây ra, người ta đã sử dụng trực tiếp ngoại tệ trong hoạt động giao dịch, thanh toán, điều này kéo theo một cách tự phát và không thể tránh khỏi hiện tượng gia tăng tích luỹ và đô la hoá rất cao trong nền kinh tế Việt nam, thể hiện bằng tỷ lệ tăng trưởng cung ngoại tệ cao hơn nhiều so với tỷ lệ tăng trưởng cung nội tệ. Và vì cố tình duy trì một CSTT chặt nên NHNN đã phải nhắm mắt làm ngơ trước hiện tượng đô la hoá nền kinh tế bùng phát mặc dù đã có quy định cấm mua bán ngoại tệ và cấm sử dụng ngoại tệ trong giao dịch, thanh toán.
Ngân hàng Nhà nước đã hy vọng rằng luồng vốn nhập khẩu từ nước ngoài sẽ cho phép nâng cao tỷ lệ đầu tư nội địa và đồng thời ổn định được tỷ giá, chiếc neo mà Ngân hàng Nhà nước cố gắng duy trì để đẩy lùi lạm phát. Ý tưởng này rất đúng nếu như lượng nội tệ cung ứng đáp ứng đủ nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ thành nội tệ để đầu tư (tức là CSTT phải được nới lỏng) và luồng vốn đầu tư nước ngoài phải được sử dụng để nhập khẩu công nghệ mới, các máy móc thiết bị tiên tiến và các vật tư cần thiết phục vụ cho chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng nội địa và khai thác các tiềm năng phát triển phong phú của đất nước.
Tuy nhiên, lý thuyết và thực tế đã không diễn ra như vậy. Như nhiều lý thuyết kinh tế và nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra, chiến lược phát triển dựa vào vốn nước ngoài có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng mới vì hai lý do: Một là, đầu tư nước ngoài có xu hướng làm giảm tỷ lệ tích luỹ và đầu tư nội địa và làm tăng tiêu dùng nội địa ngoài tầm kiểm soát, tức là có sự thay thế giữa hai dạng vốn trong và ngoài nước. Hai là, vốn đầu tư nước ngoài thường dẫn đến đánh giá cao nội tệ, làm cho hàng hoá sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bản thân NHNN lúc đó đã theo đuổi CSTT chặt nên không cung cấp đủ lượng tiền tương ứng với sự tăng lên của tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế; do đó đã trực tiếp cản trở quá trình chuyển ngoại tệ thành nguồn vốn đầu tư tăng trưởng.
Hai hiện tượng trên đã diễn ra trong nền kinh tế Việt nam trong thời kỳ bùng nổ kinh tế 1992-96. Tỷ trọng đầu tư bằng nguồn vốn nội địa giảm nhanh trong khi tỷ trọng vốn nước ngoài tăng lên rất mạnh. Tiêu dùng nội địa cũng tăng lên rất mạnh. Đặc biệt, nội tệ đã bị đánh giá cao so với ngoại tệ và ngày càng ảnh hưởng bất lợi tới quá trình tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế vì một mặt làm giảm lợi thế so sánh quốc tế của khu vực hàng thương mại quốc tế được (tradable sector), mặt khác mở ra những khó khăn ngày càng gay go cho sự phát triển của các ngành công nghiệp quan trọng sống còn của đất nước bởi vì chúng luôn luôn phải chịu đựng sự cạnh tranh rất mạnh của hàng hoá nhập khẩu, nhất là hàng nhập khẩu bất hợp pháp.
Hậu quả của CSTT chặt và đánh giá cao nội tệ đã đi xa hơn. Dưới áp lực cạnh tranh rất mạnh và bất bình đẳng của hàng nhập khẩu do chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá gây ra, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đã chuyển vốn của mình từ khu vực làm hàng thương mại quốc tế được sang khu vực làm hàng không thương mại quốc tế được (non tradable sector), như bất động sản (tạo ra giai đoạn bùng nổ xây dựng), thương mại, dịch vụ và du lịch... Xu hướng này đã kéo theo sự tăng lên rất nhanh của giá đất đai, dịch vụ, bất động sản, tiền lương so với giá cả các sản phẩm khác như chúng ta đã chứng kiến. Rõ ràng một quá trình di chuyển vốn, vật tư, lao động và các nguồn lực khác như vậy đã làm sai lệch phương hướng phát triển dài hạn của nền kinh tế quốc gia, vừa tạo ra một cơ cấu kinh tế ngày càng hướng nội, vừa làm giảm sút khả năng cạnh trạnh quốc tế, làm tăng thất nghiệp, và như chúng ta đều thấy, làm giảm dần tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã giảm sút ngay từ năm 1996, trước khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á xảy ra và 1 năm sau khi thắt chặt tiền tệ trở lại.
Như vậy, thất bại của cuộc tự do hoá hệ thống tài chính quá nhanh năm 1989-90 đã làm cho NHNN Việt Nam đến tận hôm nay vẫn tỏ ra rất thận trọng trong mỗi bước thực hiện CSTT và tự hoa hoá tài chính, trong đó có tự do hoá các hoạt động ngân hàng và tín dụng. Vì vậy, tiến trình cải cách hệ thống tài chính từ năm 1991 đã diễn ra rất chậm và bị cuốn theo sự phát triển của hệ thống thể chế, tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế, đồng thời ảnh hưởng rất tiêu cực tới quá trình tăng trưởng tự nhiên và định hướng chuyển dịch cơ cấu dài hạn của nền kinh tế.
Có thể nói trong hơn 10 năm đổi mới, trong khi tất cả các ngành kinh tế, xã hội đều phải không ngừng tự đổi mới, tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, đồng thời tăng cường mở cửa để tham gia cạnh tranh quốc tế thì riêng ngành ngân hàng hầu không có tiến bộ đáng kể mặc dù có sự ưu đãi to lớn của nhà nước. Bao cấp trong toàn hệ thống ngân hàng đến nay vẫn rất nặng nề; bao cấp không chỉ đối với các NHTM quốc doanh mà còn cả với các NHTM cổ phần. Hiệu quả tín dụng ngày càng thấp kém. Ngoài ra còn phải kể đến những yếu kém của CSTT và sử dụng các công cụ của CSTT như sẽ được phân tích dưới đây.
1.3) Thời kỳ thứ 3 từ năm 1996 đến nay. Tác giả chia thời kỳ này làm 2 giai đoạn nhỏ, gồm giai đoạn tiếp tục chính sách tiền tệ chặt (1996 đến giữa 1999) và giai đoạn thực hiện CSTT nới lỏng thận trọng (từ giữa năm 1999 đến nay). Tôi đồng ý với tác giả về nhận định thời điểm chuyển đổi giữa 2 CSTT là vào giữa năm 1999 (quý II).
Việc chuyển từ CSTT chặt sang CSTT nới lỏng đã đem lại kết quả rất tích cực. Cung và cầu nội địa đều tăng nhanh, nhất là cung và cầu đầu tư; nhờ đó đã góp phần quyết định làm cho tỷ lệ tăng trưởng GDP tăng mạnh, từ 4,8% năm 1999 lên 6,8% năm 2000 và tiếp tục tăng lên trong những năm gần đây.
Như vậy, CSTT nới lỏng đã tỏ ra có hiệu quả rất rõ rệt; tiếc rằng nó được thực hiện quá muộn nên nhiều cơ hội phát triển đã trôi qua trong khi hậu quả để lại rất nặng nề cần nhiều thời gian mới sửa chữa được. Trong giai đoạn hiện nay, tôi tán thành với nhận định của tác giả cho rằng cần tiếp tục thực hiện CSTT mở rộng thận trọng, chủ yếu vì tôi cho rằng chất lượng, hiệu quả của hoạt động tín dụng đã tụt đến mức rất thấp[4]...
Với các phân tích trên, tôi cho rằng chỉ nên chia quá trình phát triển CSTT nước ta làm 2 giai đoạn chính: giai đoạn thực hiện CSTT chặt 1989-1998 và giai đoạn thực hiện CSTT nới lỏng thận trọng 1999-2003.
2) Về sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
Do mục tiêu của CSTT trong hơn một thập kỷ qua chủ yếu là kiểm soát lạm phát bằng CSTT chặt, ngay cả khi nới lỏng cũng rất thận trọng nên việc sử dụng các công cụ cũng theo xu hướng trên.
2.1) Công cụ lãi suất:
Tôi nhất trí với những đánh giá của tác giả về tiến trình kiểm soát lãi suất ở nước ta trong thời kỳ từ năm 1990 đến nay; đặc biệt là các đoạn đánh giá một số nhược điểm của chính sách lãi suất, gây ra những làn sóng chuyển dịch luồng tiền gửi từ VNĐ sang USD rồi lại từ USD sang VNĐ, hoặc cơ chế lãi suất trần kéo dài đã làm méo mó sự phân bổ nguồn vốn và hạn chế sự luân chuyển vốn trong xã hội, hạn chế sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, hạn chế sự phát triển của các công cụ khác của CSTT, thậm chí cản trở huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài hoặc kích thích các tổ chức tín dụng chuyển nguồn vốn trong nước ra nước ngoài...
Tuy nhiên, tôi cho rằng sẽ là thành công hơn nếu tác giả đi sâu phân tích tiến triển của lãi suất thực và chênh lệch giữa lãi suất cho vay thực và lãi suất huy động thực của nền kinh tế, thay vì chỉ xem xét tiến triển của lãi suất danh nghĩa. Thực tế, lãi suất thực mới phản ánh đúng tình trạng căng thẳng trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Đáng tiếc là trong thực thi CSTT, NHNN chỉ chú ý đến các lãi suất danh nghĩa chứ ít khi chú ý tới các lãi suất thực (xem các báo cáo của NHNN), do đó đã liên tục xảy ra những căng thẳng (nóng hoặc lạnh) trên thị trường tiền tệ. Một số đặc điểm về tiến triển của lãi suất thực trong hơn 10 năm qua như sau:
Trong giai đoạn đầu (1990-1991), lãi suất huy động thực và cho vay đều âm rất lớn (trừ lãi suất huy động thực năm 1990), đồng thời lãi suất huy động thực cao hơn lãi suất cho vay thực, trong khi năm 1989, cả hai lãi suất thực này đều dương rất lớn (khoảng 150% và 95%). Điều này phản ánh sự méo mó của cơ chế lãi suất, đồng thời cũng cho thấy chính sách tiền tệ dựa vào kiểm soát tiền tệ chứ không phải kiểm soát lãi suất.
Trong giai đoạn thứ hai (1992-1998), các lãi suất thực đều dương và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, đồng thời lãi suất thực có xu hướng giảm dần do tốc độ giảm lãi suất danh nghĩa nhanh hơn tốc độ giảm tỷ lệ lạm phát. Như vậy, chính sách lãi suất giai đoạn này phù hợp hơn, đã tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn thứ ba (1999-2001), các lãi suất thực lại tăng lên do tỷ lệ lạm phát giảm mạnh đột ngột trong khi lãi suất danh nghĩa giảm chậm. Chúng ta đều thấy trong giai đoạn này, tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư không tăng hoặc tăng chậm, làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tụt xuống mức thấp nhất trong giai đoạn kể từ năm 1990 đến nay.
Trong giai đoạn thứ tư (2002-2003), các lãi suất thực lại có xu hướng giảm do lãi suất danh nghĩa giảm, đồng thời tỷ lệ lạm phát tăng lên (khoảng 4%/năm). Quá trình này cũng đi liền với sự tăng lên của tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mọi người đều biết, lãi suất thực hiện nay vẫn còn cao so với tỷ suất lợi nhuận của nền kinh tế.
Như vậy, do chỉ chú trọng đến ổn định lãi suất danh nghĩa (mà thực ra là không cần thiết) trong khi không dự báo đúng tỷ lệ lạm phát nên lãi suất thực rất biến động, làm cho môi trường đầu tư không ổn định, ảnh hưởng bất lợi tới đầu tư dài hạn và tăng trưởng kinh tế.
2.2) Công cụ dữ trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ rất mạnh để điều tiết tổng cung tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta; tuy nhiên việc sử dụng công cụ này trong giai đoạn đầu rất kém vì chúng ta quá lạm dụng các công cụ trực tiếp của CSTT như hạn ngạch tín dụng, lãi suất, hệ thống NHTMQD... Chỉ đến những năm gần đây, khi quá trình tự do hoá kinh tế đã tiến được những bước khá dài và dưới sức ép của hội nhập quốc tế, NHNN mới buộc phải chuyển sang sử dụng các công cụ điều tiết gián tiếp, và khi đó vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc mới thực sự được phát huy. Tôi hoàn toàn nhất trí với đánh giá của tác giả là đến nay dự trữ bắt buộc đã trở thành một trong những công cụ chủ yếu của CSTT.
Tuy nhiên, tôi không đề cao vai trò của công cụ này trong giai đoạn hiện nay vì thực chất đây là một loại thuế đánh vào các hoạt động ngân hàng, do vậy, làm tăng chi phí hoạt động của chúng, làm tăng lãi suất cho vay và ảnh hưởng bất lợi tới đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Hiện nay đa số các nước công nghiệp và nhiều nước đang phát triển đã không còn sử dụng công cụ này trong điều hành CSTT.
2.3) Nghiệp vụ chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở
Có thể nói đến nay việc sử dụng 2 nghiệp vụ này còn rất yếu, hầu như không có vai trò gì đối với thực thi CSTT, trong khi ở các nước khác, chính đây mới là những công cụ mạnh nhất, quan trọng nhất.
Kết luận chung về chính sách tiền tệ:
Tóm lại, tôi nhất trí với tác giả là lãi suất là công cụ cơ bản để điều hành CSTT trong hơn 10 năm qua, trong khi vai trò của các công cụ điều tiết gián tiếp rất yếu. Tuy nhiên, bên cạnh công cụ lãi suất, cần phải kể đến nhiều công cụ quản lý trực tiếp khác có vai trò quan trọng không kém công cụ lãi suất, đáng kể nhất là hạn ngạch tín dụng, chính sách tín dụng lựa chọn, phát hành ngân phiếu, kỳ phiếu và đặc biệt là can thiệp thông qua chỉ đạo hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh. Chỉ đến khi những công cụ này không còn được phép sử dụng rộng rãi nữa thì NHNN mới tìm cách chuyển sang sử dụng các công cụ điều tiết gián tiếp.
Tiếc rằng do không có sự chuẩn bị chủ động từ trước nên đến nay NHNN vẫn tỏ ra rất bị động trước các biến động tiền tệ như các Báo cáo của NHNN cho thấy và như tác giả đã phân tích trong 10 trang cuối bản báo cáo. Điển hình là chưa xác định được cơ chế truyền tải của các chính sách của NHNN tới thị trường tiền tệ, thị trường vốn (trang 14), chưa xác định được độ trễ của các công cụ của CSTT (trang 16), sự yếu kém quá mức của bản thân thị trường tiền tệ và thị trường vốn (trang 21)... Khi mà cả cơ chế truyền tải và độ trễ còn chưa xác định được đồng thời đối tượng để áp dụng (thị trường tiền tệ, thị trường mở) còn rất yếu kém, phôi thai... thì CSTT bị động và kém hiệu quả là đương nhiên. Trong bối cảnh đó, việc kéo dài thắt chặt tiền tệ hoặc chỉ dám nới lỏng thận trọng khi sức ép của nền kinh tế đã quá lớn cũng là giải pháp tự nhiên; nhất là với một đội ngũ cán bộ ngân hàng luôn luôn lo sợ do đã trải qua nhiều đợt khủng hoảng tiền tệ trong những năm 1985-1990. Cũng do vậy, và do bị mất công cụ điều tiết trực tiếp nên khi lạm phát quá thấp hoặc khi lãi suất thực trở lên quá cao như đã xảy ra trong những năm gần đây, NHNN đã tỏ ra rất khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu lạm phát 5% do Quốc hội đề ra[5] hoặc cắt giảm lãi suất thực.
Rất may là tình hình đáng lo ngại này mới chỉ diễn ra trong những năm từ 1998-1999 đến nay, khi mà nền kinh tế nước ta đang tăng trưởng thấp, cung lớn hơn cầu, tỷ lệ lạm phát quá thấp... nên chưa phát sinh hậu quả lớn. Tuy nhiên, để phòng ngừa tình trạng nguy hiểm bùng phát khi tăng trưởng kinh tế trở lên nóng hơn, NHNN cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công cụ điều tiết trong chính sách tiền tệ của mình, đáp ứng yêu cầu thực thị một chính sách tiền tệ tích cực, chủ động, vì mục tiêu động viên đầu tư, tăng trưởng và ổn định lạm phát (tôi đặt vai trò của mục tiêu đầu tư, tăng trưởng lên trên vai trò của mục tiêu ổn định lạm phát). Đây mới là nhiệm vụ trung tâm của chính sách tiền tệ hiện nay chứ không phải là yêu cầu đòi sự độc lập của NHNN đối với Chính phủ. Một khi mà NHNN thực thi CSTT còn quá yếu kém như hiện nay thì càng trao cho NHNN sự độc lập thì NHNN càng không dám hành động vì lo sợ phải gánh chịu toàn bộ hậu quả do CSTT của mình gây ra.
3) Về chính sách tỷ giá:
Tôi xin nói thêm một chút về chính sách tỷ giá. Tại các nước phát triển, tỷ giá không phải là một công cụ của CSTT mà chỉ là một trong những chỉ tiêu (hay mục tiêu) mà chính sách tiền tệ phải chú ý đến, giống như tăng trưởng kinh tế hay cân bằng cán cân thanh toán quốc tế... vì trong các nước đó người ta chỉ sử dụng nội tệ để giao dịch, thanh toán. Đồng tiền ở các nước đó cũng đã được tự do chuyển đổi. Chỉ có ở một số ít nước như nước ta, do tỷ lệ đô la hoá nền kinh tế quá cao và ngoại tệ đã được sử dụng trực tiếp làm phương tiện thanh toán như nội tệ thì tỷ giá mới được xem là một công cụ (hoặc mục tiêu) của CSTT.
Ở nước ta, việc sử dụng công cụ tỷ giá có quá nhiều vấn đề cần nghiên cứu sâu sắc và toàn diện. Tỷ giá danh nghĩa ở nước ta đã trải qua giai đoạn được thả nổi hoàn toàn (1989-1991) dẫn tới nội tệ bị mất giá nghiêm trọng (cuối năm 1991 đạt 14.500 đồng/ USD, và phải 10 năm sau mới quay lại mức này), đến chỗ bị kiểm soát quá chặt (1992-1997) và rồi được nới lỏng trong giai đoạn từ sau khủng hoảng tiền châu á, rồi lại được quản lý chặt trong vài năm gần đây... Hậu quả là nội tệ bị đánh giá cao như tác giả đã đánh giá, ảnh hưởng bất lợi tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếc rằng báo cáo viết về tỷ giá quá sơ sài và tôi không có thời gian nên không thể trình bày dài ở đây.
Đáng tiếc là cũng như trong trường hợp lãi suất, NHNN trong điều hành chính sách tỷ giá chỉ chú trọng tới tỷ giá danh nghĩa mà hầu như không xét tới tỷ giá thực trong khi tỷ giá thực mới là công cụ để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo sự cân đối dài hạn giữa giá cả hàng hoá trên thị trường trong nước và giá cả hàng hoá đó trên thị trường quốc tế[6].
Mặt khác, phương thức xử lý mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá ở nước ta còn rất bất cập và đã kéo dài trong suốt một thập kỷ qua: Do tham vọng muốn kiểm soát đồng thời tỷ giá và tổng cung tiền tệ (qua đó thực hiện mục tiêu cuối cùng là ổn định lạm phát), NHNN đã tự mình làm méo mó CSTT và khó có thể có được cơ chế truyền tải CSTT đúng đắn và ổn định vì lý thuyết cán cân thanh toán quốc tế cũng như lý thuyết tiền tệ đã chỉ rõ muốn kiểm soát tỷ giá thì phải tự do hoá cung tiền tệ, hoặc ngược lại muốn kiểm soát cung tiền tệ thì phải tự do hoá tỷ giá; tức là không thể để hai biến này cùng ngoại sinh hoặc cùng nội sinh nhưng với 2 mục tiêu tính toán hoàn toàn độc lập nhau như NHNN mong muốn.
[2] Tôi cho rằng có nhiều nguyên nhân làm cho tỷ lệ lạm phát ở nước ta có thể cao hơn so với trung bình của các nước có điều kiện tương tự. Đó là vì:
Một là, nhà nước còn tiếp tục phải tăng giá các sản phẩm của khu vực kinh tế nhà nước theo chương trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường để tăng thu ngân sách và giảm bù lỗ cho các doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm cơ bản phục vụ dân sinh như điện, nước nên giá cả chung phải tăng.
Hai là, do tính thời vụ của của một số loại hàng hoá, nhất là hàng lương thực thực phẩm, sẽ còn xảy ra những mất cân đối cung và cầu thời vụ, làm cho mặt bằng giá bị đẩy lên.
Ba là, ảnh hưởng của tăng giá trên thị trường quốc tế tới mặt bằng giá nội địa trong quá trình hội nhập và mở cửa ngày càng mạnh.
Bốn là, chất lượng hàng hoá tăng lên khá nhanh trong những năm cải cách, ít nhất cũng 5-7% mỗi năm vì khoảng 40-50% tỷ lệ tăng trưởng của nước ta có nguồn gốc từ vốn nhập khẩu từ nước ngoài trong khi chất lượng sản phẩm của khu vực này tăng lên rất nhanh do bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Để tăng chất lượng sản phẩm, rõ ràng các doanh nghiệp trong nước phải tăng chi phí sản xuất và đầu tư nên việc giá cả tăng thêm 5-7% là hoàn toàn hợp lý.
Năm là, cần phải có một tỷ lệ lạm phát nhất định để kích thích tiêu dùng... Theo kinh nghiệm quốc tế, tỷ lệ này khoảng 2-3% hàng năm là hợp lý.
Một là, nhà nước còn tiếp tục phải tăng giá các sản phẩm của khu vực kinh tế nhà nước theo chương trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường để tăng thu ngân sách và giảm bù lỗ cho các doanh nghiệp đang sản xuất các sản phẩm cơ bản phục vụ dân sinh như điện, nước nên giá cả chung phải tăng.
Hai là, do tính thời vụ của của một số loại hàng hoá, nhất là hàng lương thực thực phẩm, sẽ còn xảy ra những mất cân đối cung và cầu thời vụ, làm cho mặt bằng giá bị đẩy lên.
Ba là, ảnh hưởng của tăng giá trên thị trường quốc tế tới mặt bằng giá nội địa trong quá trình hội nhập và mở cửa ngày càng mạnh.
Bốn là, chất lượng hàng hoá tăng lên khá nhanh trong những năm cải cách, ít nhất cũng 5-7% mỗi năm vì khoảng 40-50% tỷ lệ tăng trưởng của nước ta có nguồn gốc từ vốn nhập khẩu từ nước ngoài trong khi chất lượng sản phẩm của khu vực này tăng lên rất nhanh do bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Để tăng chất lượng sản phẩm, rõ ràng các doanh nghiệp trong nước phải tăng chi phí sản xuất và đầu tư nên việc giá cả tăng thêm 5-7% là hoàn toàn hợp lý.
Năm là, cần phải có một tỷ lệ lạm phát nhất định để kích thích tiêu dùng... Theo kinh nghiệm quốc tế, tỷ lệ này khoảng 2-3% hàng năm là hợp lý.
Từ các phân tích trên, một tỷ lệ tăng giá 7-8% trong giai đoạn phát triển bình thường và khoảng 10% trong giai đoạn tăng trưởng cao là hợp lý cho trường hợp nước ta. Trên thực tế, trong giai đoạn kinh tế phát triển ổn định 1992-1998, tỷ lệ lạm phát trung bình của ta là 9,6%/năm. Chúng ta còn thấy trong những năm tỷ lệ lạm phát quá cao hoặc quá thấp, nền kinh tế đều có những biểu hiện không bình thường (tăng trưởng quá nóng hoặc tăng trưởng quá chậm). Chính vì vậy, tỷ lệ lạm chỉ 3-4% là quá thấp, gây ảnh hưởng rất tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế.
[3] Từ giữa năm 1993, NHNN đã đưa vào lưu thông các loại ngân phiếu với mệnh giá 5 triệu, 1 triệu và 500.000 đồng; thực chất đây là tiền mặt có mệnh giá cao. Tuy nhiên, loại tiền này có nhược điểm lớn là giá trị lưu hành ngắn (3 tháng) và chi phí phát hành cao, nên có nhiều ý kiến đề nghị sớm chấm dứt sử dụng loại tiền này. Đáng tiếc là công cụ này đã được sử dụng kéo dài đến tận tháng 4 năm 2002 mới chấm dứt. Sau khi bỏ ngân phiếu, NHNN yêu cầu mọi thanh toán các khoản lớn đều phải được thực hiện qua tài khoản; nhưng trong thực tế đã không làm được nhiều. Trước nhu cầu khách quan của cuộc sống và sức ép của hoạt động kinh tế, từ 17/12/2003, NHNN đã đưa vào lưu thông loại tiền có giá trị cao nhất từ trước đến nay là 500.000 đồng.
[4] Thực ra, đây chính là giai đoạn cần tiếp tục mở rộng chính sách nới lỏng tiền tệ. Nhưng do cách điều hành méo mó hiện nay của NHNN làm cho phân bổ tín dụng rất bất hợp lý như hiện nay, ví dụ như không cấp tín dụng cho những nơi sử dụng có hiệu quả như doanh nghiệp tư nhân, nông nghiệp và nông thôn, mà chỉ chú trọng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước; hoặc tiếp tục cho các DNNN thua lỗ vay để nuôi con nợ; hoặc cố tình cho vay không tính đến hiệu quả kinh tế để thu lợi cá nhân..., thì thà không mở rộng CSTT còn hơn càng mở rộng, càng kém hiệu quả và càng có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng toàn diện hệ thống ngân hàng.
[5] Chỉ số giá tiêu dùng 2 năm 2002-2003 tăng lên chủ yếu do tăng giá nông sản thế giới và chiến tranh I Rắc; đây là những nguyên nhân bên ngoài.
[6] Vì tỷ giá là công cụ để chuyển hệ thống giá trong nước thành giá quốc tế và ngược lại.
Kiến thức nhiều thế mà sao không nghiên cứu tiếp nhỉ ?
Trả lờiXóagiỏi ưa trời lun
Trả lờiXóaTôi thực sự ngạc nhiên kiến thức uyên bác của ông. Và ngạc nhiên nhất là tại sao ông không dung tài năng của mình giúp nước hay là cơ quan công quyền đã không "chiêu hiền đãi sĩ".
Trả lờiXóa